Vì sao Mỹ phải ký Hiệp định Paris chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam

Mục lục

Quá trình đàm phán

Bài chi tiết: Hội nghị Paris, mặt trận ngoại giao năm 1968-1972

Việc đàm phán giữa Hoa Kỳ và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là được Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đề xướng nhằm đạt được một nền hòa bình, thống nhất ở Việt Nam[1]. Sau sự kiện Tết Mậu Thân năm 1968 các bên đã ngồi vào thương lượng cho tương lai chiến tranh Việt Nam. Việc thương lượng đã diễn ra rất phức tạp. Vì một mặt, các bên chưa thật sự thấy cần nhượng bộ và mặt khác, Liên Xô và Trung Quốc muốn tham gia vào đàm phán - đặc biệt là Trung Quốc. Nước này không muốn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tự đàm phán mà muốn tham gia vào quá trình đó, như Hiệp định Genève năm 1954. Nhưng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã từ chối dù bị áp lực bởi hai đồng minh, việc đàm phán do họ tự quyết định và tiến hành.

Sau nhiều lần thỏa thuận, địa điểm tổ chức hội đàm được chọn là thành phố Paris, thủ đô nước Cộng hòa Pháp. Thời gian đàm phán kéo dài từ tháng 5 năm 1968 đến tháng 1 năm 1973. Các bên tham gia ban đầu chỉ có Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Hoa Kỳ; sau mở ra thành hội nghị bốn bên, có thêm Việt Nam Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam cũng đã đưa ra các giải pháp hòa bình, trong đó đề nghị 10 điểm ngày 8-5-1969 mà sau này đã trở thành xương sống cho bản Hiệp định năm 1973.[1]

Trong quá trình đàm phán, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam không muốn công nhận Việt Nam cộng hòa, trong khi Việt Nam cộng hòa không muốn công nhận Mặt trận và Cộng hòa Miền Nam Việt Nam khiến hội nghị bế tắc một thời gian dài. Bên cạnh đó, Hội nghị cũng bế tắc do sự thiếu thiện chí trong đàm phán của Hoa Kỳ.

Trong quá trình đàm phán, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và bản dự thảo tháng 10/1972 không hề đả động tới tình trạng Quân đội Nhân dân Việt Nam ở miền Nam mà luôn đòi hỏi Hoa Kỳ phải rút quân. Trong khi đó, Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa luôn đưa ra yêu sách Quân đội Nhân dân Việt Nam phải rút khỏi miền Nam cùng lúc với Quân đội Hoa Kỳ rút khỏi miền Nam.

Giai đoạn 1968-1972

Khi một bên đang thắng thế trên chiến trường thì đàm phán thường bế tắc và điều đó đúng với Hội nghị Paris suốt thời kỳ từ 1968 đến 1972. Các bên dùng hội nghị như diễn đàn đấu tranh chính trị. Trong giai đoạn này, các phiên đàm phán thường rơi vào bế tắc do tình trạng giằng co trên chiến trường và do phía Hoa Kỳ không chịu đi vào đàm phán thực chất đối với việc rút quân Mỹ. Giai đoạn này cũng xảy ra các cuộc tiếp xúc bí mật của 2 cố vấn đặc biệt: Lê Đức Thọ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Tiến sĩ Henry Kissinger, cố vấn của Tổng thống Hoa Kỳ - Richard Nixon, là đi vào thảo luận thực chất, nhưng cũng không đi được đến thoả hiệp do lập trường các bên quá khác biệt và cục diện chiến trường chưa nghiêng hẳn về bên nào.

Một số mốc thời gian đáng chú ý trong giai đoạn này:

  • Ngày 31 tháng 3 năm 1968, Tổng thống Mỹ Johnson tuyên bố đơn phương ngừng đánh phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra; không ra tranh cử Tổng thống Mỹ nhiệm kỳ 2 và cử người đàm phán với đại diện Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tại Paris. Ngày 3 tháng 4 năm 1968, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tuyên bố: Sẵn sàng cử đại diện của mình tiếp xúc với đại diện của Mỹ.
  • Ngày 03 tháng 4 năm 1968, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tuyên bố: Sẵn sàng cử đại diện của mình tiếp xúc với đại diện của Mỹ nhằm xác định với Mỹ việc Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà để có thể bắt đầu cuộc nói chuyện.
  • Ngày 13 tháng 5 năm 1968, Hội nghị Paris giữa 2 bên khai mạc. Do lập trường cương quyết của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Mỹ buộc phải ngồi nói chuyện chính thức với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và từ tháng 6 năm 1969 là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam.
  • Ngày 18 tháng 1 năm 1969, phiên họp đầu tiên của Hội nghị Paris về Việt Nam khai mạc tại phòng họp của trung tâm Hội nghị quốc tế ở Paris.
  • Ngày 25 tháng 1 năm 1969, khai mạc phiên họp toàn thể lần thứ nhất của Hội nghị bốn bên về Việt Nam ở Pari.
  • Ngày 08 tháng 5 năm 1969, phái đoàn Cộng hòa miền Nam Việt Nam tạo ra đột phá khi đưa ra "giải pháp hòa bình 10 điểm" trong đó nêu rõ Mỹ phải rút quân, thành lập chính phủ liên hiệp tại miền Nam
  • Ngày 04 tháng 8 năm 1969, tiến sĩ Henry Kissinger, cố vấn an ninh quốc gia của Nhà trắng bí mật gặp Bộ trưởng Xuân Thủy[cần dẫn nguồn] lần đầu ở Pari.
  • Ngày 25 tháng 8 năm 1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời thư của Tổng thống Mỹ Nixon, nêu rõ: Muốn có hoà bình, Mỹ phải chấm dứt chiến tranh xâm lược và rút quân ra khỏi miền Nam Việt Nam, tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam và của dân tộc Việt Nam. Đó là con đường để Mỹ rút khỏi cuộc chiến tranh trong danh dự.[7]
  • Ngày 21 tháng 1 năm 1970, Hoa Kỳ tiến hành oanh tạc miền Bắc
  • Ngày 26 tháng 1 năm 1970, phái đoàn Cộng hòa miền Nam Việt Nam chấp nhận ngừng bắn với điều kiện Mỹ phải rút quân, thành lập chính phủ liên hiệp tại miền Nam để Tổng tuyển cử thống nhất với miền Bắc
  • Ngày 21 tháng 2 năm 1970, cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ và Bộ trưởng Xuân Thủy gặp Kissinger. Từ đó bắt đầu cuộc gặp riêng giữa cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ và Kissinger.

Giai đoạn 1972-1973

Bài chi tiết: Hội nghị Paris, mặt trận ngoại giao năm 1972

Đến giữa năm 1972, khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có chủ trương chuyển hướng sang chiến lược hòa bình.[8] Áp lực quốc tế và trong nước đối với Hoa Kỳ về việc ký kết thỏa thuận hòa bình ngày càng tăng, đặc biệt áp lực tăng tới đỉnh điểm khi Chiến dịch Lam Sơn 719 của Quân lực Việt Nam Cộng hòa thất bại và được coi là minh chứng cho việc Chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh của Hoa Kỳ đã sụp đổ, thì đàm phán mới đi vào thực chất thoả hiệp.

  • Lập trường ban đầu của Hoa Kỳ: quân đội Hoa Kỳ cùng các đồng minh nước ngoài rút khỏi Việt Nam phải đồng thời với việc Quân đội Nhân dân Việt Nam rút khỏi Nam Việt Nam. Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu có quyền tồn tại trong giải pháp hoà bình. Không có Tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam.
  • Lập trường ban đầu của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: các lực lượng quân đội Hoa Kỳ phải rút khỏi Việt Nam. Thành lập Chính phủ liên hiệp lâm thời gồm 3 lực lượng chính trị: Chính quyền Sài Gòn, Chỉnh phủ Cách mạng Cộng hòa miền Nam Việt Nam và lực lượng trung lập để tiến hành Tổng tuyển cử thống nhất với miền Bắc. Việc đòi hỏi Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân đội Hoa Kỳ cùng rút khỏi miền Nam Việt Nam là một sự đánh đồng không thể chấp nhận được.[9]

Cuối năm 1972, đã quá mệt mỏi vì chiến tranh kéo dài với những thất bại liên tiếp và số lượng thương vong ngày một tăng trong khi không thể khuất phục Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trên chiến trường và bị dư luận trong nước và quốc tế đòi hỏi giải quyết vấn đề hoà bình ở Việt Nam trong thời gian nhiệm kỳ tổng thống của mình như đã hứa, chính phủ Hoa Kỳ của Tổng thống Richard Nixon đã nhượng bộ trong vấn đề cốt lõi này. Về phía mình, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng nhượng bộ về vấn đề tiếp tục tồn tại của chính quyền của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu nhằm thành lập chính phủ liên hiệp.

Dự thảo khung của thoả hiệp đạt được là: "Quân đội Mỹ và các đồng minh nước ngoài phải rút khỏi Việt Nam chính quyền của Tổng thống Thiệu được quyền tồn tại trong một giải pháp hoà bình, trao trả tù binh không điều kiện trong vòng 60 ngày."

Các mốc thời gian

  • Ngày 25 tháng 1 năm 1972, Tổng thống Mỹ Nixon đơn phương công bố nội dung các cuộc gặp riêng về đề nghị Tám điểm đưa ra ngày 16 tháng 8 năm 1971.
  • Ngày 31 tháng 1 năm 1972, tại Paris, đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hoà công bố giải pháp Chín điểm, đồng thời vạch rõ việc Nhà trắng đã vi phạm thoả thuận hai bên không công bố nội dung các cuộc gặp riêng theo đề nghị của chính Kissinger. Việt Nam Dân chủ Cộng hoà cũng đã phân phát cho tất cả các tờ báo những công hàm trao đổi giữa hai bên về cuộc họp ngày 20 tháng 10 năm 1971.
  • Ngày 24 tháng 3 năm 1972, Tổng thống Nixon tuyên bố hoãn vô thời hạn các phiên họp công khai Hội nghị Paris về Việt Nam. Tiếp đó, ngày 8 tháng 5 năm 1972, chưa đầy một tuần sau phiên gặp riêng giữa Lê Đức Thọ, Xuân Thủy và Kissinger, Nixon tuyên bố tiến hành một bước leo thang mới mở rộng quy mô đánh phá miền Bắc kể cả bằng lực lượng không quân chiến lược, thả mìn cảng Hải Phòng cùng các cửa sông, lạch, trên vùng biển phong toả miền Bắc Việt Nam.
  • Ngày 13 tháng 7 năm 1972, Mỹ chấp nhận họp lại Hội nghị toàn thể bốn bên tại Paris.
  • Ngày 11 tháng 9 năm 1972, lần đầu tiên kể từ khi Kissinger bắt đầu hội đàm bí mật với Hà Nội vào tháng 8 năm 1969, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã gợi ý rằng họ có thể sẽ chấp nhận một cuộc ngừng bắn tại Nam Việt Nam mà không cần loại bỏ chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Một sự thỏa hiệp bắt đầu có vẻ khai thông.[10]
  • Ngày 12 tháng 10, Kissinger và Lê Đức Thọ đi đến một bản nháp hiệp định gồm 9 điểm. Nội dung đó chưa đầy đủ nhưng nó đã tạo được một bước đột phá lớn. Dự thảo đã tách các vấn đề thuần túy quân sự khỏi các vấn đề chính trị. Nó cho phép một cuộc ngừng bắn tại chỗ, sự rút quân đội Mỹ và đồng minh nước ngoài về nước, sự trao trả tù binh Mỹ trong vòng 60 ngày, và thiết lập một quy trình mơ hồ mà qua đó người Việt Nam sau đó sẽ tự quyết định tương lai của mình. Theo nghĩa rộng, sự thỏa hiệp này cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tồn tại như một chính phủ có liên quan đến giải pháp hoà bình, cho lực lượng cộng sản Việt Nam một vị thế chính thức tại miền Nam Việt Nam, đồng thời khẳng định lập trường nguyên tắc của Hà Nội rằng Việt Nam là một quốc gia chỉ đang tạm thời bị chia cắt. Bản dự thảo này đã đáp ứng được yêu cầu của Hoa Kỳ là ra đi trong danh dự và đáp ứng được các yêu cầu cơ bản của phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.[10]
  • Ngày 13 đến 16 tháng 10, Tổng thống Richard Nixon sau khi nghiên cứu đã chấp thuận nội dung dự thảo, rồi điều Kissinger đến Sài Gòn để thuyết phục Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.[10]
  • Ngày 18 đến 23 tháng 10, Kissinger đến Sài Gòn gặp Nguyễn Văn Thiệu. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu không tỏ thái độ mà chỉ yêu cầu làm rõ và so sánh giữa hai bản tiếng Việt và tiếng Anh. Kissinger tưởng rằng Thiệu sẽ chấp thuận, ông thông báo với Nixon như vậy. Theo tinh thần đó, ngày 21 tháng 10, Nixon gửi thông điệp cho Hà Nội khẳng định rằng dù một số vấn đề cần làm rõ, "nội dung hiệp định đã có thể được coi là hoàn chỉnh" và việc ký kết ngày 31 tháng 10 có thể khả thi. Kissinger sẽ tới Hà Nội ngày 24 để tổng kết phiên đàm phán cuối cùng dài 2 ngày, và một tuần sau sẽ ký kết chính thức tại Paris.[10]
  • Ngày 23 tháng 10, tại cuộc gặp thứ năm và là cuộc gặp cuối cùng tại Sài Gòn, cuối cùng Tổng thống Thiệu đã tuyên bố chính thức các đánh giá của mình: ông phản đối kịch liệt bản dự thảo 9 điểm coi đây là hiệp định hy sinh quyền lợi của Việt Nam Cộng hoà, đòi các lực lượng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải rút hoàn toàn ra khỏi miền Nam Việt Nam, thiết lập vùng phi quân sự làm biên giới với miền Bắc. Ông còn coi giải pháp hội đồng hiệp thương là một hình thức chính phủ liên bang trá hình. Tổng thống Thiệu lên đài phát thanh tuyên bố bác bỏ nguyên tắc một nước Việt Nam thống nhất: "Bắc Việt Nam là Bắc Việt Nam và Nam Việt Nam là Nam Việt Nam, mọi người phải chấp nhận thực tế là tồn tại hai nước Việt Nam, không bên nào được xâm lược bên nào". Nixon gửi thông điệp cho Hà Nội nói rằng do các khó khăn ở Sài Gòn, việc ký kết vào ngày 31 là không thể được và đề nghị một vòng đàm phán mới. Chuyến bay của Kissinger tới Hà Nội bị hủy bỏ.[10]
  • Ngày 25 tháng 10, báo động bởi việc Nixon rút lui khỏi ký kết và bởi phản đối của Thiệu, Hà Nội công bố tóm tắt nội dung bản dự thảo và cảnh báo về các hậu quả nghiêm trọng nếu Mỹ không ký kết vào ngày 31 tháng 10. Mục đích là để ép Mỹ giữ vững giao ước ban đầu bất kể đến Thiệu. Khi tin này đến Washington D.C. vào sáng 26 tháng 10, Kissinger lên truyền hình tuyên bố "hòa bình trong tầm tay", với mục đích đảm bảo với Hà Nội và cảnh báo Sài Gòn về mong muốn nghiêm túc của Washington về một sự dàn xếp. Chỉ 6 tiếng sau, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gửi điện đồng ý với một vòng đàm phán mới tại Paris.[10]
  • Ngày 2 tháng 11, Nixon tuyên bố trên truyền hình rằng bản dự thảo còn có những phần "mập mờ" "cần làm rõ trước khi ký kết bản hiệp định cuối cùng". Ông quyết định sẽ thỏa mãn mọi ngờ vực của Thiệu về vấn đề chủ quyền, và chỉ thị Kissinger tìm kiếm một nhượng bộ về khía cạnh khu phi quân sự, và nếu đạt được điều đó thì họ sẽ ép Thiệu ký. Nếu Thiệu vẫn tiếp tục từ chối thì Mỹ sẽ ký kết hiệp ước hòa bình riêng với Hà Nội.[10]
  • Ngày 20 đến 25 tháng 11, Kissinger cuối cùng cũng quay lại Paris. Hai bên đi đến được đồng thuận về ngôn ngữ khẳng định rằng khu vực phi quân sự là đường phân chia chính trị khu vực.[10]
  • Ngày 29 tháng 11, Nguyễn Phú Đức, đặc phái viên của Thiệu, bay đến Washington D.C. báo với Nixon rằng nhượng bộ của Hà Nội là không đủ. Nixon loại bỏ hầu hết các yêu cầu của Đức trong đó có cả việc rút Quân đội Nhân dân Việt Nam ra khỏi miền Nam. Nhưng Nixon vẫn chưa yên tâm về vấn đề khu phi quân sự và yêu cầu Kissinger đưa vấn đề này ra bàn lại tại Paris.[10]
  • Ngày 3 tháng 12, dự đoán về một thất bại trong đàm phán và Mỹ ném bom trở lại, Hà Nội bắt đầu sơ tán trẻ em ở thủ đô về nông thôn.[10]
  • Ngày 4 đến 13 tháng 12, đàm phán tiếp tục tại Paris suôn sẻ cho đến khi phía Mỹ một lần nữa lật lại vấn đề cốt lõi: quy chế của lực lượng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và nêu vấn đề khu phi quân sự. Phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phản ứng bùng nổ bằng cách thu hồi các nhượng bộ từ các buổi họp trước đó và đưa ra đòi hỏi mới, trong đó có việc lật lại vấn đề cơ bản về trao trả tù binh Mỹ. Tháng 10, phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã đồng ý trao trả tù binh Mỹ vô điều kiện trong vòng 60 ngày. Nay họ muốn gắn việc trao trả tù binh với việc thả hàng ngàn tù chính trị tại Nam Việt Nam - một vấn đề mà họ đã từng đồng ý dành nó cho các thương thảo cụ thể sau này giữa các bên Việt Nam. Nixon triệu hồi Kissinger về Mỹ và ngừng đàm phán.[10]
  • Ngày 14 tháng 12, Nixon gửi một tối hậu thư cho Hà Nội: trong 72 giờ đồng hồ để quay lại ký theo phương án Hoa Kỳ đề nghị, nếu không sẽ ném bom lại Bắc Việt Nam.[10]
  • Ngày 18 tháng 12, Hoa Kỳ bắt đầu cho máy bay B–52 ném bom rải thảm Hà Nội, Hải Phòng và các mục tiêu khác. Đợt ném diễn ra trong 12 ngày [18 tháng 12 đến 30 tháng 12], đó là Chiến dịch Linebacker II. Không khuất phục được Hà Nội, bị thiệt hại nặng nề cho lực lượng không quân với ít nhất 30 chiếc máy bay ném bom chiến lược B-52 và 5 chiếc F-111 bị bắn hạ [Việt Nam cho tới nay vẫn tự hào rằng chỉ có họ mới bắn rơi B-52 Mỹ] và nhất là bị dư luận quốc tế và trong nước phản đối mạnh mẽ, chính phủ Hoa Kỳ buộc phải chấm dứt ném bom quay lại đàm phán và đồng ý ký kết Hiệp định Paris theo phương án đã ký tắt hồi tháng 10 với một vài sửa đổi nhỏ có tính kỹ thuật.
  • Ngày 22 tháng 12, Hoa Kỳ gửi công hàm yêu cầu họp lại. Ngày 26/12, Việt Nam yêu cầu Mỹ trở lại tình hình trước ngày 18/12 mới họp. Hoa Kỳ chấp nhận.
  • Ngày 8/1/1973, nối lại đàm phán lúc 11 giờ trưa tại ngôi nhà ở Gif-sur-Yvette. Lê Đức Thọ nổ phát súng đầu: "Chính các ông đã làm cho danh dự nước Mỹ bị hoen ố". Kissinger không bào chữa hăng hái như những lần trước, chỉ thanh minh. Hai ngày sau, 10/1/1973, Kissinger thử lần chót việc đòi đối phương rút quân khỏi miền Nam nhưng thất bại. Ngày 13/1/1973, hoàn thành hiệp định trong cuộc gặp riêng lần cuối cùng.
  • Chính phủ Việt Nam Cộng hòa không tán thành hiệp định vì những nhượng bộ của Hoa Kỳ đẩy họ vào thế nguy hiểm. Nixon rất tức giận khi Nguyễn Văn Thiệu cản chân ông. Theo hồ sơ mới giải mật gần đây của phía Mỹ thì Nixon có nói: Nếu Thiệu không ký hiệp định thì sẽ "lấy đầu" ông ta [tức Thiệu]. Nixon đã nói với Kissinger như sau: "Ông sẽ hiểu thế nào là sự tàn bạo nếu tên khốn kiếp đó [ce salaud] không chịu chấp nhận, ông hãy tin lời tôi". Ngày 16 tháng 1 năm 1973, Đại tướng Haig trao cho Nguyễn Văn Thiệu bức thư của Nixon, mà Kissinger gọi là "bốc lửa". Trong thư này đoạn quan trọng nhất là: "Vì vậy chúng tôi đã quyết định dứt khoát sẽ ký tắt Hiệp định ngày 23 tháng 1 năm 1973 tại Paris. Nếu cần thiết, chúng tôi sẽ làm như thế một mình. Trong trường hợp đó, tôi phải giải thích công khai rằng Chính phủ của ông cản trở hoà bình. Kết quả là sự chấm dứt không tránh khỏi và lập tức của viện trợ kinh tế và quân sự của Hoa Kỳ - và một sự sắp xếp lại Chính quyền của ông cũng chẳng thay đổi được tình hình".[4] Trước sức ép của Mỹ, Việt Nam Cộng hòa cuối cùng phải chấp nhận ký kết hiệp định.
  • Hiệp định Paris được ký kết vào ngày 27 tháng 1 năm 1973 như một thắng lợi quan trọng của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Ngày 29 tháng 3 năm 1973, quân nhân Mỹ cuối cùng rời Việt Nam, chấm dứt mọi can thiệp quân sự trực tiếp của Hoa Kỳ đối với vấn đề Việt Nam, Hoa Kỳ sẽ chỉ còn duy trì viện trợ và cố vấn quân sự. Từ thời điểm này, tuy vẫn nhận viện trợ quân sự và kinh tế từ Hoa Kỳ nhưng Quân lực Việt Nam Cộng hòa phải đơn phương trực tiếp chiến đấu với Quân giải phóng miền Nam Việt Nam. Đầu năm 1974, Quân lực Việt Nam Cộng hòa tiếp tục có những đợt tấn công nhằm vào lực lượng đối phương tại các khu vực trọng điểm như tại Quân khu 5, Kon Tum, Pleiku, xung quanh Sài Gòn,... Tuy nhiên, từ giữa năm 1974, cường độ tấn công của Quân lực Việt Nam Cộng hòa giảm dần và tương quan lực lượng thực sự nghiêng về Quân giải phóng miền Nam Việt Nam từ cuối năm 1974, thậm chí là thay đổi với tốc độ chóng mặt vì tinh thần của Quân lực Việt Nam Cộng hòa xuống chưa từng thấy khi mất nguồn viện trợ từ Hoa Kỳ cũng như các chiến dịch trước đó không đạt được yêu cầu đề ra.[11][12] Về phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, sau Thông cáo Thượng hải 1972 giữa Hoa Kỳ và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cũng giảm đáng kể lượng viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Có những lúc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ chối nhận viện trợ nếu khoản viện trợ đó đi kèm những điều kiện mà họ không chấp nhận. Khi Trung Quốc đề nghị viện trợ 500 chiếc xe vào Trường Sơn với điều kiện lái xe là người Trung Quốc, Tổng Bí thư Lê Duẩn không đồng ý nhận bất cứ một chiếc xe nào vì tin rằng Trung Quốc lồng ghép vào đó những toan tính riêng của họ [Trung Quốc từng mượn đường vào đánh Chiêm Thành thời nhà Trần, rồi từng lấy cớ vào giúp Lê Chiêu Thống để kéo quân vào Hà Nội]. Có người trong Bộ Chính trị đề nghị "sao không nhận một vài chiếc cho người ta vui?", nhưng ông trả lời: "Chừng nào tôi còn ngồi đây, thì tôi không cho một kẻ nào nghĩ trong đầu rằng có thể cướp được đất nước Việt Nam này".[13] Bên cạnh đó, Liên Xô cũng chủ trương không viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Miền Nam Việt Nam những vũ khí hiện đại hơn như xe tăng T-62, tên lửa phòng không S-125 Neva/Pechora, tiêm kích MiG-23 song song với việc giảm số lượng viện trợ đối với những loại vũ khí Quân giải phóng miền Nam Việt Nam đang sở hữu xuống chỉ còn một nửa, thậm chí một phần ba. Theo thống kê của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong 2 năm 1973-1974, tổng cộng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhận được 114.532 tấn viện trợ quân sự, trị giá 339.355.353 rúp [~330 triệu USD], chỉ bằng 19% so với 2 năm 1971-1972.[14] Trên thực tế, quân số và vũ khí Việt Nam Cộng hòa [920.000 người] vẫn vượt trội hơn hẳn so với Quân đội Nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam [219.000 người]. Tổng viện trợ của Mỹ dành cho Việt Nam Cộng hòa trong năm tài khóa 1974 là hơn 657 triệu USD, con số này gần gấp đôi tổng viện trợ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhận được từ Liên Xô trong cả hai năm 1973-1974[15]

Hiệp định Pari năm 1973 - Chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam

Hiệp định Pari năm 1973 - Chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam

Hiệp định Pari về Việt Nam là kết quả của cuộc đấu tranh kiên cường bất khuất của nhân dân ta ở cả hai miền đất nước, đã tạo ra bước ngoặt mới trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc Việt Nam. Từ Hiệp định này, quân xâm lược Mỹ đã phải cuốn cờ rút khỏi Việt Nam, tạo thế xoay chuyển có lợi cho cách mạng Việt Nam, dẫn đến ngày toàn thắng 30/4/1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Hội nghị Pari về Việt Nam [ảnh tư liệu]

Từ sau Hiệp định Giơnevơ 1954, đế quốc Mỹ nhanh chóng nhảy vào miền Nam, thế chân thực dân Pháp, biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới. Việt Nam một lần nữa trải qua cuộc chiến tranh trường kỳ, bền bỉ chống Mỹ để đi tới việc ký kết Hiệp định Pari, ngày 27 tháng 1 năm 1973.

Năm 1968, sau hàng loạt những thất bại nặng nề của chiến lược "chiến tranh cục bộ" và chiến tranh phá hoại ở miền Bắc, cuộc đàm phán giữa Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hoà và Chính phủ Hoa Kỳ đã chính thức diễn ra ở Pari. Phái đoàn Việt Nam do Bộ trưởng Xuân Thuỷ đứng đầu, đã khẳng định lập trường không thay đổi của Việt Nam là trước tiên Mỹ phải chấm dứt không điều kiện các cuộc ném bom bắn phá và mọi hoạt động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, sau đó mới bàn các vấn đề có liên quan của hai bên. Phái đoàn Mỹ do Hariman đứng đầu.

Hội nghị hai bên ở Pari sau nhiều phiên họp trong năm 1968 vẫnkhông giải quyết được vấn đề cơ bản, nhưng đã mở đầu cho một thời kỳ Việt Nam tiến công trực diện Mỹ về ngoại giao trên bàn hội nghị. Trong quá trình đấu tranh đó, phái đoàn Việt Namluôn khẳng địnhtính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam; lên án tội ác chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trên hai miền Nam, Bắc Việt Nam, hành động phá hoại hiệp định Giơnevơ của Mỹ; đòi Mỹ rút quânvà chư hầu ra khỏi Việt Nam; chấm dứt hoàn toàn và không điều kiện việc ném bom miền Bắc Việt Nam; từ bỏ ngụy quân Sài Gòn; đáp ứng lập trường của Việt Nam Dân chủ cộng hoà và Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam.

Trước quan điểm đúng đắn, thái độ kiên quyết của phái đoàn Việt Nam,cùng vớinhững thất bại nặng nề trên chiến trường và tình hình nước Mỹ trước ngày bầu cử Tổng thống, ngày 1/11/1968, Giônxơn tuyên bố ngừng ném bom bắn phá và mọi hành động chiến tranh khác chống Việt Nam Dân chủ cộng hoà. Sau sự kiện này, cuộc đấu tranh giữa Việt Nam và Mỹ bắt đầu xoay quanh vấn đề hình thức, thành phần hội nghị và đã đi đến thống nhất tổ chứcHội nghị Bốn bên bao gồm: Việt Nam Dân chủ cộng hoà, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam [sau đó là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam], Hoa Kỳ và Việt Nam cộng hoà [chính quyền Sài Gòn].

Tháng 1 năm 1969, Hội nghị 4 bên về Việt Namchính thức họp phiên đầu tiên tạiPari. Lập trường bốn bên, mà thực chất là của hai bên, Việt Nam và Mỹ, giai đoạn đầu rất xa nhau, mâu thuẫn nhau, khiến cho các cuộc đấu tranh diễn ra gay gắt trên bàn hội nghị, đến mức nhiều lúc phải gián đoạn thương lượng. Trong thời gian này, trên chiến trường cả hai bên Việt Nam và Mỹ đều tìm mọi cách giành thắng lợi quyết định về quân sự để thay đổi cục diện chiến trường, lấy đó làm áp lực cho mọi giải pháp chấm dứt chiến tranh trên thế mạnh mà cả hai phía đang giành giật trên bàn đàm phán nhưng chưa đạt kết quả. Những thắng lợi quân sự của ta trong các chiến dịch Đường 9 – Nam Lào, Đông Bắc và Đông Nam Campuchia trong năm 1971; các chiến dịch tiến công Trị - Thiên, Bắc Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Bắc Bình Định, Khu 8 Nam Bộ… trong năm 1972 đã làm quân Mỹ - nguỵ bị thiệt hại nặng nề, từng bước làm phá sản chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” và tạo thế thuận lợi cho ta trên bàn đàm phán.

Ngày 8/10/1972, phái đoàn Việt Nam đưa cho Mỹ bản dự thảo “Hiệp định về chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Việt Nam” và đề nghị thảo luận để đi đến ký kết. Lúc đầu, bản dự thảo được các bên nhất trí nhưng đến ngày 22/10/1972 phía Mỹ lật lọng viện dẫn chính quyền Nguyễn Văn Thiệu đòi sửa đổi bản dự thảo. Đêm 18/12/1972, tổng thống Mỹ Nixon ra lệnh ném bom huỷ diệt Hà Nội và Hải Phòng bằng B52. Cuộc đụng đầu lịch sử trong 12 ngày đêm được ví là "Trận Điện Biên Phủ trên không" kết thúc bằng việc 38 pháo đài bay B52 và 43 máy bay chiến đấu khác của Mỹ bị bắn rơi ngay trên bầu trời Hà Nội. Thất bại của Mỹ trên chiến trường miền Nam cùng với thất bại của không quân chiến lược Mỹ trên bầu trời Hà Nội, đẩy Mỹ vào thế thua không thể gượng nổi, buộc chúng phải chấp nhận thất bại, nối lại đàm phán tại Pari. Trên tư thế bên chiến thắng, phái đoàn ta tại cuộc đàm phán đã kiên quyết đấu tranh giữ vững nội dung của dự thảo Hiệp định đã thoả thuận.

Đoàn đại biểu Việt Nam dân chủ cộng hòa tại lễ ký kết Hiệp định Pari [ảnh tư liệu]

Cuối cùng, ngày 22/1/1973 tại Trung tâm các Hội nghị quốc tế Clêbe, đúng 12 giờ 30 phút [giờ Pari] Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam đã được Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ và Kitxinhgiơ ký tắt. Ngày 27/11/973, Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam đã được ký chính thức giữa Bộ trưởng Ngoại giao các bên.

Hiệp định nêu rõ: Hoa Kỳ và các nước khác cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước ViệtNam.

Hoa Kỳ phải hoàn toàn chấm dứt chiến tranh xâm lược, chấm dứt sự dính líu về quân sự và can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam. Rút hết quân đội của Mỹ và của các nước khác, cố vấn và nhân viên quân sự, vũ khí và dụng cụ chiến tranh, hủy bỏ tất cả các căn cứ quân sự.

Tôn trọng quyền tự quyết và bảo đảm các quyền tự do dân chủ của nhân dân miền Nam Việt Nam. Nhân dân miền Nam Việt Nam tự quyết định tương lai chính trị của mình thông qua tổng tuyển cử thật sự tự do và dân chủ.

Lễ cuốn cờ ở Bộ Chỉ huy quân đội Mỹ tại Sài Gòn để rút quân ra khỏi Việt Nam [ảnh tư liệu]

Ngày 29/3/1973, Bộ Chỉ huy Mỹ ở Sài Gòn làm lễ cuốn cờ. Đơn vị cuối cùng của quân đội viễn chinh Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam dưới sự kiểm soát của sĩ quan Việt Nam Dân chủ cộng hoà trong Uỷ ban Liên hợp quân sự bốn bên.

Trong thời gian khoảng 5 năm, Hiệp định Pari đã trải qua 201 phiên họp công khai, 45 cuộc họp riêng cấp cao, 500 cuộc họp báo, 1.000 cuộc phỏng vấn và đã có hàng nghìn cuộc mít tinh chống chiến tranh, ủng hộ Việt Nam. Trong các phiên họp chung công khai cũng như các cuộc tiếp xúc riêng, phía Việt Nam không bỏ qua bất cứ vấn đề quan trọng nào có liên quan đến cuộc chiến tranh ở Đông Dương, nhưng tập trung mũi nhọn đấu tranh vào hai vấn đề mấu chốt nhất là đòi rút hết quân Mỹ và quân 5 nước thân Mỹ ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương khỏi miền Nam, đòi họ tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản và quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam. Phía Mỹ, trước sau vẫn nêu quan điểm “có đi có lại”, đòi hai bên [cả quân đội miền Bắc có tại miền Nam] “cùng rút quân”.

Hiệp định Pari về Việt Nam là kết quả của cuộc đấu tranh kiên cường bất khuất của nhân dân ta ở cả hai miền đất nước, đã tạo ra bước ngoặt mới trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc. Cội nguồn của thắng lợi Hội nghị Pari là tinh thần quyết chiến quyết thắng, là ý chí quật cường đấu tranh bền bỉ bảo vệ cho chân lý, giành độc lập tự do của cả dân tộc Việt Nam. Cuộc đấu tranh này phản ánh đầy đủ sự lãnh đạo tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, trí tuệ của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam, dựa vào chính nghĩa của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Hội nghị Pari và Hiệp định Pari mãi mãi đi vào trong lịch sử cách mạng Việt Nam nói chung và ngoại giao Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh nói riêng như một dấu son không bao giờ phai mờ.

Đinh Phương [Tổng hợp]

Nguồn://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ho-so-su-kien-nhan-chung/su-kien-va-nhan-chung/hiep-dinh-pari-nam-1973-cham-dut-chien-tranh-lap-lai-hoa-binh-o-viet-nam-3379

Vì sao mỹ phải ký hiệp định paris chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở việt nam

Admin 13/05/2021 161
bfss_flashfile = "//www.sieunhandaichien.mobi/templates/rhuk_solarflare_ii/flash/logo.swf"; bfss_width = 620; bfss_height = 110; bfss_id = "fls_moview";

Bạn đang xem: Vì sao mỹ phải ký hiệp định paris chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở việt nam

----*Liên kết website*---- Đảng cộng sản VN Quốc hội VN Văn phòng quốc hội Chính phủ VN Người đại biểu

Xem thêm: Vì Sao Nhân Dân Pari Đấu Tranh Và Thành Lập Công Xã Pari S, Vì Sao Nhân Dân Pa

Hôm nay
Ngày hôm qua
Cả tuần
Cả tháng
Tất cả5583723

bfss_flashfile = "//www.sieunhandaichien.mobi/templates/rhuk_solarflare_ii/flash/banner_su.swf"; bfss_width = 190; bfss_height = 93; bfss_id = "fls_moview";
Muốn tìm hiểu về một quốc gia, người ta thường thông qua cánh cửa mầu nhiệm mang tên LỊCH SỬ

KÝ HIỆP ĐỊNH PARI CHẤM DỨT CHIẾN TRANH, LẬP LẠI HOÀ BÌNH Ở VIỆT NAM

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã giành được thắng lợi vĩ đại.

Hiệp định Pa-ri đã được ký chính thức.

Từ 7 giờ sáng nay, chiến tranh chấm dứt ở cả hai miền nước ta.

Trong những ngày tháng Giêng năm bảy mươi ba đó, tất cả các báo chí, các đài phát thanh và vô tuyến truyền hình ở Pa-ri cũng như ở trên thế giới đều liên tiếp đưa tin về Hội nghị Pa-ri và bản Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Trung tâm các hội nghị quốc tế ở đại lộ Clê-be đã trở thành trung tâm thu hút sự chú ý của dư luận toàn thế giới.

Những ngày lịch sử nối tiếp nhau dồn dập.

Cùng ngày, bốn Nghị định thư của Hiệp định cũng đã được ký kết.

Như thế là sau 4 năm, 8 tháng, 14 ngày, với 202 phiên họp công khai và 24 đợt gặp riêng, cuộc đấu tranh của nhân dân ta trân bàn thương lượng đã giành được thắng lợi. Tập văn bản Hiệp định và Nghị định thư bằng hai thứ tiếng Việt và Anh đã được thỏa thuận xong. Buổi lễ ký kết đã diễn ra trong khung cảnh tranh nghiêm tại phòng họp lớn của trung tâm các hội nghị quốc tế Clê-be. ở bên ngoài, dọc đại lộ Clê-be, hàng ngàn đại biểu Việt kiều và nhân dân Pháp đã nồng nhiệt vỗ tay, vẫy cờ đỏ sao vàng và cờ xanh đỏ có sao vàng ở giữa, hô khẩu hiệu chào mừng các đại biểu Việt Nam chiến thắng.

Năm 1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương vừa ký còn chưa ráo mực, đế quốc Mỹ đã nhảy vào, nhanh chóng hất cẳng thực dân Pháp và âm mưu biến miền Nam nước ta thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của chúng. Từ đó, nhân dân ta đã phải đương đầu chống lại tên đế quốc đầu sỏ, giàu mạnh nhất trong phe đế quốc chủ nghĩa, đã lần lượt đánh bại mọi chiến lược chiến tranh cực kỳ tàn bạo và xảo quyệt của kẻ thù - chiến lược thống trị miền Nam bằng những thủ đoạn điển hình của chủ nghĩa thực dân kiểu mới, chiến lược chiến tranh "đặc biệt" chiến lược "chiến tranh cục bộ" và chiến lược chiến tranh "Việt Nam hóa".

Cuối tháng 12-1972, Ních-xơn tàn bạo và tráo trở đã huy động một lực lượng lớn không quân chiến lược và chiến thuật mở cuộc tập kích đánh phá có tính chất hủy diệt dã man thủ đô Hà Nội, thành phố cảng Hải Phòng và nhiều địa phương khác trên miền Bắc. Trong mười hai ngày đêm đọ sức quyết liệt của trận "Điện Biên Phủ trên không" ấy, quân và dân ta đã bắn rơi 81 máy bay, trong đó có 34 chiếc B.52 và 5 chiếc F.111 - những con chủ bài cuối cùng của Mỹ.

Hiệp định nêu rõ: Hoa Kỳ và các nước khác cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam.

Hoa Kỳ phải hoàn toàn chấm dứt chiến tranh xâm lược, chấm dứt sự dính líu về quân sự và can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam. Rút hết quân đội của Mỹ và của các nước khác, cố vấn và nhân viên quân sự, vũ khí và dụng cụ chiến tranh, hủy bỏ tất cả các căn cứ quân sự.

Tôn trọng quyền tự quyết và bảo đảm các quyền tự do dân chủ của nhân dân miền Nam Việt Nam. Nhân dân miền Nam Việt Nam tự quyết định tương lai chính trị của mình thông qua tổng tuyển cử thật sự tự do và dân chủ.

Đó là thắng lợi vĩ đại của tinh thần "không có gì quí hơn độc lập tự do" của sức mạnh đoàn kết dân tộc trong cả nước, từ Bắc chí Nam. Là thắng lợi rực rỡ của chủ nghĩa Mác - Lê-ninbách chiến bách thắng, của đường lối chính trị, quân sự và ngoại giao đứng đắn, sáng tạo của Đảng ta.

Đó cũng là thắng lợi vẻ vang của nhân dân ba nước Đông Dương - những người bạn chiến đấu cùng chiến hào chống kẻ thù chung.

Đó cũng là thắng lợi có ý nghĩa thời đại của phong trào cách mạng thế giới, của các lực lượng xã hội chủ nghĩa, độc lập dân tộc, dân chủ và hòa bình, của nhân dân yêu chuộng tự do, công lý trên toàn thế giới.

Với việc ký kết Hiệp định Paris, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai đã phải chấp nhận những thất bại hết sức nặng nề, nhưng chúng vẫn chưa chịu từ bỏ những âm mưu duy trì chủ nghĩa thực dân kiểu mới đối với miền Nam nước ta. Ngay từ khi Hiệp định Paris vừa được ký kết, Mỹ - ngụy đã liên tiếp vi phạm, phá hoại trắng trợn các điều khoản chủ yếu của bản Hiệp định. Chúng đã tiếp tục tiến hành cuộc chiến tranh thực dân kiểu mới trên qui mô lớn bằng các kế hoạch cực kỳ tàn bạo. Đế quốc Mỹ đã tăng cường viện trợ quân sự cho ngụy quyền tay sai, vẫn duy trì bộ máy chỉ huy chiến tranh với hàng vạn cố vấn và nhân viên quân sự Mỹ đội lốt dân sự. Chúng ôm ấp hy vọng chỉ ba năm sau đó, đến năm 1976, sẽ có thể ung dung xây dựng và củng cố chế độ thực dân kiểu mới ở miền Nam và thực hiện chia cắt lâu dài đất nước ta.

Rõ ràng nhân dân ta không có cách nào khác là phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng của chúng. Để bảo vệ và thi hành Hiệp định Paris, quân và dân ta đã trừng trị đích đáng mọi hành động phá hoại đầy tội ác của chúng, không những ở các nơi chúng lấn chiếm mà còn ở tất cả các căn cứ xuất phát của chúng.

Thắng lợi vĩ đại, trọn vẹn của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy long trời lở đất vào mùa Xuân năm 1975 của quân dân ta đã đập tan mọi hành động phá hoại của Mỹ - ngụy, lật đổ toàn bộ chế độ kìm kẹp thực dân kiểu mới của chúng, và đã giải phóng hoàn toàn miền Nam, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến vĩ đại nhất trong lịch sử 4000 năm của dân tộc.

bfss_flashfile = "//www.sieunhandaichien.mobi/templates/rhuk_solarflare_ii/flash/logo.swf"; bfss_width = 620; bfss_height = 110; bfss_id = "fls_moview";

Bạn đang xem: Vì sao mỹ phải ký hiệp định paris chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở việt nam

----*Liên kết website*---- Đảng cộng sản VN Quốc hội VN Văn phòng quốc hội Chính phủ VN Người đại biểu

Xem thêm: Vì Sao Nhân Dân Pari Đấu Tranh Và Thành Lập Công Xã Pari S, Vì Sao Nhân Dân Pa

Hôm nay
Ngày hôm qua
Cả tuần
Cả tháng
Tất cả5583723

bfss_flashfile = "//www.sieunhandaichien.mobi/templates/rhuk_solarflare_ii/flash/banner_su.swf"; bfss_width = 190; bfss_height = 93; bfss_id = "fls_moview";
Muốn tìm hiểu về một quốc gia, người ta thường thông qua cánh cửa mầu nhiệm mang tên LỊCH SỬ

KÝ HIỆP ĐỊNH PARI CHẤM DỨT CHIẾN TRANH, LẬP LẠI HOÀ BÌNH Ở VIỆT NAM

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã giành được thắng lợi vĩ đại.

Hiệp định Pa-ri đã được ký chính thức.

Từ 7 giờ sáng nay, chiến tranh chấm dứt ở cả hai miền nước ta.

Trong những ngày tháng Giêng năm bảy mươi ba đó, tất cả các báo chí, các đài phát thanh và vô tuyến truyền hình ở Pa-ri cũng như ở trên thế giới đều liên tiếp đưa tin về Hội nghị Pa-ri và bản Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Trung tâm các hội nghị quốc tế ở đại lộ Clê-be đã trở thành trung tâm thu hút sự chú ý của dư luận toàn thế giới.

Những ngày lịch sử nối tiếp nhau dồn dập.

Cùng ngày, bốn Nghị định thư của Hiệp định cũng đã được ký kết.

Như thế là sau 4 năm, 8 tháng, 14 ngày, với 202 phiên họp công khai và 24 đợt gặp riêng, cuộc đấu tranh của nhân dân ta trân bàn thương lượng đã giành được thắng lợi. Tập văn bản Hiệp định và Nghị định thư bằng hai thứ tiếng Việt và Anh đã được thỏa thuận xong. Buổi lễ ký kết đã diễn ra trong khung cảnh tranh nghiêm tại phòng họp lớn của trung tâm các hội nghị quốc tế Clê-be. ở bên ngoài, dọc đại lộ Clê-be, hàng ngàn đại biểu Việt kiều và nhân dân Pháp đã nồng nhiệt vỗ tay, vẫy cờ đỏ sao vàng và cờ xanh đỏ có sao vàng ở giữa, hô khẩu hiệu chào mừng các đại biểu Việt Nam chiến thắng.

Năm 1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ về Đông Dương vừa ký còn chưa ráo mực, đế quốc Mỹ đã nhảy vào, nhanh chóng hất cẳng thực dân Pháp và âm mưu biến miền Nam nước ta thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của chúng. Từ đó, nhân dân ta đã phải đương đầu chống lại tên đế quốc đầu sỏ, giàu mạnh nhất trong phe đế quốc chủ nghĩa, đã lần lượt đánh bại mọi chiến lược chiến tranh cực kỳ tàn bạo và xảo quyệt của kẻ thù - chiến lược thống trị miền Nam bằng những thủ đoạn điển hình của chủ nghĩa thực dân kiểu mới, chiến lược chiến tranh "đặc biệt" chiến lược "chiến tranh cục bộ" và chiến lược chiến tranh "Việt Nam hóa".

Cuối tháng 12-1972, Ních-xơn tàn bạo và tráo trở đã huy động một lực lượng lớn không quân chiến lược và chiến thuật mở cuộc tập kích đánh phá có tính chất hủy diệt dã man thủ đô Hà Nội, thành phố cảng Hải Phòng và nhiều địa phương khác trên miền Bắc. Trong mười hai ngày đêm đọ sức quyết liệt của trận "Điện Biên Phủ trên không" ấy, quân và dân ta đã bắn rơi 81 máy bay, trong đó có 34 chiếc B.52 và 5 chiếc F.111 - những con chủ bài cuối cùng của Mỹ.

Hiệp định nêu rõ: Hoa Kỳ và các nước khác cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam.

Hoa Kỳ phải hoàn toàn chấm dứt chiến tranh xâm lược, chấm dứt sự dính líu về quân sự và can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam. Rút hết quân đội của Mỹ và của các nước khác, cố vấn và nhân viên quân sự, vũ khí và dụng cụ chiến tranh, hủy bỏ tất cả các căn cứ quân sự.

Tôn trọng quyền tự quyết và bảo đảm các quyền tự do dân chủ của nhân dân miền Nam Việt Nam. Nhân dân miền Nam Việt Nam tự quyết định tương lai chính trị của mình thông qua tổng tuyển cử thật sự tự do và dân chủ.

Đó là thắng lợi vĩ đại của tinh thần "không có gì quí hơn độc lập tự do" của sức mạnh đoàn kết dân tộc trong cả nước, từ Bắc chí Nam. Là thắng lợi rực rỡ của chủ nghĩa Mác - Lê-ninbách chiến bách thắng, của đường lối chính trị, quân sự và ngoại giao đứng đắn, sáng tạo của Đảng ta.

Đó cũng là thắng lợi vẻ vang của nhân dân ba nước Đông Dương - những người bạn chiến đấu cùng chiến hào chống kẻ thù chung.

Đó cũng là thắng lợi có ý nghĩa thời đại của phong trào cách mạng thế giới, của các lực lượng xã hội chủ nghĩa, độc lập dân tộc, dân chủ và hòa bình, của nhân dân yêu chuộng tự do, công lý trên toàn thế giới.

Với việc ký kết Hiệp định Paris, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai đã phải chấp nhận những thất bại hết sức nặng nề, nhưng chúng vẫn chưa chịu từ bỏ những âm mưu duy trì chủ nghĩa thực dân kiểu mới đối với miền Nam nước ta. Ngay từ khi Hiệp định Paris vừa được ký kết, Mỹ - ngụy đã liên tiếp vi phạm, phá hoại trắng trợn các điều khoản chủ yếu của bản Hiệp định. Chúng đã tiếp tục tiến hành cuộc chiến tranh thực dân kiểu mới trên qui mô lớn bằng các kế hoạch cực kỳ tàn bạo. Đế quốc Mỹ đã tăng cường viện trợ quân sự cho ngụy quyền tay sai, vẫn duy trì bộ máy chỉ huy chiến tranh với hàng vạn cố vấn và nhân viên quân sự Mỹ đội lốt dân sự. Chúng ôm ấp hy vọng chỉ ba năm sau đó, đến năm 1976, sẽ có thể ung dung xây dựng và củng cố chế độ thực dân kiểu mới ở miền Nam và thực hiện chia cắt lâu dài đất nước ta.

Rõ ràng nhân dân ta không có cách nào khác là phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng của chúng. Để bảo vệ và thi hành Hiệp định Paris, quân và dân ta đã trừng trị đích đáng mọi hành động phá hoại đầy tội ác của chúng, không những ở các nơi chúng lấn chiếm mà còn ở tất cả các căn cứ xuất phát của chúng.

Thắng lợi vĩ đại, trọn vẹn của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy long trời lở đất vào mùa Xuân năm 1975 của quân dân ta đã đập tan mọi hành động phá hoại của Mỹ - ngụy, lật đổ toàn bộ chế độ kìm kẹp thực dân kiểu mới của chúng, và đã giải phóng hoàn toàn miền Nam, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến vĩ đại nhất trong lịch sử 4000 năm của dân tộc.

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Toplist mới

Bài mới nhất

Chủ Đề