Vì sao năm 1986 đảng ta phải đổi mới đất nước

Đường lối đó đã nhanh chóng đi vào cuộc sống, được thực tiễn cuộc sống kiểm nghiệm, khẳng định là đúng đắn. Đường lối đó là cả một quá trình Đảng ta tìm tòi, nghiên cứu tổng kết từ thực tiễn cách mạng nước ta trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tiếp thu có phê phán, chọn lọc kinh nghiệm của cách mạng thế giới, tham khảo kinh nghiệm phát triển của nhiều nước, đặc biệt là các nước trong khu vực.

         

     Đầu thập niên 70 - 80 của thế kỷ XX, trước những sự kiện, những nhân tố chính trị, kinh tế, xã hội diễn ra với nhịp độ dồn dập, tính chất phức tạp và với một qui mô to lớn chưa từng thấy, tất cả đang đặt ra yêu cầu bức thiết là cần phải có sự phát triển, bổ sung lí luận cho phù hợp mà trước tiên phải có cách  nhìn mới, nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội. Đây chính là cơ sở khách quan của đường lối đổi mới, cải cách mà nhiều nước xã hội chủ nghĩa đã và đang tiến hành, trong đó có Việt Nam.

      Một trong những đặc điểm lớn nhất của thời đại là sự phát triển "kiểu dòng thác" chưa từng có trong lịch sử loài người đó chính là thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ được tiến hành từ giữa thế kỉ XX đã tạo ra những lực lượng sản xuất to lớn và mới về chất, góp phần thúc đẩy nhiều quá trình hiện đại của xã hội loài người như: cấu trúc lại các nền kinh tế, thay đổi, chuyển hướng các kết cấu hạ tầng của sản xuất, tăng cường xu thế toàn cầu hóa trên nhiều lĩnh vực quan trọng của các quốc gia, ảnh hưởng to lớn đến các thiết chế xã hội, đến văn hóa, lối sống các dân tộc...

      Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đã đẩy nhanh quá trình quốc tế hóa nền kinh tế và đời sống kinh tế thế giới. Các quốc gia lần lượt bị cuốn hút vào quá trình phân công lao động, hợp tác hóa quốc tế và thị trường thế giới...

      Tình hình trên vừa tạo ra những thời cơ hiếm có đồng thời cũng đặt ra những thách thức gay go cho mọi quốc gia, đặc biệt là các nước chậm phát triển.

     Bên cạnh đó, đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, thế giới đang đứng trước những vấn đề toàn cầu và việc giải quyết những vấn đề đó đòi hỏi phải có sự nỗ lực chung của toàn nhân loại, ở các quốc gia với những chế độ chính trị khác nhau. Đó là vấn đề bảo vệ hòa bình, chống chiến tranh hạt nhân hủy diệt, đó là vấn đề bảo vệ tài nguyên thiên nhiên môi trường, phòng chống bệnh hiểm nghèo, vấn đề bùng nổ dân số, sự nghèo đói...Trước tình hình đó, mỗi quốc gia, dân tộc trong việc lựa chọn con đường phát triển của mình không thể không quan tâm đến những vấn đề chung, vì "giải quyết những vấn đề đó chính là điểm hội tụ, nơi gặp gỡ của các dân tộc vì số phận và tương lai của chính mình cũng như của toàn nhân loại"[1] .

     Chính vì vậy, những vấn đề chung của nhân loại trở thành yêu cầu khách quan tác động đến sự phát triển và đổi mới của chủ nghĩa xã hội trong đó có Việt Nam. Và chỉ có như vậy, chủ nghĩa xã hội hiện thực mới chứng minh bản chất ưu việt của mình, chứng minh chủ nghĩa xã hội tất yếu là con đường đi tới của các dân tộc.

     Sau hơn 70 năm tồn tại, đến cuối thập niên 80 của thế kỉ XX, toàn bộ hệ thống xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng toàn diện và sâu sắc. Đứng trước sự thủ thách, nhiều nước xã hội chủ nghĩa đã tìm cách thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng bằng nhiều cách khác nhau. Trước hết, phải kể đến công cuộc “cải cách, mở cửa” với những thành tựu rõ rệt của Trung Quốc - một nước xã hội chủ nghĩa láng giềng và cuộc “cải tổ” ở Liên Xô - một cường quốc xã hội chủ nghĩa đứng đầu hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới với những diễn biến phức tạp, đầy sóng gió.

     Trung Quốc tiến hành cải cách kinh tế theo hướng thị trường mở cửa từ năm 1978. Những thành tựu của Trung Quốc đã thu hút sự quan tâm chú ý của nhiều nước trong đó có Việt Nam. Tiếp đó, công cuộc cải tổ không thành công dẫn tới sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu là bài học phản diện cho Việt Nam những kinh nghiệm không thể cải tổ theo kiểu “phủ định sạch trơn”, giải quyết không biện chứng mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị.

      Cũng trong thời gian này, thành công của các nước công nghiệp mới [NIC] như Singapo ở Đông Nam Á đã đưa ra những gợi ý hết sức quan trọng về cách thức và giải pháp phát triển đối với những nước xuất phát từ nền kinh tế nông nghiệp và có kiểu quan hệ xã hội, văn hóa Phương Đông. Động lực để phát triển của các nước này là phát huy nội lực, huy động mọi tiềm năng của đất nước, thực hiện cơ chế thị trường, mở cửa, hướng vào xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài.

     Sự tác động của những biến đổi của tình hình thế giới đòi hỏi chúng ta phải suy nghĩ, phải có cách nhìn nhận đúng đắn, khách quan khoa học trên cả phượng diện lí luận và thực tiễn.

     Trong nhiều thập kỷ trước đổi mới, cũng giống như các nước xã hội chủ nghĩa khác, Việt Nam thực hiện công cuộc xây dựng đất nước theo mô hình xã hội chủ nghĩa. Mô hình chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc vốn có những khiếm khuyết lại được áp dụng để đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội với những bước đi nhanh vội hơn. Mặt hạn chế của mô hình đó chưa được bộc lộ đầy đủ trong hoàn cảnh chiến tranh thì nay bộc lộ rõ ràng hơn và gây tác động tiêu cực lớn hơn trong điều kiện hòa bình. Cơ chế kế hoạch hóa tập trung và sự thừa nhận chỉ có hai thành phần kinh tế [quốc doanh và tập thể] đã kìm hãm sức sản xuất, làm cho nhiều năng lực của xã hội không được phát huy, các vấn đề mấu chốt của đời sống nhân dân không được giải quyết. Vì thế đất nước không tạo ra được sự thay đổi, không tạo được sự bứt phá. Nhân dân kém nhiệt tình lao động và mất đi những động lực sáng tạo. Cùng với đó, những thiếu hụt, mất cân đối và nguy cơ bất ổn định cứ tích góp, dồn nén trong xã hội làm tăng thêm tình trạng căng thẳng và mất lòng tin của nhân dân. Hậu quả là cuối thập niên 70 đầu thập niên 80 của thế kỷ XX, trên thực tế, đất nước ta lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế- xã hội. Niềm tin vào chủ nghĩa xã hội  bị thách thức.

     Đứng trước những đòi hỏi bức xúc của cuộc sống, với xu thế phát triển của thời đại, lại chịu ảnh hưởng của các nước trong khu vực và trên thế giới,  Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ trương, biện pháp để khắc phục như:  Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Khóa IV [8/1979] làm cho sản xuất bung ra; Chỉ thị 100 của Ban Bí thư [13/1/1981] về khoán sản phẩm trong hợp tác xã nông nghiệp; Quyết định 25-CP và 26-CP của Chính phủ [21-1-1981]về cải tiến cơ chế quản lý trong kinh tế quốc doanh; quan điểm của Đại hội V [3/1982] đến Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Khóa V [6/1985] về giá - lương - tiền, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu hành chính bao cấp, những kết luận về các quan điểm kinh tế của Bộ Chính trị [9/1986] ...Những thử nghiệm đó cả thành công và thất bại tuy không kiềm chế nổi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội ngày càng trầm trọng, song đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình đổi mới tư duy của Đảng và xã hội để đi tới công cuộc đổi mới toàn diện và sâu sắc, được mở đầu bằng Đại hội VI của Đảng năm 1986 - Đại hội của đổi mới.

     Đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam được khởi xướng trên những cơ sở khách quan, khoa học, trước bối cảnh quốc tế có những chuyển biến hết sức sâu sắc và nhanh chóng. Đường lối đổi mới đã đi vào cuộc sống và ngày càng thể hiện tính đúng đắn và sáng tạo của nó, điều đó cho thấy tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo của Đảng trong việc khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới.

      Hơn 30 mươi năm thực hiện đường lối đổi mới, mặc dù còn nhiều vấn đề mới nảy sinh cần tiếp tục thử ngiệm và hoàn thiện, song con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn. Nền chính trị ổn định, kinh tế tiếp tục tăng tưởng, kết cấu hạ tầng xây dựng đồng bộ và ngày càng khang trang, đời sống vật chất và tinh thần của đại bộ phận các tầng lớp dân cư được cải thiện. Điều đó cho phép chúng ta hoàn toàn tin tưởng vào sự nghiệp đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, với đường lối đúng đắn, khoa học và sáng tạo.

[1] Về cương lĩnh đổi mới và phát triển , NxbThông tin lí luận, Hà Nội. 1991, tr 166

Dưới sự chỉ huy và định hướng đúng đắn của Đảng và Nhà Nước, công cuộc đổi mới 1986 đã hỗ trợ Việt Nam đạt được những thành tựu to lớn. Vậy hoàn cảnh công cuộc đổi mới 1986 là gì? Đường lối đổi mới của Đảng từ 1986 đến nay? Thành tựu và hạn chế của công cuộc đổi mới 1986 là gì? Vì sao phải đổi mới đất nước năm 1986? Trong nội dung bài viết sau, hãy cùng Bankstore điểm qua những số lượng đáng tự hào về tài chính, xã hội sau hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới 1986 và những nội dung liên quan.

Cách mệnh Việt Nam thời kỳ đổi mới [1986- 2000]


Trong tiến trình lịch sử vẻ vang Việt Nam giai đoạn từ đại thắng ngày xuân đến năm 2000, công cuộc đổi mới của nước ta chiếm một vị trí quan trọng. Công cuộc đổi mới của Đảng đã hỗ trợ nước ta vượt qua những khó khăn cuộc khủng hoảng toàn diện kinh tế- xã hội trong nước, đưa nước nhà tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội và thể hiện sự nhậy bén trong lãnh đạo của Đảng khi đối chiếu với cách mệnh Việt Nam phù phù hợp với tình hình trong nước và xu thế phát triển của thời đại.

Xem rõ ràng và cụ thể: //luyenthi.hoc360.vn/bai-giang/l…

Vì sao phải đổi mới đất nước năm 1986?

Sự thay đổi là điều cần thiết của công cuộc đổi mới 1986 bởi một số những nguyên nhân sau:

  • Từ thời điểm năm 2016, năm diễn ra Đại hội lần thứ XII của Đảng cũng ghi lại cột mốc công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo vừa tròn 30 năm, với 6 nhiệm kỳ. Sau 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong công cuộc công nghiệp hóa, văn minh hóa đất nước.
  • Trong giai đoạn 1976 -1986, Việt Nam áp dụng quyết sách bao cấp, tem phiếu. Chính vì vậy, các mặt hàng trong giai đoạn này thường khan hiếm, không đáp ứng được nhu cầu của người dân. Tiêu dụng chậm dẫn đến tình trạng mức lạm phát, đời sống của nhân dân thiếu thốn, khó khăn.

Đến năm 1986, Việt Nam nhảy vào thời kỳ đổi mới với những thay đổi toàn diện. Tem phiếu chỉ từ trong ký ức. Sau hơn 30 năm, diện mạo của đất nước đã thay đổi rất nhiều. Kinh tế tài chính phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện.

Đảng và Nhà nước nhận thấy sự cần thiết của việc đổi mới

Thành tựu của công cuộc đổi mới 1986 là gì?

Thành quả công cuộc đổi mới – Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế thị trường

Giai đoạn 1986-1990: Đây là thời điểm đầu của công cuộc đổi mới 1986. Những thành tựu đạt được sau thời gian khủng hoảng toàn diện ghi lại bước đầu vô cùng quan trọng. Cụ thể thu nhập bình quân đầu người đạt tới tăng 4.4%/năm.

  • Giai đoạn 1991-1995: Mức thu nhập bình quân người tăng tăng thêm 8,2%/năm.
  • Giai đoạn 1996-2000: Do tác động của nhiều lý do như khủng hoảng toàn diện tài chính toàn cầu, thiên tai tác động ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ tăng cường thêm. Mức tăng GDP đạt 7%/năm.
  • Giai đoạn 1991-2000: Trong thời gian này GDP tăng mức 7,6%/năm.
  • Giai đoạn 2001-2010: Thu nhập bình quân đầu người tăng lên 7,26%.
  • Giai đoạn 2011-2015: Thống kê mức thu nhập đầu người tăng trưởng 6%/năm.

Và cho tới nay, sau hơn 30 năm của công cuộc đổi mới 1986, mức thu nhập của người dân Việt Nam vẫn không ngừng nghỉ tăng lên. Bình quân, GDP tăng liên tục với tốc độ 7.43%. Nếu đem thành tích công cuộc đổi mới 1986 so với những nước như Singapore, Nước Hàn sẽ thấp hơn nhưng vẫn cao hơn nữa so với phần lớn các nước còn sót lại tại ASEAN.

Công cuộc đổi mới 1986 – Kim ngạch xuất khẩu

Giai đoạn 2011-2015: Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt tới tăng 18%/năm. Các mặt hàng xuất khẩu từ nông nghiệp, nông sản nguyên liệu thô chuyển dần sang các sản phẩm công nghiệp.

Năm 2015 là mốc thời gian ghi nhận những thành tích xuất sắc của Việt nam trên phương diện xuất khẩu. Điển hình là hàng loạt các hiệp định mang tính thương mại quốc tế như TPP, VN – EU, AEC… Đây được xem là cơ hội và cũng là thử thách không hề nhỏ đến vừa là thử thách về xuất khẩu khi đối chiếu với các doanh nghiệp Việt Nam.

Vào năm 2015, nền kinh tế thị trường nước ta đã đạt quy mô là 204 tỷ USD với mức thu nhập bình quân trên đầu người lên tới 2.300 USD. Điều này thể hiện sự tiến bộ và kết quả vượt bậc của công cuộc đổi mới 1986 ở cả mặt chất lượng sản phẩm và khối lượng.

Chưa dừng lại ở đó, nước ta cũng có thể có những thay đổi lớn về công nghệ sản xuất cũng như sự phát lớn về mọi mặt. Các vấn đề như lạm soát cũng dần được kiểm soát hiệu quả dưới sự chỉ huy của Đảng và Nhà Nước.

Công cuộc đổi mới 1986 – Môi trường xung quanh góp vốn đầu tư

Công cuộc đổi mới 1986 đã thúc đẩy và tạo động lực, cơ hội giúp môi trường thiên nhiên góp vốn đầu tư trong nước được cải thiện. Đông quần đảo các doanh nghiệp nước ngoài đến góp vốn đầu tư tại Việt Nam. Điều này là nhờ các chính sách thu hút vốn, khuyến khích, tạo xét tuyển cho những doanh nghiệp nước ngoài góp vốn đầu tư, của Đảng và Nhà Nước. Nhờ đó FDI ngày một tăng cao.

Năm 1986, FDI ở Việt Nam đang ở số lượng 0, sau hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới 1986, số lượng này đã vượt lên mức 14.5 tỷ USD. Chỉ số này tăng không chỉ hứa hẹn mang đến mức lợi nhuận cao mà còn đóng vai trò tăng nguồn ngân sách Nhà Nước, chuyển giao công nghệ.

Chưa dừng lại ở đó, công cuộc đổi mới 1986 cũng giải quyết và xử lý các vấn đề thất nghiệp, giúp hàng triệu người lao động có việc làm. Điều này đã tác động trực tiếp tác động ảnh hưởng đến việc phát triển của đời sống, xã hội, giáo dục, y tế… Cải thiện thâm thúy tình hình chung cuộc sống của người dân.

Sau 30 năm, Việt Nam đã phát triển vượt bậc

Nhìn chung, sau hơn 30 năm, công cuộc đổi mới 1986 đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, giúp thể chế, tài chính thị trường của nhà nước Việt Nam ngày một hoàn thiện cũng như đáp ứng các nhu cầu phát triển toàn cầu hóa, cải thiện đời sống của nhân dân ngày một tốt hơn. Hy vọng nội dung bài viết về chủ đề công cuộc đổi mới 1986 đã cung cấp cho bạn kiến thức hữu ích!

Tu khoa

hoàn cảnh công cuộc đổi mới 1986

vì sao phải đổi mới đất nước năm 1986

nền kinh tế thị trường việt nam trước thời kỳ đổi mới

đường lối đổi mới của đảng từ 1986 đến nay

bài học kinh nghiệm kinh nghiệm sau 30 năm đổi mới

thành tựu hạn chế nguyên nhân bài học kinh nghiệm của 30 năm đổi mới

nguyên nhân vì sao cần thực hiện công cuộc đổi mới 1986

Video liên quan

Chủ Đề