Vì sao tốc độ phát triển kinh tế của Anh chậm lại

Vì sao nền kinh tế của các nước phát triển tiếp tục suy thoái?

08:57 22/09/2016

Khi đã thực hiện những biện pháp nới lỏng tiền tệ trong thời gian dài mà không có hiệu quả, các nền kinh tế phát triển đang rất khó khăn nhằm tìm ra lối thoát.

Du lịch – “Thần hộ mệnh” cho nền kinh tế Hy Lạp

Nếu trúng cử, Donald Trump sẽ “thổi bay” 420 tỷ USD xuất khẩu của Trung Quốc

IEA: Thị trường dầu mỏ sẽ còn dư thừa lâu hơn dự báo

Bơm 9.000 tỷ USD, kinh tế thế giới vẫn chưa thể phục hồi

Đầu tháng 6 năm nay, Hàn Quốc hạ lãi suất. Tháng 7, Ngân hàng Trung ương Nhật Bản gia tăng quy mô mua trái phiếu. Tháng 8, Ngân hàng Trung ương Australia đã hạ lãi suất cơ bản xuống mức thấp nhất trong lịch sử. Ngày 4/8, Ngân hàng Trung ương Anh cũng tuyên bố khởi động việc hạ lãi suất lần đầu tiên sau 7 năm...Cả thế giới dường như đang tiếp tục bước vào con đường phá giá tiền tệ mang tính cạnh tranh.

Uống rượu độc để...giải khát

Một cuộc chạy đua in tiền lại bắt đầu. Các nền kinh tế phát triển thực hiện biện pháp kích thích nới lỏng tiền tệ “lấy rượu độc để giải khát”, có liên quan chặt chẽ tới hậu quả kinh tế tồi tệ thể hiện trong thời gian gần đây.

Trong đó, hành động đáng chú ý nhất là của Nhật Bản. Là nền kinh tế lớn thứ ba thế giới, tăng trưởng GDP trong quý 2 chỉ là 0,048%, việc tăng trưởng gần như bằng 0% nằm ngoài dự báo của thị trường. Tờ Nihon Keizai Shimbun [Nikkei] nêu rõ, các nhà đầu tư và chuyên gia kinh tế đã dự báo quý 2 tăng trưởng 0,7%. Điều này chứng tỏ tỷ lệ tăng trưởng kinh tế không những thấp hơn mức trung bình của các quý, mà còn thấp hơn mức dự báo.

Để khởi động lại “chính sách kinh tế Abe” [Abenomics], Chính phủ Nhật Bản đã thông qua kế hoạch kích thích kinh tế mới với tổng quy mô là 2.810 tỷ Yen, mong muốn thông qua đầu tư vào cơ sở hạ tầng và cải thiện dịch vụ công sẽ kéo kinh tế Nhật Bản ra khỏi “vũng lầy suy giảm”.

Tuy nhiên, biện pháp vừa mới được đưa ra đã gặp phải rất nhiều chỉ trích. Tờ Mainichi Shimbun của Nhật Bản cho rằng, điều mà Nhật Bảncần không phải là cố gắng tạo ra nền kinh tế khởi sắc vào thời điểm hiện tại, mà là phải kiên trì thực hiện chính sách có thể giúp kinh tế nước nàybước vào quỹ đạo tăng trưởng lâu dài.

TờReuters cũng bình luận, mặc dù Chính phủ Nhật Bản đã tăng cường can dự, nhưng vấn đề căn bản là nhu cầu trong nước yếu vẫn rất nghiêm trọng, cộng thêm với việc Anh rời khỏi Liên minh châu Âu [EU] và tăng trưởng của các nền kinh tế mới nổi giảm, triển vọng kinh tế ở nước ngoài không xán lạn, cũng khó kỳ vọng dựa vào xuất khẩu để thúc đẩy nền kinh tế Nhật Bản đi lên.

Tình hình châu Âu cũng không mấy lạc quan. Thống kê của Cục thống kê châu Âu vào ngày 12/8 cho thấy, tăng trưởng GDP trong quý 2 của Khu vực đồng tiền chung châu Âu [Eurozone] chỉ là 0,3%, chỉ bằng một nửa quý I. Đồng thời, tốc độ tăng trưởng kinh tế các nước thuộc Eurozone tồn tại khác biệt lớn.

Tốc độ của Đức, nền kinh tế lớn nhất Eurozone, là 0,4%, Tây Ban Nha là 0,7%, Hà Lan là 0,6%. Thậm chí, tốc độ tăng trưởng GDP của Pháp và Italy đều là 0%. Tăng trưởng kinh tế dường như rơi vào trạng thái trì trệ, các nước thành viên của EU và Eurozone đều không thể nhất trí về thực hiện kích thích tài chính.

Hơn nữa, căn cứ vào dự báo của Tập đoàn Goldman Sachs, một trong những công ty hàng đầu ở phốWall [Mỹ], việc cử tri Anh quyết địnhrời khỏi EU có thể dẫn đến nền kinh tế của quốc gia này sẽ rơi vào suy thoái nhẹ, gây ảnh hưởng tiêu cực đối với tăng trưởng kinh tế thế giới.

Ngoài ra, xem xét về mặt bằng cơ bản, sự thể hiện của Mỹ cũng kém xa dự báo. Ngoài tỷ lệ năng suất lao động phi nông nghiệp được công bố gần đây đã sụt giảm trong 3 quý liên tiếp, thống kê do Bộ Lao động Mỹ công bố ngày 12/8 cho thấy, chỉ số vật giá sản xuất [PPI] của Mỹ trong tháng 7 đã giảm 0,4%, dự báo trước đây của họ là tăng 0,1%; giảm 0,2% so với cùng kỳ năm 2015.

Cựu Bộ trưởng Tài chính Mỹ Larry Summers đã viết trên tờ Financial Times: “Tình hình thực tế là nếu tốc độ tăng trưởng liên tục của Mỹ không thể hơn 2%, thì Mỹ có thể thực hiện nổi bất kỳ một mục tiêu quốc gia chủ yếu nào hay không là điều khó nói”.

Không thống nhất hành động

Rõ ràng, chính sách kích thích tiền tệ là “uống rượu độc đểgiải khát”, nhưng những nền kinh tế hàng đầu của châu Âu không tìm được động lực tăng trưởng vẫn buộc phải tái sử dụng.

Đương nhiên, lãi suất thấp được duy trì trong một thời gian dài từ sau cuộc khủng hoảng tài chính không phát huy vai trò khuyến khích các nước phát triển vay tiền để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, giáo dục và phúc lợi xã hội. Tính lưu động với quy mô lớn đã tạo ra tài sản về tài chính, nhưng không tăng cường kinh tế thực thể.

Joseph Eugene Stiglitz - Giáo sư Đại học Columbia [Mỹ] - từng nhận giải Nobel kinh tế,cho rằng: “Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế của những nước phát triển ngày càng không ổn định. Vai trò của các biện pháp chủ yếu như thắt chặt chi tiêu ngân sách, cung cấp tiền bằng chính sách nới lỏng tiền tệ... có tác dụng rất nhỏ đối với kích thích tiêu dùng gia đình, đầu tư và tăng trưởng. Ngược lại, những biện pháp này có xu hướng làm gia tăng tình trạng suy thoái”.

Tờ Nikkei cuối tuần số ra gần đây cũng đăng bài viết nhận định: “Các khu vực trên thế giới đều chú ý đến vấn đề mà họ phải đối mặt. Trong quá trình làm chậm năng suất lao động tác động đến cả thế giới, điều đặc biệt đáng chú ý là Mỹ rơi vào tăng trưởng âm lần đầu tiên về năng suất lao động sau 30 năm”.

Trong khi đó, Trưởng ban nghiên cứu kinh tế thuộc Trung tâm giao lưu kinh tế quốc tế Trung Quốc Từ Hồng Tài cho rằng: “Động lực tăng trưởng kinh tế toàn cầu thiếu hụt, giữa các nền kinh tế hàng đầu của phương Tây phải có hành động thống nhất hơn, không thể dựa vào chính sách kích thích tiền tệ chỉ làm phần ngọn không trị tận gốc triệt để. Đặc biệt là Nhật Bản, quốc gia đang càng đi càng xa trên con đường sai lầm”.

Nhận định về vấn đề này, tờ Les Echos của Pháp nêu rõ: “Chính sách tiền tệ có tác dụng như một thứ thuốc độc mà các nền kinh tế trên khắp thế giới thực hiện đã lộ rõ hạn chế, hơn nữa các biện pháp chính sách tiền tệ cũng thiếu sự phối hợp với nhau nên đã mất đi hiệu quả”.

Cuộc chiến bảo hộ thương mại

Điều đáng tiếc là giữa các nền kinh tế phát triển hàng đầu hiện nay không có kế hoạch liên kết đổi mới, ngược lại còn rơi vào “cuộc chiến bảo hộ thương mại” ngày càng quyết liệt.

Tờ Handelszeitung của Thụy Sĩ dẫn quan điểm của một báo cáo của Trung tâm nghiên cứu chính sách kinh tế Anh, cho rằng những năm gần đây, biện pháp bảo hộ thương mại trên toàn thế giới không những không giảm mà còn tăng lên. Kim ngạch thương mại trên thế giới đã không tăng trưởng trong 15 tháng liên tiếp, đây là thực tế mà ngay cả các chuyên gia của Tổ chức Thương mại Thế giới [WTO], Quỹ Tiền tệ Quốc tế [IMF] và Ngân hàng Thế giới [WB] đều coi nhẹ.

Nghiên cứu viên của Viện nghiên cứu vấn đề quốc tế Trung Quốc Ngụy Dân cho rằng: “Mỹ là quốc gia thúc đẩy toàn cầu hóa trong quá khứ, hiện tại họ ý thức được rằng các nước đang phát triển hưởng lợi nhiều từ toàn cầu hóa, bắt đầu nhấn mạnh ngành chế tạo phải quay về Mỹ. Do đó, họ khởi động lại làn sóng của chủ nghĩa biệt lập và chủ nghĩa bảo thủ”.

Các nền kinh tế phát triển hàng đầu của phương Tây cho rằng, trong quá trình toàn cầu hóa, các nước đang phát triển nhanh chóng trỗi dậy đã tạo thành mối đe dọa đối với họ, trong đó có thách thức các ưu thế truyền thống của họ về mặt quy tắc, quản lý... Do đó, các nước phát triển cũng đang điều chỉnh chính sách kinh tế, có tâm lý cảnh giác nhất định đối với việc mở cửa. Đặc biệt là đối với những ngành không có ưu thế đặc biệt, họ càng có xu hướng thực hiện biện pháp của chủ nghĩa bảo hộ, dựng chướng ngại vật.

Trong không gian chính sách kinh tế toàn cầu thiếu sự phối hợp với nhau, tăng trưởng kinh tế khôi phục được tính bền vững từ bên trong là điều có khả năng xảy ra. Joseph Eugene Stiglitz cho biết: “Để thực hiện điều này, cần viết lại quy tắc kinh tế thị trường nhằm đảm bảo công bằng nhiều hơn, đồng thời lấy cơ chế có hiệu quả và kích thích phù hợp làm biện pháp quản lý và kiểm soát thị trường”. Vấn đề là ở chỗ nền kinh tế phát triển hàng đầu nào mong muốn thực hiện đầu tiên?

Theo baoquocte.vn

In bài viết

Tags

ngân hàng xuất khẩu thị trường nhà đầu tư lao động Tổ chức Thương mại Thế giới lãi suất tập đoàn tăng trưởng khôi phục nền kinh tế

THÔNG TIN CẦN QUAN TÂM

Tin nổi bật

Động thái của khối ngoại: Vẫn “kiên trì” bán ròng!

28/02/2022

Tháo gỡ vướng mắc về khai báo mã HS đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu

28/02/2022

CPI tháng 2/2022 tăng do xăng dầu tăng theo giá nhiên liệu thế giới

28/02/2022

Điểm lại chính sách tài chính nổi bật có hiệu lực trong tháng 2/2022

28/02/2022

Địa phương được dùng nguồn cải cách tiền lương còn dư để chi phòng, chống dịch COVID-19

28/02/2022

Tăng trưởng kinh tế Mỹ chậm nhất trong năm nay

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Tăng trưởng kinh tế Mỹ chậm lại trong quý thứ ba, nhưng vượt kỳ vọng của một số nhà kinh tế về một mức suy giảm lớn hơn.

Dữ liệu của Bộ Thương mại đặt mức tăng trưởng GDP ở mức 1,9% trong ba tháng, vượt mức 1,6% dự đoán.

Mức tiêu dùng tăng tốt hơn dự kiến, bù đắp cho sụt giảm trong đầu tư kinh doanh và mức chi tiêu công thấp hơn.

Quảng cáo

Nhưng tăng trưởng vẫn chậm nhất trong năm 2019, và tin này đến vài giờ trước khi Cục Dự trữ Liên bang chuẩn bị đưa ra thông báo về lãi suất mới nhất.

Ông Trump trấn an nỗi lo suy thoái kinh tế Hoa Kỳ

Trump xem xét giảm thuế để thúc đẩy kinh tế Mỹ

Chứng khoán toàn cầu bị bán tháo vì lo suy thoái kinh tế

Thương chiến Mỹ Trung sẽ đi về đâu?

Tăng trưởng GDP trong quý trước - ba tháng đến cuối tháng 6 - chỉ dưới 2%. Năm 2018, nền kinh tế Mỹ tăng trưởng 3,4% trong quý ba.

Cuộc chiến thương mại của chính quyền Trump với Trung Quốc làm xói mòn niềm tin thương mại, trong khi sự kích thích mờ nhạt từ gói cắt giảm thuế 1,5 triệu đôla năm ngoái cũng đang phủ bóng lên phát triển kinh tế.

UNDP: Đại dịch Covid-19 thách thức kinh tế nghiêm trọng với toàn cầu

[ĐCSVN] - Theo UNDP, cuộc khủng hoảng vẫn chưa đi đến hồi kết, với hơn 400.000 ca nhiễm mới được báo cáo mỗi ngày, trong đó có hơn 50.000 ca ở Đông Nam Á. Hy vọng lớn nhất hiện nay, vẫn là việc triển khai vắc-xin một cách nhanh chóng và công bằng cùng sự phối hợp hành động đa phương để duy trì đầu tư, thương mại và việc làm khi dịch bệnh được ngăn chặn và tiến trình được nối lại hướng đến đạt được những mục tiêu phát triển bền vững [SDG] trong năm 2030.

Đại dịch Covid-19 thách thức kinh tế nghiêm trọng với toàn cầu[Ảnh minh họa:Mạnh Hùng]

Theo báo cáo của Chương trình phát triển Liên hợp quốc [UNDP] công bố hôm nay [27/9] cho rằng, Đại dịch Covid-19, là một cuộc khủng hoảng sức khỏe mà hệ lụy của nó là nỗi đau khổ to lớn và thiệt hại đó là, mạng sống con người. Đại dịch Covid-19, cũng là thách thức kinh tế nghiêm trọng nhất, thậm chí còn sâu rộng hơn cả cuộc Khủng hoảng Tài chính Toàn cầu năm 2008-2009.

Theo UNDP, cuộc khủng hoảng vẫn chưa đi đến hồi kết, với hơn 400.000 ca nhiễm mới được báo cáo mỗi ngày, trong đó có hơn 50.000 ca ở Đông Nam Á. Hy vọng lớn nhất hiện nay, vẫn là việc triển khai vắc-xin một cách nhanh chóng và công bằng cùng sự phối hợp hành động đa phương để duy trì đầu tư, thương mại và việc làm khi dịch bệnh được ngăn chặn và tiến trình được nối lại hướng đến đạt được những mục tiêu phát triển bền vững [SDG] trong năm 2030.

UNDP đánh giá. Thứ nhất, đợt bùng phát dịch gần đây ở Đông Nam Á, sự phục hồi của khu vực có thể sẽ bị chậm lại trong năm 2021 và 2022. Tăng trưởng sẽ tăng tốc trong năm 2021, nhưng thấp hơn so với các khu vực khác, đạt được lực kéo trong năm 2022 do du lịch, vận tải và các dịch vụ bắt đầu hoạt động đầy đủ trở lại. Thứ hai, Việt Nam có thể hỗ trợ tăng trưởng, việc làm và thu nhập bằng một chương trình hỗ trợ tiền mặt lớn hơn cho các hộ gia đình có hoàn cảnh khó khăn mà không sợ lạm phát hoặc tác động tiêu cực đến cán cân thanh toán.

UNDP, cho biết: Theo một báo cáo gần đây của UNCTAD [Hội nghị Liên Hợp Quốc về Thương mại và Phát triển], thì nền kinh tế thế giới giảm 3,5% trong năm 2020 đối với các nước phát triển là những nước phụ thuộc nhiều vào dịch vụ nên bị ảnh hưởng đặc biệt nghiêm trọng. Tốc độ tăng trưởng khu vực Đông Nam Á giảm 3,9% do mất nguồn thu từ du lịch quốc tế, suy giảm đầu tư của khu vực tư nhân và giảm hoạt động trong lĩnh vực xây dựng và khai khoáng. Việt Nam, quốc gia ghi nhận mức tăng trưởng 2,9% cho năm 2020, là một nước vượt trội trong khu vực nhờ việc kiểm soát dịch bệnh sớm và hiệu quả. UNCTAD dự báo tăng trưởng sản lượng thế giới là 5,3% trong năm nay khi nền kinh tế lấy lại vị thế đã mất vào năm 2020, nhưng tình hình phục hồi sẽ chậm trong năm 2022. Mặc dù tăng trưởng theo xu thế trên sẽ duy trì trong năm 2021-2022, nhưng kinh tế thế giới vào cuối năm 2022 sẽ đạt 10 nghìn tỷ USD thấp hơn nhiều so với con số đáng lẽ sẽ đạt được nếu không có đại dịch Covid-19. Sự phục hồi của Đông Nam Á sẽ bị chậm lại bởi đợt bùng phát dịch mới nhất trong khu vực, và tăng trưởng sẽ bứt tốc vào năm 2022.

Tác động kinh tế của Covid-19 lớn hơn nhiều so với cuộc Khủng hoảng Tài chính Toàn cầu, đặc biệt là ở Đông Nam Á, Nam Á và Châu Phi. Ở Đông Nam Á, các quốc gia lệ thuộc nhiều vào du lịch như Thái Lan, Malaysia và Philippines đã bị ảnh hưởng nặng nề do bị hạn chế đi lại. Các nhà sản xuất dầu mỏ, khí đốt và than đá đã phải chịu đựng thời gian giảm giá kéo dài trong năm 2020, mặc dù giá xuất khẩu khoáng sản và lương thực thực phẩm thực tế đã tăng nếu tính trên bình diện cả năm. Đầu tư tư nhân bị ảnh hưởng nặng nề, đặc biệt là trong các ngành dịch vụ và xây dựng. Một vấn đề lớn trong toàn khu vực là tiêu dùng tư nhân bị thu hẹp mạnh do chính sách tài khóa ứng phó tương đối trầm lắng.Giá hàng hóa tăng và một số nguồn cung bị đình trệ, đặc biệt là ở các ngành bán dẫn, đã gây ra lạm phát giá ở một số quốc gia, đặc biệt là Hoa Kỳ, khi đang tập trung để tăng tốc phục hồi. Thông thường chúng ta sẽ trải qua một giai đoạn lạm phát giá ngắn sau một cuộc khủng hoảng lớn: ví dụ, lạm phát tăng nhanh ngay sau cuộc Khủng hoảng Tài chính Toàn cầu năm 2009 nhưng sau đó nhanh chóng giảm xuống. Châu Âu và Nhật Bản, những quốc gia đã phải vật lộn với tình trạng giảm phát giá kể từ cuộc Khủng hoảng Tài chính Toàn cầu - và trong trường hợp của Nhật Bản, thậm chí là từ lâu hơn - xu hướng giá vẫn tiêu cực bất chấp đợt tăng gần đây. Tại Hoa Kỳ, các nhà hoạch định chính sách sẽ theo dõi giá cả để xem liệu kỳ vọng về lạm phát có bắt đầu ảnh hưởng đến tiền lương hay không. Nếu điều đó xảy ra, việc tăng lãi suất có thể được đưa ra trong năm 2022, sớm hơn so với dự báo hiện tại. Tuy nhiên, tỷ lệ việc làm trên dân số ở Hoa Kỳ vẫn còn thấp, cho thấy rằng ngay cả khi có sự phục hồi mạnh mẽ, chúng ta khó có thể nhìn thấy một giai đoạn mà áp lực tăng lương được duy trì liên tục.

Lạm phát giá tăng nhanh tại Hoa Kỳ là một tin xấu đối với các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước dựa vào dòng vốn đầu tư để tài trợ cho thâm hụt thương mại. Nợ của các nước đang phát triển, đặc biệt nếu tính bằng đồng nội tệ, trở nên tệ hơn khi lãi suất ở các nước phát triển tăng. Sự kiện Taper Tantrum năm 2013, khi quá kỳ vọng lãi suất sẽ tăng dẫn đến lợi suất Trái phiếu Chính phủ Hoa Kỳ tăng vọt và gây ra một dòng vốn chảy ngược ra khỏi các nước đang phát triển, là một bài học khắc nghiệt về tính dễ bị tổn thương của “các thị trường mới nổi” trước sự chuyển đổi đột ngột của dòng vốn quốc tế. Ngay cả các quốc gia phát hành nợ công bằng đồng tiền của họ cũng không an toàn, bởi vì trong những năm gần đây, các nhà giao dịch chứng khoán toàn cầu đã tham gia tích cực vào thị trường trái phiếu nội địa. Các quốc gia như Indonesia phụ thuộc vào nhà đầu tư quốc tế để bán được 40% trái phiếu nội địa, điều này khiến quốc gia này dễ bị tổn thương khi có thay đổi tâm lý đột ngột. Người nước ngoài không tham gia vào thị trường trái phiếu VND trong nước, điều này đem lại sự bảo vệ khỏi bị tác động khi dòng vốn toàn cầu đột ngột dừng lại.

Trung Quốc là quốc gia quyết định chủ yếu đến sự tăng giá của các mặt hàng nguyên liệu, điều này đã làm cho chi tiêu vào cơ sở hạ tầng trong thời kỳ đại dịch bị đội lên, tăng giá trị nhập khẩu của các kim loại như đồng và sắt. Trung Quốc cũng đã tăng giá trị nhập khẩu dầu thực vật, lúa mì và đậu tương, hỗ trợ thêm cho giá lương thực. Tình trạng khô hạn ở Nam Mỹ đã làm giảm nguồn cung ngũ cốc và các mặt hàng nguyên liệu khác. Giá nhiên liệu đã phục hồi theo thỏa thuận OPEC +, nhưng nếu giá tiếp tục tăng, các nhà sản xuất dầu khí đá phiến của Hoa Kỳ sẽ tăng lượng cung, điều này sẽ giúp bình ổn giá. Giá than đã tăng trong năm 2021, nhưng những nguyên nhân chính dẫn đến tăng giá chỉ mang tính tạm thời và hầu hết các nhà quan sát đều cho rằng giá than sẽ chỉ tăng trong một thời gian ngắn.

Khối lượng thương mại quốc tế giảm 5,6% năm 2020, mức giảm ít nghiêm trọng hơn so với dự đoán ban đầu. UNCTAD kỳ vọng mức tăng trưởng thực tế đạt gần 10% vào năm 2021. Trung Quốc ghi nhận mức tăng trưởng xuất khẩu nhanh nhất, nhưng các quốc gia đang phát triển ở châu Á cũng không bị tụt lại xa. Tuy nhiên, sự gia tăng mạnh mẽ về khối lượng thương mại đăng ký trong nửa đầu năm 2021 có khả năng sẽ không tiếp tục, vì điều này phản ánh sự phục hồi lại lượng hàng tồn kho đã bị cạn kiệt trong năm 2020 và sự chuyển dịch từ dịch vụ sang hàng hóa ở các nước phát triển hiện có vẻ đã được tái cân bằng. Chi phí vận chuyển cao do sự đình đốn của hạ tầng cơ sở và thiếu hụt một số cấu phần cũng sẽ góp phần làm giảm nhiệt tốc độ tăng trưởng xuất khẩu.

Du lịch, chiếm 1/4 tổng thương mại dịch vụ, vẫn còn suy thoái, với lượng khách du lịch đến vẫn thấp hơn 85% dưới mức năm 2019 đối với toàn thế giới và thấp hơn 95% ở châu Á. Tổ chức Du lịch Thế giới của Liên Hợp Quốc không kỳ vọng du lịch sẽ đạt mức năm 2019 cho đến tận năm 2024. Doanh thu từ hành khách hàng không trong quý đầu tiên của năm 2021 vẫn giảm 74% so với năm 2019, mặc dù doanh thu hàng hóa đường hàng không tăng vọt lên.

Khủng hoảng Tài chính Toàn cầu năm 2008-2009 đánh dấu một bước ngoặt trong hoạch định chính sách kinh tế. Mức độ nghiêm trọng của khủng hoảng, và thực tế là khủng hoảng xuất hiện từ tâm điểm của nền tài chính toàn cầu chứ không phải từ các quốc gia ngoại vi, đã phá vỡ sự đồng tình vốn đang thịnh hành về việc ủng hộ tự do hóa tài chính và tự do luân chuyển vốn. Mặc dù các hành vi gian lận trong thị trường thế chấp của Hoa Kỳ là nguyên nhân trực tiếp gây ra khủng hoảng, nhưng có những nguyên nhân sâu xa hơn trong đó, bao gồm mức độ bất bình đẳng kinh tế ngày càng tăng, đòn bẩy quá đà, đầu tư dưới mức cần thiết cũng như tăng năng suất chậm và mất cân bằng toàn cầu.

Khi khủng hoảng bộc lộ ra và các nước phát triển phải đối mặt với khả năng thực sự rơi vào suy thoái toàn cầu, các nhà lãnh đạo thế giới đã kêu gọi một biện pháp kích thích tài khóa toàn cầu có sự phối hợp lẫn nhau để ngăn chặn vòng xoáy đi xuống trong thương mại, việc làm và thu nhập. Hoa Kỳ đã công bố một gói kích thích tức thì có quy mô lên đến 1,6% GDP, và chương trình có quy mô tương đương 4,3% GDP của Trung Quốc trong hai năm đã xác lập giá sàn cho các hàng hóa nguyên liệu toàn cầu. Nhưng một khi cuộc khủng hoảng trước mắt qua đi, Hoa Kỳ và châu Âu, đề phòng nợ công tăng lên, đã chuyển từ kích thích sang thắt lưng buộc bụng, hoàn toàn dựa vào chính sách tiền tệ để hỗ trợ tăng trưởng cầu tiêu dùng.

Kết quả của việc rút hỗ trợ tài khóa sớm là tăng trưởng chậm lại và giá tài sản tăng. Được nâng đỡ bởi tín dụng giá rẻ và sự khan hiếm các cơ hội đầu tư khả thi, các tập đoàn và hộ gia đình đã đổ tiền vào cổ phiếu và bất động sản. Tính đến tháng 9 năm 2021, giá nhà ở Hoa Kỳ đã vượt qua mức đỉnh điểm trước khủng hoảng và chỉ số S&P 500 đã giao dịch ở mức cao gấp ba lần mức năm 2007 bất chấp sự ngăn trở của đại dịch covid. Trung Quốc và các nước khác ở Đông Á tiếp tục vượt trội so với các khu vực khác với mức đầu tư cao hơn và thặng dư thương mại được tạo ra do sự chuyển dịch sản xuất toàn cầu từ Tây sang Đông. Tăng trưởng toàn cầu giảm tốc so với xu hướng trước khủng hoảng, tụt dốc do đầu tư và nhu cầu tiêu dùng tăng trưởng chậm lại.

Theo UNDP: Có một mối nguy là chúng ta đã không rút được kinh nghiệm từ Khủng hoảng Tài chính Toàn cầu. Trong giai đoạn đầu của đại dịch Covid, mối đe dọa tức thì làm suy sụp kinh tế đã thôi thúc các nước phát triển phải hành động. Chính phủ tăng chi tiêu cho y tế và an sinh xã hội, cắt giảm và giãn nộp thuế, tạo ra các cơ chế mới để thay thế tiền lương trong khu vực tư nhân và rót các khoản vay ưu đãi cho các doanh nghiệp nhỏ. Phần chi tiêu tăng thêm và phần thuế giảm đi lên tới 10% GDP thế giới, được bổ sung bởi gói kích thích tiền tệ có quy mô tương đương 6% GDP.

Biện pháp ứng phó về tài khóa đã giúp ngăn chặn kịch bản xấu nhất về sự sụp đổ chung của thương mại, việc làm và thu nhập. Tuy nhiên, như trường hợp của cuộc Khủng hoảng Tài chính Toàn cầu, biện pháp ứng phó lại không đồng đều và không phù hợp với quy mô của những thách thức mà nền kinh tế quốc tế phải đối mặt. Bất chấp những lời hứa đi hứa lại là sẽ “tái thiết hiệu quả hơn”, các nước phát triển đã chống lại những lời kêu gọi về một kế hoạch phục hồi toàn cầu có sự phối hợp lẫn nhau, biện pháp giảm nợ thiết thực cho các quốc gia vay nợ cao và cải cách cấu trúc tài chính quốc tế để ngăn chặn đầu cơ và rót nguồn lực cho các khoản đầu tư hiệu quả về mặt xã hội, đặc biệt là các hệ thống năng lượng tái tạo cũng như giảm nhẹ và thích ứng với biến đổi khí hậu. Việc sản xuất và phân phối vắc-xin covid vẫn còn rất không đồng đều: tính đến giữa tháng 9, 5,6 tỷ liều vắc-xin đã được tiêm, nhưng chỉ có hai phần trăm ở châu Phi.

Việc thiếu vắng các chính sách tài khóa phối hợp sẽ làm tăng khả năng quay trở lại xu hướng tăng trưởng thấp sau đại dịch mà trước đây đã từng thấy sau cuộc Khủng hoảng Tài chính Toàn cầu. Các dự báo do Mô hình Chính sách Toàn cầu của Liên hợp quốc đưa ra cho thời gian từ năm 2023 đến năm 2030 giả định hoạt động tài khóa sau năm 2022 sẽ giảm, mức độ bất bình đẳng cao trong nước và sự lệ thuộc vào chính sách tiền tệ nới lỏng vẫn còn đeo đẳng. Những dự báo này chỉ ra rằng sự kết hợp giữa chính sách tài chính hóa, tài khóa thắt chặt và bất bình đẳng sẽ tiếp tục ảnh hưởng xấu đến tăng trưởng trong thời kỳ hậu đại dịch. Trong trường hợp không có một gói kích thích tài khóa lớn nào khác ở Trung Quốc, thì tốc độ giảm tăng trưởng ở Đông Á [ngoại trừ Trung Quốc] sẽ đặc biệt nghiêm trọng, được đánh dấu bởi tỷ lệ đầu tư giảm và ở các quốc gia có thâm hụt cán cân vãng lai kéo dài là sự lệ thuộc ngày càng cao vào các nguồn vốn đầu tư chảy vào đầy rủi ro.

Các nước đang phát triển chủ yếu để cho các công cụ của riêng mình quản lý tác động của đại dịch đến kinh tế, và các nước này đã thay đổi đáng kể năng lực của mình trong việc đưa ra các chính sách ứng phó về tài khóa có thể so sánh được với các nước phát triển. Ngay cả tại khu vực Đông Nam Á, chi tiêu bổ sung cho y tế và an sinh xã hội dao động từ mức cao là 18% GDP ở Singapore đến 0% ở CHDCND Lào, Việt Nam đã tăng chi tiêu cho y tế và an sinh xã hội lên 2% GDP từ tháng 1 năm 2020 đến tháng 6 năm 2021.

Việt Nam đã áp dụng hai biện pháp tài khóa kể từ đầu đại dịch. Nghị quyết 42/NQ-CP về hỗ trợ người dân bị ảnh hưởng bởi Covid-19 được ban hành vào tháng 4 /2020 và bao gồm trong đó là gói hỗ trợ 62 nghìn tỷ đồng để hỗ trợ 20 triệu công nhân bị mất việc làm do đại dịch. Một gói hỗ trợ mới trị giá 26 nghìn tỷ đồng đã được công bố vào ngày 1/7/2021 để giúp những người lao động bị ảnh hưởng bởi phong tỏa và giãn cách xã hội trong đợt bùng phát dịch gần nhất [Nghị quyết 68/NQ-CP]. Chính phủ đã có những hành động kịp thời nhằm giảm bớt khó khăn cho các hộ gia đình không có thu nhập do mất việc làm hoặc mất thu nhập từ công việc tự do.

Tuy nhiên, có bằng chứng cho thấy gói hỗ trợ vừa không đủ lớn vừa không đủ rộng về phạm vi để bảo vệ các hộ gia đình có hoàn cảnh khó khăn khỏi bị mất thu nhập do phong tỏa và giãn cách xã hội. Một nghiên cứu mới đây do Trung tâm Phân tích và Dự báo - Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam thực hiện cho thấy tỷ lệ nghèo về thu nhập tạm thời đã tăng từ mức 10% trước đại dịch lên 33,4% vào tháng 08 năm 2021 [dựa trên chuẩn nghèo 2021-2025 do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành]. Theo báo cáo này, chín mươi phần trăm số người được hỏi đã không nhận được hỗ trợ kể từ khi gói tháng 7 năm 2021 được phê duyệt và lao động di cư, lao động tự do và người vô gia cư không đủ điều kiện được nhận trợ cấp. Hàng ngàn hộ gia đình buộc phải cắt giảm chi tiêu, thậm chí cắt giảm cả tiền sữa cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ.

Theo một báo cáo đánh giá tình hình triển khai Nghị quyết 68 do Viện Khoa học Lao động và Xã hội [Bộ Lao động Thương binh và Xã hội] thực hiện khẳng định rằng tỷ lệ bao phủ của các chương trình hỗ trợ tiền mặt còn thấp do thiết kế chương trình loại trừ các nhóm đối tượng có hoàn cảnh khó khăn như lao động di cư không đăng ký và lao động tự do trong khu vực phi chính thức. Báo cáo cũng chỉ ra rằng độ bao phủ giữa các tỉnh là khác nhau vì chương trình dựa vào chính quyền địa phương để huy động nguồn kinh phí. Các quy định rườm rà cho người nhận trợ cấp và người sử dụng lao động cũng đã làm giảm tỷ lệ bao phủ và tỷ lệ giải ngân.

Theo UNDP khoản ứng phó tài khóa của Việt Nam đối với cuộc khủng hoảng là nhỏ so với các nước láng giềng. Lý do cho các nỗ lực tài khóa hạn chế là cần phải kiềm chế bội chi ngân sách của chính phủ để ngăn tỷ lệ nợ trên GDP tăng lên có khả năng gây ra lạm phát và thâm hụt cán cân thanh toán. Mặc dù logic này có giá trị trong những giai đoạn bình thường, nhưng cần phải thừa nhận rằng giãn cách xã hội và phong tỏa là một tình huống rất bất thường đòi hỏi phải có các biện pháp đặc biệt. Mặc dù trong hầu hết các năm, tăng trưởng tiêu dùng tư nhân chiếm từ 60 đến 70% tổng tăng trưởng kinh tế, nhưng trong thời gian đóng cửa, tiêu dùng bị kìm hãm bởi các biện pháp hạn chế đi lại và đóng cửa các nhà hàng và cửa hàng bán lẻ. Tiêu dùng đóng góp tương đối ít vào tăng trưởng sản lượng trong năm 2020 do các hộ gia đình buộc phải kiềm chế chi tiêu trong thời kỳ đại dịch. Tiêu dùng đã phục hồi trong nửa đầu năm 2021, nhưng chúng ta có thể dự đoán rằng chi tiêu sẽ giảm mạnh trong nửa cuối năm vì các hộ gia đình phải đối mặt với các lệnh hạn chế nhằm kiểm soát sự lây lan của đợt bùng phát dịch mới nhất.

Việc cắt giảm chi tiêu do lệnh phong tỏa giãn cách xã hội dẫn đến tiết kiệm bắt buộc hoặc tiết kiệm ngoài kế hoạch, vì không thể tiêu dùng được theo kế hoạch. Do phần lớn hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng của các hộ gia đình thường được sản xuất trong nước, nên các khoản tiết kiệm bắt buộc này thể hiện sự mất đi thu nhập đối với các công ty trong nước sản xuất, vận chuyển và bán những hàng hóa và dịch vụ đó. Tác động của chi tiêu thấp hơn được khuếch đại lên khi việc giảm chi tiêu trong vòng đầu có tác động gián tiếp đến các vòng tiếp theo. Ví dụ, khi một hộ gia đình cắt giảm chi tiêu cho các bữa ăn được phục vụ sẵn thì chủ quán ăn sẽ mua ít thịt và bún mì phở hơn, đồng thời giảm tiền công cho đầu bếp và nhân viên dọn dẹp. Điều này làm giảm thu nhập của các cơ sở sản xuất thịt và bún mì phở, giảm tiền lương trả cho nhân công của họ và giảm thu nhập của các cơ sở bán hàng hóa và dịch vụ cho những nhân công này. Mỗi vòng giảm chi tiêu sẽ khuếch đại tác động của vòng giảm chi tiêu ban đầu. Đây là hiệu ứng cấp số nhân, quy mô của hiệu ứng đó phụ thuộc vào tỷ lệ thu nhập mà các hộ gia đình thường chi tiêu cho hàng hóa và dịch vụ sản xuất trong nước. Hệ số nhân lớn hơn 1, nghĩa là mức đóng góp cuối cùng vào tổng sức cầu của các vòng chi tiêu sau sẽ lớn hơn mức gia tăng chi tiêu ban đầu.

Các doanh nghiệp đóng thuế trên thu nhập mình kiếm được, do đó việc giảm chi tiêu cũng làm giảm thu ngân sách. Các gói kích thích làm tăng chi tiêu trong nước sẽ chi trả một phần cho chính phủ vì chúng làm tăng hoạt động kinh tế trong nước và do đó tạo ra nguồn thu thuế.

Một ý nghĩa quan trọng khác của tiết kiệm bắt buộc là một số khoản chi tiêu bị giảm đi sẽ tích lũy thành dư tiền mặt và hàng tồn kho. Những số dư này là một sự tiêu hao của tổng cầu trừ khi số tiền đó được huy động từ việc bán nợ công, số tiền thu về được chi tiêu theo những cách làm tăng tiêu dùng và đầu tư trong nước. Nợ công tăng thêm không tạo ra lạm phát giá bởi vì những khoản tiền mặt này là nhàn rỗi, nói cách khác, chính phủ không phải cạnh tranh với những người đi vay khác để sử dụng số tiền này. Chi tiêu chính phủ tăng thêm cũng sẽ không tạo ra tình trạng thiếu hụt lao động, đầu tư hay hàng hóa tiêu dùng, bởi vì nền kinh tế đang hoạt động dưới mức tiềm năng của mình. Do đó, rủi ro lạm phát giá là nhỏ.

Một lập luận khác đối với việc thực hiện chương trình hỗ trợ tiền mặt lớn là một phần chi tiêu bổ sung sẽ được sử dụng để mua hàng nhập khẩu, điều này có thể có tác động tiêu cực đến cán cân thanh toán. Tuy nhiên, như thể hiện trong Hình 4, cán cân thương mại của Việt Nam vẫn duy trì thặng dư trong suốt đại dịch mặc dù bị mất đi thu nhập từ du lịch, bởi vì xuất khẩu phục hồi nhanh chóng từ mức thấp trong quý II năm ngoái. Mặc dù nhập khẩu phục hồi trong nửa đầu năm 2021, nhưng điều này khó có thể xảy ra trong nửa cuối năm do tiêu dùng bị kìm hãm từ tháng 7. Hơn nữa, tỷ lệ tiền mặt nhận được từ hỗ trợ để tiêu dùng hàng nhập khẩu có thể không nhiều khi các khoản hỗ trợ này được chuyển trực tiếp cho các hộ gia đình có thu nhập thấp và trung bình, là các hộ chi tiêu phần lớn thu nhập của họ cho hàng hóa và dịch vụ sản xuất trong nước như lương thực thực phẩm, điện nước, nhà ở và các dịch vụ thiết yếu như giáo dục và chăm sóc sức khỏe.

Do tiết kiệm bắt buộc, Chính phủ có thể tăng đáng kể quy mô của chương trình hỗ trợ tiền mặt mà không vấp phải nguy cơ tăng lạm phát hoặc tăng lãi suất. Một gói trợ cấp tiền mặt với quy mô tương đương 5% GDP quý được giải ngân trong những tháng cuối năm 2021 [khoảng 77 nghìn tỷ đồng] là tương đương mức hỗ trợ của các quốc gia khác trong khu vực. Như đã đề cập trên đây, hiệu ứng hệ số nhân của việc gia tăng tiêu dùng lớn hơn 1 - điều này có nghĩa là gói trợ cấp 77 nghìn tỷ đồng sẽ có tác động lớn hơn nhiều đến tổng tiêu dùng tư nhân và tổng sản lượng kinh tế.

Để đạt được đồng thời mục tiêu kép là hỗ trợ các hộ gia đình có hoàn cảnh khó khăn và kích thích tăng trưởng kinh tế thì cần phải triển khai chương trình hỗ trợ tiền mặt càng nhanh càng tốt. Cách nhanh nhất để triển khai là áp dụng ngay gói trợ cấp cho trẻ em cho: Mọi trẻ từ sơ sinh đến 6 tuổi [khoảng 11 triệu trẻ], với điều kiện xuất trình được giấy khai sinh chứng minh độ tuổi, Phụ nữ mang thai; Người cao tuổi từ đủ 60 [có khoảng 11,5 triệu người], bao gồm cả người cao tuổi từ 80 tuổi trở lên – thuộc đối tượng bảo trợ xã hội thường xuyên với điều kiện họ không có lương hưu; Người khuyết tật. Bên cạnh đó, cần giảm thiểu yêu cầu về thủ tục hành chính và áp dụng việc đăng ký trực tuyến cho những người thuộc diện hỗ trợ. Tiền hỗ trợ sẽ được chi trả hàng tháng hay một lần, áp dụng cho ba tháng cuối năm 2021. Mức hỗ trợ có thể được xác định căn cứ trên mức tối thiểu để duy trì cuộc sống theo quy định tại Nghị định số 20/2021/NĐ-CP [thay thế Nghị định 136/2013/NĐ-CP].

Một trong những bài học quan trọng rút ra từ sự lây lan với tốc độ chóng mặt của biến thể Delta là chúng ta không chỉ phải đối mặt với những bước lùi, mà thậm chí là chúng ta cần phải dự kiến trước những bước lùi đó. Do đó, một mặt cần triển khai gói hỗ trợ tạm thời ngay lập tức; mặt khác, cần chuẩn bị xây dựng các chương trình bổ sung nhằm duy trì tăng trưởng và tiêu dùng tư nhân trong trường hợp cần thiết. Các chương trình bổ sung cần giải quyết các vấn đề mà các chương trình ngắn hạn chưa giải quyết được. Ví dụ như: Đẩy nhanh quá trình chuyển đổi sang đăng ký điện tử cho các đối tượng thụ hưởng trợ cấp xã hội dựa trên mã số định danh duy nhất thay vì dựa trên đăng ký cư trú. Triển khai chương trình hỗ trợ tiền thuê trọ nhằm đảm bảo người lao động thu nhập thấp không bị đuổi khỏi nơi thuê trọ trong thời gian giãn cách do mất thu nhập dẫn đến không trả được tiền trọ. Triển khai chương trình hỗ trợ máy tính bảng giá phải chăng sản xuất trong nước cho mọi trẻ trong độ tuổi đến trường cần thiết bị để học online tại nhà trong thời gian giãn cách xã hội. Phát phiếu mua hàng miễn phí hoặc giảm giá đối với các nhu yếu phẩm sản xuất trong nước, bao gồm gạo, rau củ quả, dầu ăn, quần áo, sách vở, dụng cụ học tập.

Mục tiêu của các chính sách, chương trình đề xuất trên đây là để hỗ trợ cho các đối tượng có hoàn cảnh khó khăn trong trường hợp kéo dài thời gian giãn cách xã hội và đồng thời để duy trì mức tiêu dùng trong nước. Cần tập trung vào các mặt hàng nhu yếu phẩm sản xuất trong nước để góp phần thúc đẩy

Sự phục hồi của nền kinh tế toàn cầu sau đại dịch Covid-19 đã bắt đầu tập trung tăng tốc, nhưng các điều kiện vẫn còn xa so với bình thường. Số ca mắc mới vẫn ở mức cao, bao gồm cả ở Đông Nam Á và Việt Nam, và không thể loại trừ sự xuất hiện của các biến thể mới của vi rút. Các rủi ro khác cũng đe dọa sự phục hồi.

Tăng lạm phát ở Hoa Kỳ có thể dẫn đến lãi suất cao hơn và sự đảo ngược dòng vốn từ các nước đang phát triển sang các nước phát triển. Thiếu một kế hoạch phục hồi toàn cầu có sự phối hợp lẫn nhau sẽ làm tăng khả năng các gói kích thích tài khóa — vốn là công cụ cho sự phục hồi của thương mại toàn cầu — sẽ bị rút lại quá sớm. Có vẻ vẫn chưa thể phục hồi được du lịch và đi lại trước năm 2024, và thậm chí mốc thời gian đó có thể vẫn là lạc quan nếu xuất hiện một đợt bùng phát dịch mới. Sản xuất và phân phối vắc xin diễn ra chậm chạp và không đồng đều, sẽ làm cản trở sự phục hồi của các nước đang phát triển, nhiều nước trong số này hiện đang phải gánh chịu số ca nhiễm cao nhất.

Tiêu dùng tư nhân sẽ bị kìm hãm trong nửa cuối năm nay ở Việt Nam, điều này sẽ làm giảm thu nhập, việc làm và số thu từ thuế. Để chống lại những tác động của tiết kiệm bắt buộc, UNDP đã đề xuất một chương trình hỗ trợ tiền mặt với quy mô khoảng 5% GDP quý, triển khai ngay từ thời điểm này và trong các tháng còn lại của năm 2021. Cần chú trọng giải ngân nhanh, đặc biệt là đối với những người dân đang sống trong hoàn cảnh đặc biệt khó khăn do đại dịch. Có thể xem xét áp dụng trợ cấp tiền mặt cho tất cả người cao tuổi và trẻ nhỏ theo hướng phổ quát. Bên cạnh đó, cần xây dựng chính sách hỗ trợ trong trung hạn và bắt đầu chuẩn bị cho công tác triển khai ngay từ bây giờ để ứng phó với trường hợp bị phong tỏa và giãn cách kéo dài.

Mạnh Hùng

Mục lục

Lịch sửSửa đổi

Bài chi tiết: Lịch sử Hoa Kỳ

Thời kỳ thuộc địa và thế kỷ 18Sửa đổi

Lịch sử kinh tế Hoa Kỳ bắt đầu từ giai đoạn di dân và định cư của người Anh dọc trên bờ biển phía đông nước Mỹ ngày nay trong thế kỷ 17 và 18. Cuộc di dân và định cư này hình thành nên các thuộc địa của Anh ở Mỹ hay còn được gọi là Mười ba thuộc địa, các thuộc địa này đã dành được độc lập từ tay Đế quốc Anh vào cuối thế kỷ 18 và nhanh chóng phát triển từ nền kinh tế thuộc địa sang nền kinh tế tập trung vào sản xuất nông nghiệp.

Thế kỷ 19Sửa đổi

Công ty sản xuất và chế tạo Washburn và Moen ở Worcester, Massachusetts, 1876

Trong 180 năm, nền kinh tế Mỹ đã phát triển thành một nền kinh tế công nghiệp hoá hợp nhất với quy mô khổng lồ, chiếm tới một phần năm sản lượng nền kinh tế toàn cầu. Kết quả là mức thu nhập GDP bình quân đầu người trước kia thấp hơn nay đã vượt qua Anh Quốc cũng như các quốc gia khác. Nhờ chính sách duy trì mức trả tiền công rất cao giúp nền kinh tế thu hút được hàng triệu người nhập cư từ khắp nơi trên thế giới.

Trong những thập niên đầu 1800, nước Mỹ chủ yếu canh tác nông nghiệp với hơn 80% dân số làm nông. Hầu hết các lĩnh vực sản xuất mới ở giai đoạn đầu của sơ chế nguyên liệu thô với các sản phẩm từ gỗ, dệt may, làm giầy dép. Nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú đã đóng góp vào tốc độ tăng trưởng và mở rộng kinh tế nhanh chóng trong suốt thế kỷ 19. Những vùng đất rộng lớn trù phú giúp nông dân tiếp tục mở rộng sản xuất canh tác, nhưng các lĩnh vực như sản xuất công nghiệp, dịch vụ, vận tải và lĩnh vực khác cũng đã phát triển với tốc độ cao hơn nhiều. Vì thế mà đến năm 1860 tỷ lệ dân số làm nông nghiệp tại Mỹ đã giảm từ 80% xuống còn xấp xỉ 50%.[62]

Trong thế kỷ 19, những đợt suy thoái kinh tế thường diễn ra tiếp sau các cuộc khủng hoảng tài chính. Cuộc khủng hoảng 1837 nối tiếp sau nó thời kỳ suy thoái 5 năm, với hàng loạt nhà băng đóng cửa và tỷ lệ thất nghiệp tăng cao.[63] Vì những thay đổi lớn của nền kinh tế qua nhiều thế kỷ, mức độ thiệt hại của suy thoái kinh tế trong thời kỳ hiện đại khó lòng so sánh được với những đợt suy thoái trước đây.[64] Thời kỳ suy thoái sau chiến tranh thế giới thứ 2 [WWII] có vẻ ít nặng nề hơn so với trước, nhưng nguyên nhân thì chưa được làm rõ.[65]

Thế kỷ 20Sửa đổi

Giếng dầu ở Los Angeles, California, 1905

Những phát minh và cải tiến kỹ thuật đầu thế kỷ đã mở ra canh cửa cho việc nâng cao mức sống của người dân Mỹ. Nhiều công ty đã tăng trưởng lớn nhờ tận dụng lợi thế kinh tế nhờ quy mô và sự phát triển của thông tin liên lạc để mở rộng mạng lưới ra khắp quốc gia. Việc tập trung phát triển này đã gây ra những lo ngại về nạn độc quyền sẽ kéo theo sự tăng giá cả hàng hoá và giảm sản lượng, tuy nhiên rất nhiều những công ty này đã thành công trong việc cắt giảm mạnh chi phí và tăng sản lượng dẫn đến giá hàng hoá được tiếp tục giảm xuống. Nhiều tầng lớp công nhân làm thuê đã được hưởng lợi trực tiếp từ những công ty phát triển này, cụ thể là hưởng những mức tiền công cao nhất thế giới.[66]

Hoa Kỳ là nền kinh tế lớn nhất thế giới tính theo GDP từ những năm 1920.[43] Nhiều năm tiếp theo sau cuộc Đại khủng hoảng 1930, khi mà những hậu quả của suy thoái trở nên nghiêm trọng nhất thì chính phủ đã có những hành động nhằm điều chỉnh nền kinh tế, bằng việc tăng chi tiêu chính phủ hoặc cắt giảm thuế nhằm kích thích người dân tăng chi tiêu tiêu dùng, và bằng việc tăng lượng cung tiền, chính phủ cũng thành công trong việc khuyến khích chi tiêu. Những ý tưởng về công cụ tốt nhất nhằm ổn định nền kinh tế đã thay đổi đáng kể từ giữa những năm 1930 và 1980. Từ kế hoạch chính sách mới [New Deal của tổng thống Franklin D. Roosevelt] năm 1933, tới sáng kiến xã hội vĩ đại của tổng thống Lyndon B. Johnson] năm 1960, các nhà làm chính sách đã dựa chủ yếu trên chính sách tài khoá để tác động tới nền kinh tế.

Những chiếc máy bay ném bom Consolidated B-24 Liberator tại Consolidated-Vultee Plant, Fort Worth, Texas, 1943

Trong suốt giai đoạn chiến tranh thế giới của thế kỷ 20, Hoa Kỳ đã có những bước đi khôn ngoan hơn tất cả những quốc gia còn lại khi mà không có cuộc chiến nào của Chiến tranh thế giới thứ nhất [WWI] và một phần nhỏ của Chiến tranh thế giới thứ hai [WWII] xảy ra trên lãnh thổ Mỹ. Trong thời kỳ cao điểm của WWII, gần 40% GDP Hoa Kỳ đóng góp cho chiến tranh. Những quyết định về ngành sản xuất được phục vụ cho mục đích quân sự và gần như tất cả những yếu tố đầu vào được phân bổ cho nỗ lực chiến tranh. Nhiều loại hàng hoá được cố định phân phối, giá và tiền lương được kiểm soát và nhiều loại hàng hoá tiêu dùng lâu bền không còn được sản xuất. Một phần lớn lực lượng lao động được điều động vào quân đội, trả lương giảm một nửa và gần một nửa trong số này trở về với tình trạng bị thương.[67]

Học thuyết kinh tế mới của nhà kinh tế học người Anh John Maynard Keynes đã mang lại cho các chính trị gia vai trò tiên phong định hướng nền kinh tế, khi mà chi tiêu chính phủ và thuế được kiểm soát bởi Tổng thống và Quốc hội. Hiện tượng tăng trưởng nhảy vọt về dân số đã diễn ra trong thời kỳ 1942-1957, có nguyên nhân từ sự trì hoãn hôn nhân và sinh con trong trước đó trong suốt thời kỳ suy thoái kinh tế, tiếp sau là sự thịnh vượng tăng lên, nhu cầu về nhà ở cho các hộ gia đình tại nông thôn [cũng như nhà ở tại thành thị] và sự lạc quan mới về tương lai. Sự tăng nhảy vọt đạt đỉnh vào năm 1957, sau đó tăng chậm lại.[68] Một thời kỳ tăng cao lạm phát, lãi suất và thất nghiệp sau năm 1973 đã làm giảm đi sự tự tin trong việc sử dụng các chính sách tài khoá để điều chỉnh tốc độ chung của nền kinh tế.[69]

Nền kinh tế Hoa Kỳ đã tăng trưởng với tốc độ bình quân 3,8% một năm từ 1946 đến 1973, trong khi mức thu nhập trung bình hộ gia đình tăng 74% [hoặc 2,1% một năm].[70][71]

Đợt suy thoái kinh tế tồi tệ nhất trong những thập kỷ gần đây xảy ra sau khủng hoảng tài chính 2007-08, khi GDP giảm 5% từ mùa xuân 2008 đến mùa xuân 2009. Những đợt suy giảm đáng kể khác xảy ra vào 1957-58, GDP giảm 3,7%; tiếp theo khủng hoảng dầu mỏ 1973, GDP giảm 3,1% từ 1973 đến 1975; và đợt suy thoái 1981-82 GDP giảm 2,9%.[72][73] Những giai đoạn sau có thể kể đến một số đợt suy thoái nhẹ như: suy thoái 1990-91, GDP giảm 1,3%; suy thoái 2001, GDP giảm 0,3%.[73] Xen kẽ với những đợt suy thoái là những giai đoạn tăng trưởng kinh tế. Có thể kể đến những thời kỳ kinh tế tăng trưởng ngoạn mục với tốc độ cao như: giai đoạn 1961-1969, GDP tăng 53% [5,1% một năm]; 1991-2000, GDP tăng 43% [3,8% một năm], và 1982-1990, GDP tăng 37% [4% một năm].[72]

Nhà hàng McDonald's ở Mount Pleasant, Iowa

Trong những năm 1970 và 1980, nhiều người Mỹ tin rằng nền kinh tế Nhật Bản sẽ vượt qua Mỹ, nhưng điều này đã không xảy ra.[74]

Từ những năm 1970, một vài nền kinh tế mới nổi đã bắt đầu thu hẹp khoảng cách với kinh tế Hoa Kỳ. Trong hầu hết các trường hợp, điều này xảy ra có nguyên nhân từ việc dịch chuyển các nhà máy sản xuất vốn trước kia đặt tại Mỹ tới các quốc gia này, nơi việc sản xuất được thực hiện với chi phí thấp hơn, đủ để bảo đảm các chi phí vận chuyển và đem lại lợi nhuận cao hơn. Trong các trường hợp khác, một vài quốc gia đã dần học được cách sản xuất ra những hàng hoá và dịch vụ giống như những loại trước kia chỉ được sản xuất tại Mỹ và một số quốc gia khác. Tăng trưởng về thu nhập thực tế của Hoa Kỳ đã chậm lại.

Đầu thế kỷ 21Sửa đổi

Xem thêm: Đại suy thoái và en:COVID-19 recession

Nền kinh tế Hoa Kỳ đã trải qua cuộc khủng hoảng năm 2001 với sự phục hồi về việc làm chậm chưa từng có khi số lượng việc làm không thể hồi phục về như mức vào tháng 2 năm 2001 cho mãi đến tận tháng 1 năm 2005.[75] Cuộc khủng hoảng này đi kèm với bong bóng bất động sản và bong bóng nợ được cho rằng là đang ngày một nhiều lên bởi tỷ lệ nợ của các hộ gia đình trên GDP đã tăng lên mức kỷ lục từ 70% vào quý 1 năm 2001 lên 99% vào quý 1 năm 2008. Những người muốn sở hữu nhà ở phải đi vay để trả tiền cho những căn nhà đang có nguy cơ rơi vào tình trạng bong bóng làm tăng mức nợ của họ lên trong khi GDP đang tăng trưởng một cách thiếu ổn định. Khi giá nhà ở giảm vào năm 2006, giá trị của các trái phiếu có tài sản thế chấp giảm mạnh khiến tiền gửi tại các hệ thống ngân hàng phi lưu ký đồng loạt bị khách hàng rút ra một cách không có kiểm soát, hiện tượng này hay còn gọi là Đột biến rút tiền gửi, các hệ thống ngân hàng phi lưu ký này thậm chí còn có thời kỳ từng phát triển vượt trội hơn so với các loại hình ngân hàng lưu ký được kiểm soát. Rất nhiều công ty cho vay thế chấp và các ngân hàng phi lưu ký khác [ví dụ: Các ngân hàng đầu tư] thậm chí đã phải đối mặt với cuộc khủng hoảng còn tồi tệ hơn vào giai đoạn 2007-2008 khi mà cuộc khủng hoảng ngân hàng lên đến đỉnh điểm vào năm 2008 đã buộc tập đoàn Lehman Brothers phải tuyên bố phá sản cùng với việc nhiều tổ chức tài chính khác phải kêu gọi sự cứu giúp.[76]

Tổng thống Donald Trump và những nhà lãnh đạo hàng đầu ngành công nghiệp ô tô của Mỹ, 2017

Dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Bush[2001-2009] và Obama[2009-2017], các chương trình cứu trợ tài chính và gói kích thích tăng trưởng kinh tế mang tên Keynesian đã được áp dụng thông qua các khoản chi lớn từ ngân sách chính phủ đồng thời Cục Dự trữ Liên Bang duy trì chính sách các khoản vay với lãi suất gần như là không đồng. Các biện pháp kể trên đã khôi phục được nền kinh tế khi mà các hộ gia đình đã gần như trả được hết nợ trong giai đoạn 2009-2012, điều chưa từng xảy ra kể từ năm 1947[77] đã tạo ra một rào cản đáng kể cho tiến trình hồi phục.[76] GDP thực tế tính đến trước năm 2011,[78] giá trị tài sản ròng của các hộ gia đình trước quý 2 năm 2012,[79] bảng lương phi nông nghiệp trước tháng 5 năm 2014[75] và tỷ lệ thất nghiệp trước tháng 9 năm 2015[80] đều đạt được những con số tích cực nhất trong giai đoạn trước khủng hoảng [cuối năm 2007]. Những chỉ tiêu trên tiếp tục đạt được những con số kỷ lục của giai đoạn sau suy thoái ở những ngày sau đó, đánh dầu thời kỳ phục hồi dài thứ 2 trong lịch sử Hoa Kỳ cho đến tháng 4 năm 2018.[81]

Nợ nắm giữ bởi công chúng - 1 chỉ tiêu đo lường nợ quốc gia, đã tăng lên trong suốt thế kỷ 21 từ con số 31% GDP vào năm 2000 lên thành 52% vào năm 2009 và năm 2017 đã đạt mức 77%, khiến Hoa Kỳ trở thành quốc gia có tỷ lệ nợ quốc gia trên GDP cao thứ 43 trong tổng số 207 quốc gia. Sự bất bình đẳng trong thu nhập đạt đỉnh vào năm 2007 và giảm xuống trong thời kỳ Đại khủng hoảng , mặc dù vậy Hoa Kỳ vẫn là quốc gia có sự chênh lệch về thu nhập cao thứ 41 trên tổng số 156 quốc gia vào năm 2017 [74% các quốc gia có phân phối thu nhập bình đẳng hơn Hoa Kỳ].[82]

Dữ liệuSửa đổi

Bảng dưới đây trình bày các chỉ số kinh tế quan trọng của Hoa Kỳ giai đoạn 1980-2019.[83]

Năm GDP danh nghĩa
[tỷ Đô-la Mỹ] GDP bình quân
[Đô-la Mỹ] Tăng trưởng GDP
[thực tế] Tỷ lệ lạm phát
[%] Tỷ lệ thất nghiệp
[%] Ngân sách cân đối
[theo% GDP][84] Nợ chính phủ do công chúng nắm giữ
[theo% GDP][85] Tài khoản vãng lai
balance
[theo% GDP]
2020 [dự báo] 20,934.0 57,589 −3.5% 0.62% 11.1% −n/a% 79.9% −n/a%
2019 21,439.0 64,674 2.2% 1.8% 3.5% −4.6% 78.9% −2.5%
2018 20,611.2 62,869 3.0% 2.4% 3.9% −3.8% 77.8% −2.4%
2017 19,519.4 60,000 2.3% 2.1% 4.4% −3.4% 76.1% −2.3%
2016 18,715.0 57,878 1.7% 1.3% 4.9% −3.1% 76.4% −2.3%
2015 18,224.8 56,770 3.1% 0.1% 5.3% −2.4% 72.5% −2.2%
2014 17,521.3 54,993 2.5% 1.6% 6.2% −2.8% 73.7% −2.1%
2013 16,784.9 52,737 1.8% 1.5% 7.4% −4.0% 72.2% −2.1%
2012 16,155.3 51,404 2.2% 2.1% 8.1% −5.7% 70.3% −2.6%
2011 15,517.9 49,736 1.6% 3.1% 8.9% −7.3% 65.8% −2.9%
2010 14,964.4 48,311 2.6% 1.6% 9.6% −8.6% 60.8% −2.9%
2009 14,418.7 46,909 −2.5% −0.3% 9.3% −9.8% 52.3% −2.6%
2008 14,718.6 48,302 −0.2% 3.8% 5.8% −4.6% 39.4% −4.6%
2007 14,477.6 47,955 1.9% 2.9% 4.6% −0.8% 35.2% −4.9%
2006 13,855.9 46,352 2.9% 3.2% 4.6% −0.1% 35.4% −5.8%
2005 13,093.7 44,218 3.3% 3.4% 5.1% −1.2% 35.8% −5.7%
2004 12,274.9 41,838 3.8% 2.7% 5.5% −2.3% 35.7% −5.1%
2003 11,510.7 39,592 2.8% 2.3% 6.0% −2.8% 34.7% −4.1%
2002 10,977.5 38,114 1.8% 1.6% 5.8% −1.7% 32.7% −4.1%
2001 10,621.9 37,241 1.0% 2.8% 4.7% 1.2% 31.5% −3.7%
2000 10,284.8 36,433 4.1% 3.4% 4.0% 2.3% 33.7% −3.9%
1999 9,660.6 34,602 4.8% 2.2% 4.2% 1.3% 38.3% −3.0%
1998 9,089.2 32,929 4.5% 1.5% 4.5% 0.8% 41.7% −2.4%
1997 8,608.5 31,554 4.4% 2.3% 4.9% −0.2% 44.6% −1.6%
1996 8,100.1 30,047 3.7% 2.9% 5.4% −1.3% 47.0% −1.5%
1995 7,664.1 28,763 2.7% 2.8% 5.6% −2.1% 47.7% −1.5%
1994 7,308.8 27,756 4.0% 2.6% 6.1% −2.8% 47.8% −1.7%
1993 6,878.7 26,442 2.7% 3.0% 6.9% −3.7% 47.9% −1.2%
1992 6,539.3 25,467 3.6% 3.0% 7.5% −4.5% 46.8% −0.8%
1991 6,174.1 24,366 −0.1% 4.2% 6.9% −4.4% 44.1% 0.0%
1990 5,979.6 23,914 1.9% 5.4% 5.6% −3.7% 40.9% −1.3%
1989 5,657.7 22,879 3.7% 4.8% 5.3% −2.7% 39.4% −1.8%
1988 5,252.6 21,442 4.2% 4.1% 5.5% −3.0% 39.9% −2.3%
1987 4,870.2 20,063 3.5% 3.6% 6.2% −3.1% 39.6% −3.3%
1986 4,590.1 19,078 3.5% 1.9% 7.0% −4.8% 38.5% −3.2%
1985 4,346.8 18,232 4.2% 3.5% 7.2% −4.9% 35.3% −2.7%
1984 4,040.7 17,099 7.2% 4.4% 7.5% −4.6% 33.1% −2.3%
1983 3,638.1 15,531 4.6% 3.2% 9.6% −5.7% 32.2% −1.1%
1982 3,345.0 14,410 −1.8% 6.2% 9.7% −3.8% 27.9% −0.2%
1981 3,211.0 13,966 2.6% 10.4% 7.6% −2.5% 25.2% 0.2%
1980 2,862.5 12,575 −0.2% 13.5% 7.2% −2.6% 25.5% 0.1%

Mục lục

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Toplist mới

Bài mới nhất

Chủ Đề