Xuyên phá thạch là tên của vị thuốc nào năm 2024
Mỏ quạ là một loại cây mọc hoang làm hàng rào ở nhiều nơi trong nước ta. Loài cây này được dùng từ lâu đời như một vị thuốc theo kinh nghiệm dân gian. Quả dùng ăn được hoặc để nấu rượu. Rễ được dùng trị đòn ngã, phong thấp đau nhức lưng gối, lao phổi, ho ra máu hoặc khạc ra đờm lẫn máu, bế kinh, vàng da và ung độc. Lá có thể dùng cho tằm ăn và dùng chữa các vết thương phần mềm. Show 1. Mô tả dược liệu Mỏ quạMỏ quạ còn có tên gọi là Hoàng lồ, Vàng lồ, Cây bướm, Sọng vàng, Gai vàng lồ, Gai mang, Móc câu. Tên khoa học là Cudrania tricuspidata (Carr.) Bur., thuộc họ Dâu tằm (Moraceae). 1.1. Hình tháiCây nhỏ, thân mềm yếu nhiều cành, tạo thành bụi, có khi mọc thành cây nhỡ, chịu khô hạn rất khoẻ, có nhựa mủ trắng. Rễ hình trụ có nhiều nhánh, mọc ngang, rất dài, nếu gặp đá có thể xuyên qua được (do đó có tên Xuyên phá thạch, nghĩa là phá chui qua đá). Vỏ thân màu tro nâu (trên có nhiều bì khổng màu trắng). Thân và cành có rất nhiều gai, gai già hơi cong xuống trông như mỏ con quạ (do đó có tên cây Mỏ quạ). Cành và lá cây Mỏ quạLá mọc cách, hình trứng thuôn, hai đầu nhọn, mặt lá nhẵn, bóng, mép nguyên. Nhấm có vị tê tê ở lưỡi. Cụm hoa hình đầu, đơn tính, khác gốc, mọc ở nách lá, màu vàng nhạt. Quả nạc hình cầu mềm hơi cụt ở đầu, khi chín màu vàng. Hạt nhỏ. 1.2. Phân bốLoài này phân bố ở các nước nhiệt đới châu Á, Ðông Phi, châu Úc. Ở nước ta, cây mọc hoang ở đồi núi, ven đường và được trồng làm hàng rào từ Lào Cai, Vĩnh Phú đến Quảng Trị, Lâm Ðồng và Ðồng Nai. 2. Thu hái và bào chếThu hái quanh năm. Thường dùng lá tươi, có khi hái cả cành về nhà mới bứt lá riêng. Còn dùng rễ, đào về rửa sạch đất, cắt thành từng mẩu 30 – 50cm, phơi hay sấy khô. Vỏ ngoài màu vàng đất, vết cắt màu vàng nhạt, vị hơi tê tê. Ngoài ra có thể dùng rễ và lá để nấu thành cao. Quả của cây Mỏ quạ3. Thành phần hóa họcRễ và lá chứa flavonoid, tanin pyrocatechic và acid hữu cơ. Hợp chất quan trọng nhất là Morin. Năm 2018 phân lập được hai prenylisoflavone mới 3 ‘, 4’, 5-trihydroxy-8-prenyl-dihydrofuran [2, 3 ″: 7.6] isoflavone và 4 ‘, 5-dihydroxy-8-prenyl-dihydrofuran [2, 3: 12] từ lá Mỏ quạ. 4. Tác dụng dược lýChiết xuất từ tâm gỗ của cây Mỏ quạ là ứng cử viên đầy triển vọng như một phương pháp điều trị tự nhiên cho chứng viêm và tăng axit uric máu gây ra bệnh gút. Chiết xuất từ rễ cây Mỏ quạ cũng có tác dụng ức chế virus Herpes Simplex 1 và 2. 5. Công dụng và liều dùng5.1. Công dụngRễ được dùng trị đòn ngã, phong thấp đau nhức lưng gối, lao phổi, ho ra máu hoặc khạc ra đờm lẫn máu, bế kinh, vàng da và ung độc. Lá có thể dùng chữa các vết thương phần mềm. Ở Thái Lan, người ta còn dùng gỗ Mỏ quạ trị sốt mạn tính, làm thuốc bổ và trị tiêu chảy. Theo kinh nghiệm dân gian, phụ nữ có thai không dùng được. 5.2. Liều dùng12 – 40g dạng thuốc sắc. Cũng thường phối hợp với các vị thuốc khác. 6. Bài thuốc kinh nghiệm6.1. Chữa vết thương phần mềmLá Mỏ quạ tươi lấy về rửa sạch, bỏ cọng, giã nhỏ đắp vào vết thương.
Sau 2 – 3 lần thay băng bằng 3 vị trên thì rắc lên vết thương thuốc bột chế bằng phấn cây Cau (sao khô) 20g, phấn cây Chè (sao khô) 16g, Ô long vĩ (bồ hóng) 8g, Phèn phi 4g. Các vị tán mịn, trộn đều rắc lên vết thương rồi để yên cho vết thương đóng vẩy và tróc thì thôi. 6.2. Chữa lao phổi, ho ra máu hoặc khạc ra đờm lẫn máuMỏ quạ 40g, dây Rung rúc 30g. Bách bộ và Hoàng liên ô rô, mỗi vị 20g sắc uống. 6.3. Chữa co giậtLên cơn hằng ngày hay 3 – 4 ngày phát 1 lần: Dùng Mỏ quạ, hạt Cau, Thảo quả, mỗi vị 20g sắc uống. Tóm lại, Mỏ quạ là loại cây hoang dại được dùng làm thuốc với nhiều công dụng như chữa lành vết thương phần mềm, ung độc, chữa co giật, bế kinh ở phụ nữ, ho khạc ra đờm máu, lao phổi. Nhũng thông tin trong bài viết này chỉ mang tính chất tham khảo. Nếu muốn sử dụng thuốc, bạn cần hỏi ý kiến bác sĩ điều trị. |