Các Công ước quốc tế về đa dạng sinh học

Tính đến tháng 5 năm 2009 đã có 191 quốc gia là thành viên của Công ước này. Việt Nam đã chính thức gia nhập Công ước vào ngày 16/11/1994. Chính phủ giao Bộ Tài nguyên và Môi trường làm cơ quan đầu mối, giúp Chính phủ tổ chức thực hiện Công ước này. Mục tiêu chính của Công ước nhằm bảo tồn đa dạng sinh học; sử dụng bền vững các thành phần của đa dạng sinh học; và chia sẻ công bằng và hợp lý những lợi ích thu được từ việc sử dụng tài nguyên sinh học. Để đạt được mục tiêu trên, nội dung cơ bản của Công ước tập trung vào bảo tồn đa dạng sinh học và sử dụng bền vững các thành phần của đa dạng sinh học; tiếp cận và chuyển giao công nghệ; quản lý công nghệ sinh học và chia sẻ lợi ích. Ngoài ra, Công ước cũng quy định về các biện pháp khuyến khích bảo vệ đa dạng sinh học, hợp tác quốc tế; trao đổi thông tin; các nguồn tài chính và cơ chế tài chính, v.v… trong việc bảo tồn và phát triển bền vững đa dạng sinh học trên phạm vi toàn cầu. Thực hiện các nội dung trên, các nước cam kết tiến hành một số họat động chính như: xây dựng hệ thống khu bảo tồn, trong đó tiến hành các biện pháp cần thiết để bảo tồn và phát triển bền vững các hệ sinh thái; bảo tồn và phát triển bền vững các loài sinh vật và tài nguyên di truyền; kiểm soát và quản lý rủi ro của sinh vật biến đổi gen đối với môi trường, đa dạng sinh học và sức khoẻ con người; kiểm soát các loài sinh vật ngoại lai xâm hại môi trường.   Để hoàn thiện hệ thống pháp luật về đa dạng sinh học, luật hóa có hệ thống và thống nhất các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, thực hiện các cam kết quốc tế về đa dạng sinh học phục vụ mục tiêu phát triển bền vững đất nước, Luật Đa dạng sinh học đã được Quốc hội Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 13 tháng 11 năm 2008 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2009 nhằm đáp ứng các yêu cầu trên. Luật có 8 chương, 78 điều. Luật quy định về nguyên tắc và chính sách bảo tồn và phát triển bền vững đa dạng sinh học; quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học; bảo tồn và phát triển bền vững hệ sinh thái tự nhiên, các loài sinh vật và tài nguyên di truyền; hợp tác quốc tế về đa dạng sinh học;  cơ chế, nguồn lực và phát triển bền vững đa dạng sinh học. Các nội dung cơ bản của Công ước Đa dạng sinh học đã được nội luật hóa trong Luật Đa dạng sinh học, cụ thể:1. Quy định rõ và đầy đủ về nội dung và trình tự, thủ tục lập, thẩm định và phê duyệt quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học cấp cả nước và cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; mục tiêu và tiêu chí chủ yếu để phân cấp và thành lập khu bảo tồn; trình tự, thủ tục lập, thẩm định dự án và quyết định thành lập khu bảo tồn; chế độ quản lý và bảo vệ, các chính sách đầu tư đối với các phân khu chức năng và vùng đệm; trách nhiệm và quyền lợi của các bên liên quan, đặc biệt là đối với cộng đồng dân cư sinh sống trong và xung quanh các khu bảo tồn. Khu bảo tồn được phân thành 4 loại, bao gồm vườn quốc gia; khu dự trữ thiên nhiên; khu bảo tồn loài - sinh cảnh; và khu bảo vệ cảnh quan. Căn cứ vào mức độ đa dạng sinh học, giá trị đa dạng sinh học, quy mô diện tích, khu bảo tồn được phân thành khu bảo tồn cấp quốc gia và cấp tỉnh để có chính sách quản lý, đầu tư phù hợp. Ngoài ra, Luật quy định về điều tra, đánh giá và xác lập chế độ phát triển bền vững đối với các hệ sinh thái tự nhiên trên biển, các vùng đất ngập nước tự nhiên, vùng núi đá vôi, vùng đất chưa sử dụng nhằm phục hồi và bảo vệ các hệ sinh thái tự nhiên, môi trường sống tự nhiên.2. Quy định rõ và đầy đủ về bảo tồn và phát triển bền vững các loài sinh vật, bao gồm bảo vệ loài thuộc danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ và phát triển bền vững các loài sinh vật. Căn cứ vào tiêu chí, các loài hoang dã có giá trị đang bị đe dọa tuyệt chủng hoặc nguy cấp ở mức cao được đưa vào Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ và có chế độ quản lý, bảo vệ. Khu vực có loài thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ sinh sống tự nhiên thường xuyên hoặc theo mùa được điều tra, đánh giá để lập dự án thành lập khu bảo tồn. Quản lý và cơ chế, chính sách, thành lập cơ sở bảo tồn đa dạng sinh học nhằm mục đích nuôi, trồng loài thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ; cứu hộ loài hoang dã; và lưu giữ giống cây trồng, vật nuôi, vi sinh vật và nấm đặc hữu, nguy cấp, quý, hiếm có giá trị. Ngoài ra, Luật còn quy định cụ thể về việc khai thác các loài hoang dã; nuôi, trồng; trao đổi, xuất khẩu, nhập khẩu, mua, bán, tặng cho, lưu giữ, vận chuyển; cứu hộ loài thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ; bảo vệ cây trồng và vật nuôi đặc hữu hoặc có giá trị đang bị đe dọa tuyệt chủng; bảo vệ loài vi sinh vật và nấm đặc hữu hoặc có giá trị.3. Quy định về trách nhiệm vụ quản lý nguồn gen và quản lý các họat động liên quan đến nguồn gen, việc lưu giữ và bảo quản lâu dài mẫu vật di truyền của các nguồn gen có giá trị, phát triển các ngân hàng gen, quản lý thống nhất thông tin và cơ sở dữ liệu về nguồn gen. Quy định rõ về trình tự, thủ tục hợp đồng, cấp phép tiếp cận nguồn gen. Đặc biệt là quy định rõ về quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân được cấp phép tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích, đăng ký sở hữu đối với nguồn gen và tri thức truyền thống về nguồn gen. 4. Quy định về trách nhiệm quản lý rủi ro; lập, thẩm định báo cáo đánh giá rủi ro, cấp giấy chứng nhận an toàn; công khai thông tin về mức độ rủi ro và các biện pháp quản lý rủi ro do sinh vật biến đổi gen, mẫu vật di truyền của sinh vật biến đổi gen gây ra đối với đa dạng sinh học; và quản lý cơ sở dữ liệu về sinh vật biến đổi gen, mẫu vật di truyền của sinh vật biến đổi gen liên quan đến đa dạng sinh học.5. Quy định rõ về trách nhiệm tổ chức điều tra, lập, thẩm định và ban hành Danh mục loài ngoại lai xâm hại. Kiểm soát việc nhập khẩu, lây lan, phát triển của loài ngoại lai xâm hại và việc nuôi trồng loài ngoại lai có nguy cơ xâm hại và công khai thông tin về loài ngoại lai xâm hại.Việc xác định vị trí địa lý, giới hạn và biện pháp tổ chức quản lý, bảo vệ hành lang đa dạng sinh học; và dịch vụ môi trường liên quan đến đa dạng sinh học là biện pháp, công cụ hiệu quả mới nhằm bảo tồn và phát triển bền vững đa dạng sinh học, được quy định trong Luật là những đóng góp quan trọng của Luật Đa dạng sinh học, vì đây là hai vấn đề hoàn toàn mới không những đối với Việt Nam mà cả các nước trong khu vực và thế giới.Luật Đa dạng sinh học đã quy định thống nhất các vấn đề mâu thuẫn, chồng chéo hoặc bất cập trong công tác quản lý, bảo tồn và phát triển bền vững đa dạng sinh học. Quy định rõ trách nhiệm của các bên liên quan đến đa dạng sinh học. Ngoài ra, Luật Đa dạng sinh học còn nội luật hóa các nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý quy định trong các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Đây là những nét mới và là những đóng góp lớn của Luật Đa dạng sinh học.Vì vậy, có thể nói các nội dung chủ yếu của Công ước Đa dạng sinh học đã được nội luật hoá đầy đủ, toàn diện trong Luật Đa dạng sinh học của Việt Nam.Tuy nhiên, để các quy định của Luật Đa dạng sinh học sớm đi vào cuộc sống, cần tiến hành khẩn trương các họat động hỗ trợ:1. Xây dựng, ban hành, trình ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Đa dạng sinh học; xây dựng các văn bản hướng dẫn kỹ thuật về bảo tồn và phát triển bền vững đa dạng sinh học;2. Giới thiệu, tập huấn cho các cán bộ liên quan từ Trung ương đến địa phương về nội dung của Luật, các văn bản hướng dẫn thi hành và cách thức tổ chức thực hiện;3. Tuyên truyền, phổ biến về nội dung của Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành cho cộng đồng;4. Tăng cường năng lực quản lý của các cơ quan quản lý Nhà nước về đa dạng sinh học từ Trung ương đến địa phương;5. Nâng cao nhận thức và hình thành ý thức trách nhiệm về bảo tồn và phát triển bền vững đa dạng sinh học cho cộng đồng./.

Huỳnh Thị Mai
Ban Quản lý tài nguyên và đa dạng sinh học
Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Ngày Quốc tế về đa dạng sinh học [22/5] năm nay đánh dấu 30 năm các nước thành viên Liên hợp quốc [LHQ] ký Công ước đa dạng sinh học [CBD].

  • LHQ khởi động đàm phán Công ước về đa dạng sinh học

  • Chiến lược quốc gia về đa dạng sinh học đến năm 2050

  • Bảo tồn thiên nhiên và giữ gìn sự đa dạng sinh học

  • Lãnh đạo hơn 60 nước và vùng lãnh thổ cam kết bảo vệ đa dạng sinh học

Tổng Thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres phát biểu trực tuyến tại Hội nghị lần thứ 15 các bên tham gia Công ước đa dạng sinh học [COP15] tổ chức tại thành phố Côn Minh [Trung Quốc], ngày 12/10/2021. Ảnh: THX/TTXVN

Đầu năm nay, LHQ cũng đã khởi động các cuộc thảo luận để soạn thảo “Khung chiến lược toàn cầu về đa dạng sinh học sau năm 2020” nhằm xây dựng hướng đi mới, hoạt động mới để bảo tồn đa dạng sinh học tới năm 2030. Nói đúng hơn, “Khung chiến lược toàn cầu về đa dạng sinh học sau năm 2020” là cơ sở để đảo ngược tình trạng suy giảm đa dạng sinh học đã diễn ra hàng chục năm qua, mặc dù giai đoạn 2011-2020 được Đại hội đồng LHQ tuyên bố là “Thập niên LHQ về đa dạng sinh học”.

Tại Hội nghị lần thứ 15 các bên tham gia Công ước LHQ về đa dạng sinh học [COP15] tổ chức tại thành phố Côn Minh [tỉnh Vân Nam, Trung Quốc] tháng 10 năm ngoái, Thư ký điều hành của Công ước LHQ về đa dạng sinh học Elizabeth Maruma nhận định thế giới đã không đạt được những đột phá cần thiết trong giai đoạn 2011-2020 và đã không bảo vệ được hệ sinh thái vốn đóng vai trò sống còn đối với con người.

Năm 2010, tại hội nghị COP 10 ở Aichi, Nhật Bản, các quốc gia thành viên Công ước đa dạng sinh học đã cam kết thực hiện 20 mục tiêu, từ loại bỏ dần trợ cấp nhiên liệu hóa thạch và hạn chế tình trạng mất môi trường sống, đến bảo vệ nguồn cá, để bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học vào năm 2020. Tuy nhiên, trong báo cáo công bố tháng 9/2020, LHQ thừa nhận sau một thập niên, tất cả các mục tiêu đa dạng sinh học Aichi năm 2010 đều bị bỏ lỡ. Mặc dù có những tiến triển nhất định, như tỷ lệ phá rừng đã giảm khoảng 1/3 so với thập niên trước, diện tích các các khu bảo tồn trên đất liền và dưới đại dương đều tăng, song môi trường sống tự nhiên cho các loài động thực vật vẫn tiếp tục biến mất, một số lượng lớn các loài vẫn bị đe dọa tuyệt chủng do hoạt động của con người, và các khoản trợ cấp hỗ trợ các hoạt động gây hại cho môi trường, như khai thác và sử dụng nhiên liệu hóa thạch, ước tính khoảng 500 tỷ USD hằng năm, vẫn tiếp diễn. Trong khi đó, biến đổi khí hậu càng làm trầm trọng thêm tình trạng mất đa dạng sinh học

Rạn san hô Great Barrier ở Australia bị tẩy trắng nghiêm trọng. Ảnh: AFP/TTXVN

LHQ cảnh báo tốc độ suy thoái đa dạng sinh học đang diễn ra là chưa từng có trong lịch sử, với một triệu loài động, thực vật trong tổng số 8 triệu loài trên Trái Đất đứng bên bờ vực tuyệt chủng. LHQ cũng chỉ rõ chính con người đã làm suy giảm đa dạng sinh học và cạn kiệt các nguồn tài nguyên nhanh hơn mức thiên nhiên có thể tái tạo và có thể nói, chính con người đã gây ra thảm họa sinh thái trên Trái Đất. Tổng Thư ký LHQ Antonio Guterres khẳng định rằng: "Đa dạng sinh học đang sụp đổ và chúng ta là những người thua cuộc”. Giờ đây, con người phải chạy đua để chấm dứt tình trạng khủng hoảng sinh học bằng những hành động mạnh mẽ, quyết liệt và khẩn cấp.

Thực tế này đã thúc đẩy các nước, tại vòng đầu tiên của hội nghị COP15 với chủ đề “Nền văn minh sinh thái: Xây dựng tương lai chung cho tất cả sự sống trên Trái Đất” được tổ chức tại Côn Minh tháng 10 năm ngoái, thông qua Tuyên bố Côn Minh, tạo động lực cho một hiệp ước đa dạng sinh học mới toàn cầu, tức một kế hoạch chi tiết về bảo tồn đa dạng sinh học cho thập niên tới, mang tên “Khung chiến lược toàn cầu về đa dạng sinh học sau năm 2020”. Các bên cũng nhất trí soạn thảo và đưa ra xem xét văn kiện này tại vòng thứ hai của hội nghị COP15, dự kiến được tổ chức tại Côn Minh cuối năm nay.

Trong bối cảnh đó, LHQ đã chọn thông điệp “Xây dựng tương lai chung cho mọi sự sống” của vòng 1 COP15 tại Côn Minh tháng 10 năm ngoái làm chủ đề cho Ngày Quốc tế về đa dạng sinh học năm nay, nhằm tạo động lực và hỗ trợ thúc đẩy các bên đạt được đồng thuận về “Khung đa dạng sinh học toàn cầu sau năm 2020” nhằm ngăn chặn cuộc khủng hoảng sinh thái hiện đe dọa cuộc sống loài người. Như tuyên bố của Tổng Thư ký LHQ: "Chúng ta cùng nỗ lực với nhau duy trì mọi sự sống trên Trái Đất để con người và thiên nhiên đều được hưởng lợi”, chủ đề của Ngày Quốc tế đa dạng sinh học 2022 cũng nhằm thúc đẩy hành động toàn cầu xây dựng một tương lai chung, áp dụng các giải pháp dựa vào thiên nhiên để giải quyết các vấn đề biến đổi khí hậu, sức khỏe, an ninh lương thực, hướng tới mục tiêu toàn cầu đến năm 2050 là “Sống hài hòa với thiên nhiên”.

Cách đây 2 tháng, đại biểu khoảng 200 quốc gia đã quy tụ tại Geneva [Thụy Sĩ] để đàm phán “Khung chiến lược toàn cầu về đa dạng sinh học sau năm 2020”, trong đó trọng tâm thảo luận chính là kêu gọi các quốc gia thực hiện cơ chế bảo tồn ít nhất 30% lãnh thổ của họ vào năm 2030. “Khung chiến lược toàn cầu về đa dạng sinh học sau năm 2020 đặt ra một tầm nhìn mới đến năm 2050, theo hướng thế giới sống hòa hợp với thiên nhiên, đa dạng sinh học được coi trọng, bảo tồn, phục hồi và sử dụng một cách khôn ngoan, duy trì các dịch vụ hệ sinh thái, duy trì một hành tinh lành mạnh và mang lại lợi ích thiết yếu cho thiết yếu cho mọi người. Theo các chuyên gia, những mục tiêu đầy tham vọng này sẽ chỉ đạt được nếu các bên đồng thuận về cách tiếp cận mới, như hạn chế tài trợ gây tổn hại đa dạng sinh học, loại bỏ các hoạt động sản xuất và tiêu dùng không bền vững, hỗ trợ các nước đang phát triển trong bảo tồn đa dạng sinh học...

Với giá trịđa dạng sinh họccao, khu dự trữ sinh quyển Núi Chúa [Ninh Thuận] đang là điểm thu hút khách du lịch, các nhà khoa học tới tham quan, nghiên cứu. Ảnh: Nguyễn Thành/TTXVN

Việt Nam là một trong 16 quốc gia sở hữu sự đa dạng sinh học cao nhất thế giới và cũng đang phải đối mặt với tình trạng suy thoái đa dạng sinh học ngày càng lớn. Trong bối cảnh đó, với vai trò là nước thành viên Công ước đa dạng sinh học từ năm 1994, Chính phủ Việt Nam cam kết chung tay cùng với chính phủ các quốc gia trong khu vực và trên thế giới hợp tác nhằm đẩy lùi tình trạng mất đa dạng sinh học vào năm 2030 để phát triển bền vững. Tháng 1 vừa qua, Chính phủ ban hành Quyết định số 149/QĐ-CP Phê duyệt Chiến lược quốc gia về đa dạng sinh học đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Chiến lược đề ra mục tiêu tổng quát đến năm 2030 gia tăng diện tích các hệ sinh thái tự nhiên được bảo vệ, phục hồi và bảo đảm tính toàn vẹn, kết nối; đa dạng sinh học được bảo tồn, sử dụng bền vững nhằm góp phần phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng nền kinh tế xanh, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu. Nhiều hoạt động bảo tồn loài tại chỗ được chính phủ phê duyệt như Đề án tổng thể bảo tồn voi ở Việt Nam [2013-2020]; Chương trình quốc gia bảo vệ hổ [2014-2022]; Kế hoạch hành động khẩn cấp bảo tồn các loài linh trưởng của Việt Nam đến 2025, tầm nhìn đến 2030; Chương trình bảo tồn các loài rùa nguy cấp của Việt Nam đến 2025, tầm nhìn đến 2030...

Bà Elizabeth Maruma Mrema, Thư ký điều hành của Công ước LHQ về đa dạng sinh học cho rằng đại dịch COVID-19 đã chứng minh đa dạng sinh học không chỉ quan trọng đối với con người, mà còn đối với việc bảo vệ Trái Đất. Bà nhấn mạnh thế giới đang mong chờ những hành động khẩn cấp để bảo vệ thiên nhiên, cũng là để đảm bảo con đường chung sống hòa hợp giữa con người và thiên nhiên. Trong khi đó, theo Tổng thư ký LHQ Guterres, thế giới cần một cơ cấu khung về đa dạng sinh học sau năm 2020 nhằm truyền cảm hứng hành động trên toàn cầu với sự tham gia của mọi chính phủ, doanh nghiệp và công dân, bởi bảo vệ thiên nhiên sẽ tạo ra một thế giới công bằng hơn, lành mạnh hơn và bền vững hơn.

Thanh Hương [TTXVN]

Rừng nguyên sinh đem lại nhiều lợi ích hơn trong bảo tồn đa dạng sinh học

Các khu rừng nguyên sinh với thảm thực vật phong phú nên được ưu tiên để bảo tồn hệ sinh do có thể lưu trữ nhiều carbon hơn, cung cấp nhiều nước hơn và chống xói mòn đất cũng như bảo tồn đa dạng sinh học tốt hơn là trồng cây đơn thuần.

Chia sẻ:

Từ khóa:

  • Đa dạng sinh học,
  • bảo tồn đa dạng sinh học,
  • Công ước LHQ về đa dạng sinh học,
  • bảo vệ thiên nhiên,
  • vấn đề biến đổi khí hậu,
  • an ninh lương thực,

Video liên quan

Chủ Đề