Chỉ có nhà nước xã hội chủ nghĩa mới có tính xã hội

3/18/2014 2:53:41 PM

Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 là sự kết tinh giữa “ý Đảng với lòng Dân”, mang bản chất giai cấp công nhân và có tính xã hội sâu sắc; trong đó, quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân được hiến định đầy đủ, toàn diện.

Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013 [Hiến pháp năm 2013] - văn kiện chính trị - pháp lý quan trọng nhất của nước ta, được Quốc hội khóa XIII, Kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 28-11-2013; có hiệu lực thi hành từ ngày 01-01-2014, đang được toàn Đảng, toàn dân và toàn quân triển khai thực hiện. Theo dõi quá trình xây dựng, hình thành và thông qua, dư luận quốc tế và trong nước đánh giá cao Hiến pháp năm 2013 về nhiều khía cạnh, nổi bật là: bảo đảm tính thực tiễn, khoa học, phù hợp với giá trị, chuẩn mực của Nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Và thực sự là bản Hiếp pháp hội tụ ý chí, nguyện vọng của toàn dân và Đảng cầm quyền, thể hiện sâu sắc tính giai cấp, tính xã hội và tính nhân dân. Song, một số “nhà khoa học”, “nhà chính trị”, “nhà hoạt động nhân quyền”,… ở trong và ngoài nước, với bản chất thù địch, chống phá đã “đăng đàn” cho rằng, bản Hiến pháp “nặng” về tính giai cấp, còn tính xã hội thì “mờ nhạt”, quyền con người, quyền công dân bị vi phạm. Đây là những quan điểm hoàn toàn sai trái, cố tình xuyên tạc, luận giải hồ đồ, thiếu trách nhiệm về Hiến pháp năm 2013.

Trước hết, bàn về tính giai cấp của hiến pháp. Từ thực tế lịch sử của xã hội tư sản Pháp những năm 1848-1851, C. Mác đã chỉ ra rằng, hiến pháp là kết quả sự vận động của đời sống chính trị, không những nội dung mà cả hình thức của nó đều chịu tác động trực tiếp của tiến trình đấu tranh giai cấp. Đó là ý chí của giai cấp thống trị được nâng lên thành luật để bảo vệ giai cấp mình. Vì vậy, nó mang bản chất của giai cấp thống trị xã hội. Đây là một trong các phát kiến vĩ đại của C. Mác và Ph. Ăng-ghen, đưa lại cho Học thuyết của hai ông tính khoa học, cách mạng sâu sắc. Lý luận cũng như lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới đã xác định, pháp luật nói chung, hiến pháp nói riêng là công cụ pháp lý mang tính cưỡng bức của giai cấp nắm quyền lực nhà nước, nhằm quản lý, điều chỉnh các quan hệ xã hội; bảo vệ và duy trì trật tự công cộng phù hợp với ý chí, lợi ích của giai cấp cầm quyền. Nhà nước ta ra đời sau Cách mạng Tháng Tám thành công - cuộc cách mạng do giai cấp công nhân lãnh đạo với nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, mà đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam. Do vậy, Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân là điều hiển nhiên, không có gì phải bàn cãi. Song, hoàn toàn khác với bản chất giai cấp của hiến pháp các nhà nước tư sản, Hiến pháp năm 2013 là sự thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, được thể hiện trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, phấn đấu vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, đem lại ấm no, hạnh phúc cho toàn thể dân tộc Việt Nam. Ở nước ta, pháp luật nói chung, Hiến pháp nói riêng là thể hiện ý chí, lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, được bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước XHCN, trên cơ sở giáo dục, thuyết phục mọi người tôn trọng và tự giác chấp hành. Đó là công cụ pháp lý của Nhà nước để quản lý, điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN, bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của quốc gia, dân tộc; mang lại lợi ích cho số đông chứ không chỉ vì lợi ích của số ít nhà tư bản như trong xã hội tư sản.

Bên cạnh tính giai cấp, cần khẳng định rằng, Hiến pháp năm 2013 có tính xã hội sâu sắc. Trước hết, về mặt lợi ích, do sự thống nhất lợi ích giữa giai cấp công nhân với các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội, nên Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện đầy đủ lợi ích của toàn thể nhân dân. Cùng với đó, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội: từ chế độ chính trị, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, đến kinh tế, xã hội, văn hóa, bảo vệ Tổ quốc,... đều được hiến định trong Hiến pháp [cụ thể, tại Chương III có 14 điều về vấn đề kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường]. Song, thể hiện xuyên suốt, nhất quán trong Hiến pháp năm 2013 là quan điểm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức: “Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”, “Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân...” [khoản 1, 2, Điều 2]. Đồng thời, Hiến pháp năm 2013 bổ sung và phát triển nguyên tắc: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” [khoản 3, Điều 2]. Đây là điểm mới quan trọng của Hiến pháp năm 2013 so với các bản Hiến pháp trước đây. Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến, nguyên tắc “kiểm soát quyền lực” được ghi nhận, là cơ sở để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đồng thời ngăn ngừa tình trạng lạm dụng quyền lực nhà nước và phòng chống tham nhũng, lãng phí.

Trên cơ sở kế thừa, tiếp thu những tinh hoa, tư tưởng tiến bộ của các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, tổng kết việc thực hiện Hiến pháp 1992, Hiến pháp năm 2013 thể hiện đầy đủ hơn “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”; xác định rõ trách nhiệm của Nhà nước và những bảo đảm của Nhà nước; đó là: công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân theo Hiến pháp và pháp luật. Đồng thời, khẳng định và làm rõ hơn các nguyên tắc về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân theo hướng: quyền công dân không tách rời nghĩa vụ công dân; mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác; công dân có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội; việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác [Điều 15].

Đặc biệt là, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung một số quyền mới. Đó là: quyền sống [Điều 19]; quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người, hiến xác [khoản 3, Điều 20]; quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư [khoản 1, Điều 21]; quyền được bảo đảm an sinh xã hội [Điều 34]; quyền kết hôn và ly hôn [khoản 1, Điều 36]; quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa [Điều 41]; quyền xác định dân tộc [Điều 42]; quyền được sống trong môi trường trong lành [Điều 43]. Những bổ sung này cho thấy, Nhà nước ta nhận thức ngày càng rõ hơn về quyền con người và hết sức chú trọng đến bảo đảm thực hiện quyền con người theo cam kết và phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Cho đến nay, lịch sử lập nước [Tuyên ngôn độc lập năm 1945], lập hiến nước ta mới hơn nửa thế kỷ, kể từ bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946 và qua 4 lần sửa đổi, bổ sung, thế nhưng nội dung của nó thể hiện rõ tính ưu việt, phát triển và hoàn thiện không ngừng, nhất là về quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân. Các quyền cơ bản đó mang đậm thuộc tính tự nhiên và bất khả xâm phạm, như: quyền sống, quyền bình đẳng, quyền tự do mưu cầu hạnh phúc,... thể hiện rõ bản chất dân chủ, nhân đạo và tiến bộ của chế độ XHCN, được các quốc gia trên thế giới thừa nhận, đánh giá cao. Điều đó, đồng thời cũng phản bác những luận điệu cho rằng tính xã hội của Hiến pháp năm 2013 “mờ nhạt”, vi phạm quyền con người là hoàn toàn không có cơ sở, phi thực tế, phiến diện.

Chính vì tính xã hội “đậm nét”, quyền con người được hiến định đầy đủ, toàn diện, nên nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đều chung nhận xét: Hiến pháp năm 2013 của chúng ta là bản Hiến pháp cô đọng, khúc triết, mạch lạc, dễ hiểu và mẫu mực trên mọi phương diện. Đây cũng là minh chứng rõ ràng không ai có thể phủ nhận. Những luận điệu kích động, xuyên tạc hòng đánh tráo sự thật, đi ngược lại bản chất của vấn đề sẽ chỉ là vô vọng./.

Đại tá, PGS, TS. PHẠM XUÂN MÁT và Đại tá, TS. NGUYỄN HỮU PHÚC

Học viện Chính trị

Xét về nguyên tắc, nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước kiểu mới có bản chất khác hẳn với các kiểu nhà nước trước đó. Bản chất này là do cơ sở kinh tế – chính trị và các đặc điểm của việc tổ chức và thực hiện quyền lực chính trị trong chế độ xã hội chủ nghĩa quy định.

..

Những nội dung cùng được quan tâm:

..

1. Bản chất của Nhà nước xã hội chủ nghĩa

Về bản chất, nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước của đại đa số nhân dân lao động trong xã hội mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Bản chất nhà nước xã hội chủ nghĩa được thể hiện qua các đặc trưng sau:

– Nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là bộ máy chính trị – hành chính, một bộ máy cưỡng chế, vừa là một tổ chức quản lý kinh tế – xã hội của nhân dân lao động, nó không còn là nhà nước theo đúng nghĩa mà chỉ còn là “nửa nhà nước ”.

>>> Xem thêm: Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước đơn nhất

– Dân chủ là thuộc tính của nhà nước xã hội chủ nghĩa: Nhà nước xã hội chủ nghĩa với bản chất là nhà nước của đông đảo nhân dân lao động trong xã hội, nhà nước mở rộng dân chủ trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, bao gồm các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, tự do dân chủ và tự do cá nhân… Thông qua các quy định của pháp luật, nhà nước xã hội chủ nghĩa ngày càng ghi nhận nhiều hơn các quyền con người thành quyền công dân, đồng thời xây dựng một cơ chế hữu hiệu để nhân dân thực hiện các quyền dân chủ.

– Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước: Nhân dân với tính cách là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, thực hiện quyền lực nhà nước dưới nhiều hình thức khác nhau như:

+ Nhân dân thông qua bầu cử dân chủ lập ra hệ thống cơ quan đại diện;

+ Nhân dân thông qua các tổ chức xã hội tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước ;

+ Nhân dân trực tiếp làm việc, phục vụ trong các cơ quan nhà nước;

+ Nhân dân thực hiên quyền lực thông qua các hoạt động đưa ra những yêu cầu, kiến nghị.

>>> Xem thêm: Trong lịch sử xã hội loài người nhà nước xuất hiện khi nào

Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngoài những đặc điểm thể hiện bản chất chung giống bất kỳ nhà nước xã hội chủ nghĩa thì còn có những đặc điểm riêng thể hiện nét riêng có của mình, cụ thể: Nhà nước ta là nhà nước của tất cả các dân tộc cùng sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam; Nhà nước ta được tổ chức và hoạt động trên cơ sở mối quan hệ bình đẳng và trách nhiệm lẫn nhau giữa nhà nước và công dân; Nhà nước mang tính nhân đạo sâu sắc, tất cả vì giá trị con người; Nhà nước ta mở rộng chính sách đối ngoại, hướng tới việc góp phần xây dựng một thế giới hoà bình, hữu nghị, hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau.

Những đặc điểm của Nhà nước ta được thể hiện nhất quán trong các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, trong tổ chức và hoạt động của nhà nước và được pháp luật quy định một cách chặt chẽ, thống nhất trong hệ thống pháp luật.

2. Bản chất của nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo Hiến pháp 2013

Điều 2 Hiếu pháp 2013 khẳng định: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.

Bản chất của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo Hiến pháp 2013 là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Cụ thể:

– Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước;

Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của tất cả các dân tộc trên lãnh thổ Việt Nam, là biểu hiện tập trung của khối đại đoàn kết toàn dân tộc;

Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức và hoạt động trên cơ sở nguyên tắc bình đẳng trong mối quan hệ giữa nhà nước và công dân;

Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước dân chủ và pháp quyền.

Bản chất của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay thể hiện cụ thể bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa, bao gồm các đặc trưng sau:

a] Tính giai cấp công nhân của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Tính giai cấp công nhân của Nhà nước ta được quy định bởi tính tiên phong và sự lãnh đạo của giai cấp này. Tính tiên phong của giai cấp công nhân
được thể hiện trong quá trình đấu tranh cách mạng, ở sự trung thành với lý tưởng cách mạng, ở khả năng nhận thức và tư tưởng đổi mới, phát triển.

Bản chất giai cấp của Nhà nước ta thể hiện bản chất của giai cấp công nhân, là giai cấp tiên tiến nhất, cách mạng nhất, phấn đấu vì lợi ích của nhân dân lao động và của toàn xã hội.

b] Tính dân tộc của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Nhà nước ta là nhà nước của tất cả các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam, là biểu hiện tập trung của khối đoàn kết dân tộc. Các dân tộc anh em đều bình đẳng trước pháp luật. Mỗi dân tộc đều có ngôn ngữ riêng, được Nhà nước tạo điều kiện, hỗ trợ về mọi mặt để phát triển văn hóa, kinh tế, xã hội. Các chính sách xã hội thể hiện tính dân chủ, nhân đạo của nhà nước xã hội chủ nghĩa đang được triển khai thực hiện ở vùng đồng bào các dân tộc. Ngày nay, tính dân tộc đó được phát huy nhờ kết hợp với tính giai cấp, tính nhân dân và tính thời đại.

c] Tính nhân dân của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Điều 2 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức”.

Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân: Nhân dân thiết lập nên Nhà nước bằng quyền bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân, sử dụng quyền lực nhà nước chủ yếu thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Ngoài ra, nhân dân còn thực hiện quyền lực nhà nước bằng các hình thức giám sát, khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện các quyết định, hành vi của các cơ quan nhà nước và các cá nhân có thẩm quyền làm thiệt hại đến quyền lợi của họ; tham gia góp ý vào các dự án chính sách, pháp luật.

Tính nhân dân không phủ nhận các biện pháp cương quyết, mạnh mẽ của Nhà nước nhằm chống lại các hành vi gây mất ổn định chính trị, vi phạm pháp luật, xâm hại đến lợi ích của Nhà nước, tập thể và công dân. Vì vậy, cùng với việc đổi mới, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý của các cơ quan nhà nước, Nhà nước cần tăng cường bộ máy cưỡng chế để đảm bảo an ninh, an toàn cho xã hội và cho từng cá nhân con người.

d] Tính thời đại của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Nhà nước ta là một Nhà nước xã hội chủ nghĩa, thực hiện thiết chế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, Nhà nước ta hiện nay đang thực hiện chính sách phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội. Nhà nước ta thừa nhận nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là phương tiện để đạt mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Bên cạnh việc chăm lo phát triển kinh tế, Nhà nước Việt Nam còn quan tâm đến việc giải quyết các vấn đề xã hội, chú trọng phát triển giáo dục, y tế, văn hóa…

Tính thời đại của Nhà nước ta còn được thể hiện sinh động trong chính sách đối ngoại với phương châm: “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới”. Nhà nước Việt Nam thực hiện chính sách hòa bình, hữu nghị, hợp tác trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào nội bộ của nhau.

Xem thêm:

Các tìm kiếm liên quan đến Bản chất của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, bản chất của nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa việt nam theo hiến pháp 2013, liên hệ nhà nước xã hội chủ nghĩa việt nam, chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa, đặc trưng của nhà nước xã hội chủ nghĩa, sự ra đời và bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa, trình bày bản chất chức năng của nhà nước chxhcn việt nam, trình bày bản chất của nhà nước, chức năng của nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa việt nam, nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa việt nam mang bản chất của giai cấp nào

Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa?

Bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước của đại đa số nhân dân lao động trong xã hội mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức

Bản chất của Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo Hiến pháp 2013?

Bản chất của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo Hiến pháp 2013 là nhà nước của dân, do dân và vì dân.

Bản chất, Nhà nước, Nhà nước xã hội chủ nghĩa, 27682

Video liên quan

Chủ Đề