Cmv igm là gì

Các loại thuốc được sử dụng để điều trị viêm võng mạc CMV trong các phác đồ điều trị và điều trị duy trì

  • Ganciclovir hoặc valganciclovir

  • Foscarnet, có hoặc không có ganciclovir

Hầu hết bệnh nhân đều nhận được điều trị theo kinh nghiệm với một trong những điều sau đây:

  • Ganciclovir 5 mg/kg IV mỗi 12 giờ trong 2 đến 3 tuần

  • Valganciclovir 900 mg uống mỗi 12 giờ trong 21 ngày

Nếu việc điều trị theo kinh nghiệm thất bại nhiều lần, cần dùng một loại thuốc khác.

Điều trị duy trì [giảm] với một trong những điều sau đây được đưa ra sau khi điều trị tấn công:

  • Ganciclovir 5 mg/kg tiêm tĩnh mạch một lần/ngày

  • Valganciclovir 900 mg uống 1 lần/ngày

Ngoài ra, foscarnet có thể dùng kèm với hoặc không có ganciclovir. Liều dùng là

  • Tấn công: Foscarnet 60 mg/kg tiêm tĩnh mạch mõi 8 giờ trong 2 đến 3 tuần

  • Duy trì: Foscarnet 90 đến 120 mg/kg tiêm tĩnh mạch một lần/ngày

Tác dụng phụ của foscarnet đường tĩnh mạch rất nghiêm trọng và bao gồm độc tính thận, giảm đường huyết dưới huyết áp triệu chứng, hạ huyết áp, tăng phosphate máu, hạ kali máu, và các ảnh hưởng CNS. Điều trị phối hợp với ganciclovir và foscarnet làm tăng hiệu quả cũng như tác dụng phụ.

Điều trị bằng Cidofovir là một sự lựa chọn khác; nó bao gồm

  • Tấn công: Cydofovir 5 mg/kg tiêm tĩnh mạch một lần/tuần trong 2 tuần

  • Duy trì: Cidofovir 5 mg/kg tiêm tĩnh mạch mỗi tuần một lần

Hiệu quả của cidofovir tương tự như của ganciclovir hoặc foscarnet. Tác dụng phụ đáng kể, bao gồm cả suy thận, hạn chế sử dụng. Cidofovir có thể gây viêm mống mắt hoặc giảm trương lực mắt [áp lực đáy ≤ 5 mm Hg]. Khả năng độc tính thận có thể giảm bằng cách cho probenecid và prehydration với mỗi liều. Tuy nhiên, các tác dụng phụ của probenecid, bao gồm phát ban, đau đầu, và sốt, có thể đủ ý nghĩa để ngăn ngừa việc sử dụng nó.

Cần được sử dụng liệu pháp kháng virút tại dịch kính kết hợp với liệu pháp toàn thân cho bệnh nhân viêm võng mạc do CMV mà ngay lập tức đe dọa mắt [tức là bệnh liên quan hoặc gần dây thần kinh thị giác hoặc tử cung]. Ngay cả những bệnh nhân được tiêm mắt cũng cần được điều trị toàn thân để phòng ngừa CMV ở mắt đối diện và mô ngoài mắt.

Tên kĩ thuật y tế: Xét nghiệm CMV [Cytomegalovirus [CMV]]

Bộ phận cơ thể/Mẫu thử: Máu

Tìm hiểu chung

Xét nghiệm CMV là gì?

Xét nghiệm CMV là xét nghiệm nhằm kiểm tra virus Cytomegalovirus [CMV]. Virus CMV là một phần của họ virus gồm herpes, Epstein-Barr, và virus varicella zoster [gây bệnh thủy đậu, giời leo]. Nhiễm CMV thường khá phổ biến.

CMV gây ra bệnh nhiễm trùng bẩm sinh phổ biến. Người mẹ có thể bị bệnh trong khi đang mang thai hoặc tái phát lại.

Khoảng 10% trẻ sơ sinh mắc bệnh biểu hiện tổn thương vĩnh viễn, thường là chậm phát triển trí tuệ và tổn thương thính giác. Nhiễm trùng bào thai có thể gây ra tật đầu nhỏ, não úng thủy, bại não, châm phát triển, hoặc tử vong. Những tác nhân gây bệnh nhiễm trùng ảnh hưởng bất lợi lên thai nhi sẽ được gọi bằng thuật ngữ TORCH [nhiễm toxoplasma [toxoplasmosis], bệnh khác [other], rubella, CMV [cytomegalovirus], herpes].

Khi nào bạn nên thực hiện xét nghiệm CMV?

Xét nghiệm sẽ được thực hiện khi một người bị nhiễm virus CMV. Nhiễm khuẩn thường xảy ra ở thai nhi, trẻ em và trẻ vị thành niên. Một số người có nguy cơ tăng nhiễm CMV: đồng tính nam, bệnh nhân cấy ghép nội tạng, và bệnh nhân mắc AIDS.

Thông thường, con đường lây nhiễm bệnh phổ biến là thông qua tiếp xúc với dịch cơ thể hoặc nước tiểu. Truyền máu cũng là một đường lây truyền virus CMV phổ biến. Đa số bệnh nhân bị nhiễm CMV cấp tính không có hoặc có rất ít triệu chứng.

Nếu bạn có triệu chứng nhiễm virus CMV, những xét nghiệm có thể được thực hiện để xác định xem bạn có mắc bệnh hay không. Virus này cũng có thể được xác định bằng phương pháp cấy hoặc bằng kĩ thuật PCR, với bệnh phẩm từ máu, các loại dịch cơ thể khác hay qua một mẫu sinh thiết mô.

Tầm soát và xét nghiệm cho em bé:

Việc xét nghiệm để xác định xem bạn có nhiễm virus hay không có thể trở nên quan trọng nếu bạn đang mang thai. Phụ nữ có thai đã có kháng thể chỉ có một xác suất rất nhỏ virus tái phát và truyền cho thai nhi.

Nếu bị nhiễm trong thai kỳ, bạn có thể phải chọc dịch ối để xét nghiệm.

Nếu bác sĩ nghĩ rằng con bạn có thể bị nhiễm CMV bẩm sinh [nhiễm từ khi mới sinh ra], việc xét nghiệm cho bé trong ba tuần đầu sau sinh là rất quan trọng. Nếu bạn đợi lâu hơn, xét nghiệm sẽ không thể kết luận con bạn bị nhiễm CMV bẩm sinh, bởi vì trẻ có thể mắc virus từ nhân viên y tế hay do phơi nhiễm với anh chị hoặc các bé đang bị nhiễm virus khác.

Tầm soát và xét nghiệm nếu bạn bị suy giảm miễn dịch:

Xét nghiệm CMV cũng quan trọng nếu bạn đang có một rối loạn làm suy yếu hệ thống miễn dịch. Ví dụ, nếu bạn bị nhiễm HIV hoặc AIDS bạn cần xét nghiệm tầm soát CMV.

Thận trọng

Bạn nên biết gì trước khi thực hiện xét nghiệm CMV?

Để xác định người bệnh có nhiễm virus CMV không, bác sĩ có thể cho thực hiện cấy, phân lập và định danh CMV. Tuy nhiên cách này không thể phân biệt được nhiễm trùng cấp tính với nhiễm trùng mãn tính, cũng như virus có hoạt động hay không.

Do đó, họ có thể cho làm xét nghiệm các kháng thể virus để tìm hiểu thêm về bệnh. Xét nghiệm kháng thể virus CMV thường dùng loại kháng thể globulin miễn dịch G và IgM.

Ngoài ra, kỹ thuật PCR là một kỹ thuật nhạy và đặc hiệu dùng để chẩn đoán chính xác tình trạng nhiễm CMV.

Trước khi tiến hành kỹ thuật y tế này, bạn nên hiểu rõ các cảnh báo và lưu ý. Nếu bạn có bất kỳ thắc mắc nào, hãy tham khảo ý kiến bác sĩ để có thêm thông tin và hướng dẫn cụ thể.

Để nuôi cấy phân lập, bác sĩ có thể chọn lấy mẫu nước tiểu, đờm hoặc nước bọt. Họ sẽ yêu cầu bạn đưa mẫu càng mới càng tốt.

Các mẫu bệnh phẩm được nuôi cấy trong phòng thí nghiệm virus, mất khoảng từ 3 – 7 ngày.

Đối với xét nghiệm kháng thể hoặc kháng nguyên, bác sĩ sẽ lấy mẫu máu từ tĩnh mạch.

Nếu đang mang thai nghi ngờ bị nhiễm trùng cấp tính, bạn nên đến bác sĩ để lấy mẫu càng sớm càng tốt.

Bác sĩ sẽ yêu cầu bạn quay lại sau 2 đến 4 tuần sau mẫu đầu tiên để lấy mẫu bổ sung.

Hướng dẫn đọc kết quả

Kết quả xét nghiệm CMV của bạn có ý nghĩa gì?

Kết quả bình thường: không nhiễm CMV.

Kết quả bất thường: nhiễm CMV.

Sự hiện diện của kháng thể kháng CMV chỉ ra một tình trạng nhiễm CMV đã hoặc đang xảy ra. Nếu số lượng kháng thể [được gọi là hiệu giá kháng thể] tăng lên trong vòng một vài tuần, nó có nghĩa là bạn đang bị nhiễm virus hoặc mới bị nhiễm gần đây.

Nhiễm CMV mạn tính [kháng thể kháng CMV hiện diện, không thay đổi trong một thời gian dài] có thể tái hoạt động trên những bệnh nhân suy giảm miễn dịch.

Hãy tham khảo ý kiến của bác sĩ nếu bạn có bất cứ câu hỏi nào về kết quả xét nghiệm.

Các bài viết của Hello Bacsi chỉ có tính chất tham khảo, không thay thế cho việc chẩn đoán hoặc điều trị y khoa.

Video liên quan

Chủ Đề