Cơ sở khoa học quản lý Đặng Văn Dựa

Bởi Pham, T.T., Vu, T.P., Vu, T.H., Luong, T.T., Le, N.D., Ðào Thi, L.C.

Giới thiệu về cuốn sách này

Page 2

Bởi Pham, T.T., Vu, T.P., Vu, T.H., Luong, T.T., Le, N.D., Ðào Thi, L.C.

Giới thiệu về cuốn sách này

Bởi Phạm, T.T., Ngô, H.C., Hoàng, M.H., Williams, P., Hoàng, T.L., Đào Thị, L.C.

Giới thiệu về cuốn sách này

CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO BỒI DƯỠNG NGHIỆP VỤ CẤP CHỨNG CHỈ ĐẤU THẦU 

Nếu bạn là cá nhân trực tiếp tham gia hoạt động đấu thầu thì hãy đến với lớp học Đấu thầu, cấp Chứng Chỉ Đấu Thầu theo Luật Đấu thầu số 43/2013/QH13, Nghị định 63/2014/NĐ-CP của chúng tôi.

Học Đấu Thầu

B. NỘI DUNG HỌC ĐẤU THẦU

Chuyên đề 1: Những vấn đề chung về đấu thầu

Thời lượng: 10 tiết

Giảng viên:

GVC. TS. Trần Văn Tâm – Trường Đại học Xây dựng

TS. Ngô Ngọc Quy – Phó Vụ trưởng Vụ Quản lý đấu thầu, Bộ KH và ĐT

PGS.TS Đinh Đăng Quang – Trường Đại học Xây dựng

Nội dung:

Yêu cầu, nội dung quản lý nhà nước về đấu thầu

Luật đấu thầu số 61/2005/QH11 ngày 29-11-2005, Luật Xây dựng số 16/2003/QH11 ngày 26-11-2003 của Quốc hội.

Nghị định số 111/2006/NĐ-CP ngày 29-9-2006 về Quản lý đấu thầu.

Chuyên đề 2: Nghiệp vụ lựa chọn nhà thầu thông qua đấu thầu theo Luật Xây dựng

Thời lượng: 10 tiết

Giảng viên

TS. Đặng Văn Dựa – Trường Đại học Xây dựng

GVC. TS. Đinh Văn Khiên – Trường Đại học Xây dựng

TS. Trần Hồng Mai – Phó Viện trưởng Viện Kinh tế xây dựng – Bộ Xây dựng.

Nội dung

2.1. Hướng dẫn lựa chọn nhà thầu theo Luật Xây dựng.

2.2. Công tác chuẩn bị hồ sơ phục vụ đấu thầu xây dựng: Kế hoạch đấu thầu; Hồ sơ mời đấu thầu

Chuyên đề 3: Nghiệp vụ đấu thầu và đấu thầu quốc tế trong lĩnh vực xây dựng

Thời lượng: 10 tiết

Giảng viên:

GVC. TS. Võ Quốc Bảo – Trường Đại học Xây dựng

GVC.TS. Phạm Đức Toàn – Trường Đại học Xây dựng

TS. Đặng Văn Dựa – Trường Đại học Xây dựng

C. KẾ HOẠCH THỰC HIỆN:

1. Khoa đào tạo Sau đại học quản lý và tổ chức thực hiện.

2. Đơn vị có giảng viên tham gia giảng dạy: Trường Đại học Xây dựng, Bộ Kế hoạch – Đầu tư, Viện Kinh tế xây dựng – Bộ Xây dựng.

  • Khóa học Đấu thầu, Bồi dưỡng Nghiệp vụ Đấu thầu phổ biến Luật Đấu thầu 43 và Nghị định 63 khai giảng tại:

Học Đấu Thầu Tại Hà Nội : -Số Số 1 Hoàng Đạo Thúy – Thanh Xuân – Hà Nội.

Học Đấu thầu tại TPHCM : Học viện Hành chính Quốc Gia – Số 10 Đường 3/2 -Phường 12 – Quận 10 – Tp. Hồ Chí Minh

*** Học Đấu thầu tại các tỉnh thành khác liên hệ Ms.Hoa – 0904 889 859 để được tư vấn trực tiếp

– Học phí lớp đấu thầu, cấp chứng chỉ đấu thầu:

Kinh phí : 1.000.000 đ/học viên/1khoá học [ bao gồm học phí, tài liệu, tea-break, cấp chứng chỉ đấu thầu]

Đăng ký qua số điện thoại 24/7: 0904 889 859 [Ms.Hoa] phụ trách đào tạo, tuyển sinh, tư vấn cấp chứng chỉ,…

Đăng ký qua email: [Thông tin đăng ký gồm: họ và tên, ngày tháng năm sinh, số điện thoại liên hệ]

Đăng ký qua Facebook: Click Here

Xem Thêm:

Rất mong sự quan tâm của quý cơ quan, đơn vị để Khóa học được diễn ra thành công tốt đẹp!

Trân trọng!

Viện Đào Tạo Bồi Dưỡng Cán Bộ

VPGD: Tòa HH2A – KĐT Linh Đàm – Hoàng Mai – Hà Nội

Website: //vienxaydung.edu.vn

Hotline: 0904 889 859 – 046.686.8910[Ms. Hoa]

Emai:

Trong quá trình công nghiệp hóa nền kinh tế, cần chú trọng phát triển phần cứng - cơ sở vật chất là rất cần thiết; nhưng trong nền kinh tế tri thức ngày nay, việc đồng thời phát triển 3 phần mềm của khoa học - công nghệ còn cần thiết hơn, nhằm sử dụng và phát huy mạnh mẽ phần cứng, trên thực tế Việt Nam phần mềm chưa được chú trọng thích đáng. Mặt khác, cùng với tiền vốn, vật tư, nhân lực, thời gian là một nguồn lực vô cùng quan trọng; nó có thể tính đổi với chi phí, cần được quản lý trực tiếp như chỉ tiêu vốn, chất lượng. Khi thời gian xây dựng công trình giảm xuống làm cho thời gian đưa dự án vào hoạt động sớm mang lại hiệu quả cho các chủ thể tham gia dự án như nhà nước, chủ đầu tư và nhà thầu. Để có cơ sở khoa học cho công tác quản lý thời gian, bài báo đưa ra các công thức xác định cụ thể lợi ích của các bên làm cơ sở cho việc thưởng hoặc phạt các chủ thể khi rút ngắn hoặc làm chậm thời gian đưa dự án vào sử dụng.

1. Tác giả chuyển giao toàn bộ bản quyền bài báo cho Tạp chí Khoa học Công nghệ Xây dựng [Tạp chí KHCN XD] – Trường Đại học Xây dựng [ĐHXD], bao gồm quyền xuất bản, tái bản, truyền tải, bán và phân phối toàn bộ hoặc một phần bài báo trong các ấn bản điện tử và in của Tạp chí, trong tất cả các phương tiện truyền thông được biết đến hoặc phát triển sau này.

2. Bằng cách chuyển giao bản quyền này cho Tạp chí KHCN XD, việc sao chép, đăng, truyền tải, phân phối hoặc sử dụng toàn bộ hoặc một phần bài báo bằng bất kỳ phương tiện nào bởi Tác giả đều yêu cầu phải trích dẫn đến Tạp chí một cách phù hợp về hình thức và nội dung, bao gồm: tiêu đề của bài báo, tên các tác giả, tên tạp chí, tập, số, năm, chủ sở hữu bản quyền theo quy định của Tạp chí, số DOI. Khuyến khích đưa kèm đường dẫn [Link] của bài báo đăng trên trang web của Tạp chí.

3. Tác giả và công ty/cơ quan chủ quản đồng ý rằng tất cả các bản sao của bài báo cuối cùng được xuất bản hoặc bất kỳ phần nào được phân phối hoặc đăng bởi họ ở dạng in hoặc điện tử như cho phép ở đây sẽ bao gồm thông báo về bản quyền theo quy định trong Tạp chí và trích dẫn đầy đủ đến Tạp chí như được công bố trên trang web.

LTS: Bộ Giáo dục và Đào tạo đang xây dựng Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Giáo dục và Luật Giáo dục đại học dự kiến trình Quốc hội cho ý kiến.

Nhận thấy các quy định về quản trị các cơ sở giáo dục đại học còn một số bất cập, Tiến sĩ Đặng Văn Định, công tác tại Viện các vấn đề giáo dục Trường Đại học Bình Dương, từng là chuyên viên Vụ Giáo dục Đại học, đưa ra một số đề xuất góp ý nhằm sửa đổi, bổ sung quy định về vấn đề này.

Toà soạn trân trọng gửi đến độc giả bài viết.

1. Sự cần thiết phải sửa đổi, bổ sung các quy định về quản trị các cơ sở giáo dục đại học

Thập niên 90 của thế kỷ trước, Đảng và Nhà nước đã chủ trương thực hiện xã hội hóa phát triển giáo dục, quy định rõ trong hệ thống giáo dục quốc dân có các loại hình trường công lập, bán công, dân lập và tư thục [1].

Luật Giáo dục 2005, tại Điều 48 làm rõ tính chất các loại hình trường, tại Điều 67 quy định: “tài sản, tài chính của trường tư thục thuộc các thành viên góp vốn”.

Quy định này khiến thu hút nhiều nhà đầu tư thuộc các thành phần kinh tế đầu tư vào các bậc học, cấp học, trình độ đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân.  

Thực hiện luật trên, giáo dục phổ thông ngoài công lập xem ra êm ả, không xuất hiện những xung đột không đáng có, nhiều trường tư thuộc giáo dục phổ thông là địa chỉ tin cậy của phụ huynh học sinh.  

Việc sửa đổi, bổ sung Luật Giáo dục và Luật Giáo dục đại học là cần thiết trong quá trình đổi mới giáo dục. [Ảnh minh hoạ: Báo Giáo dục và Thời đại]

Được như vậy phần lớn là nhờ Quy chế tổ chức và hoạt động của trường tiểu học, trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp học loại hình tư thục do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành phù hợp với thực tiễn [2].

Ở đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã vận dụng tốt Luật Doanh nghiệp vào quản lý nhà trường.

Trong khi đó Luật Giáo dục đại học ra đời năm 2012 đã điều chỉnh mô hình trường đại học dân lập, trường đại học tư thục theo hướng công ty cổ phần nửa vời, thậm chí áp đặt cách quản trị đại học của thời bao cấp vào quản lý trường đại học tư thục.

Xin nêu vài ví dụ.

Ví dụ 1. Điều 66 của của Luật Giáo dục đại học quy định sử dụng phần chênh lệch thu chi của trường đại học tư thục như sau:

Dành ít nhất 25% để đầu tư phát triển cơ sở giáo dục đại học, cho các hoạt động giáo dục, xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết bị, đào tạo, bồi dưỡng giảng viên, viên chức, cán bộ quản lý giáo dục, phục vụ cho hoạt động học tập và sinh hoạt của người học hoặc cho các mục đích từ thiện, thực hiện trách nhiệm xã hội.

Phần này được miễn thuế [Điều 66, Khoản 3. Điểm a];

Giá trị tài sản tích lũy được trong quá trình hoạt động của cơ sở giáo dục đại học tư thục và giá trị của các tài sản được tài trợ, ủng hộ, hiến tặng cho cơ sở giáo dục đại học tư thục là tài sản chung không chia, được quản lý theo nguyên tắc bảo toàn và phát triển [Điều 66, Khoản 4].

Như thế là chênh lệch thu chi phải để lại 25% trước thuế và chúng biến hóa thành “tài sản chung không chia”.

Việc này không phù hợp với Điều 67 Luật Giáo dục 2005 và Điều 51 Hiến pháp 2013 của Nhà nước, khiến nhiều nhà đầu tư không yên tâm.  

Ví dụ 2. Từ năm 2005 đến năm 2011 Chính phủ nhất quán thành phần hội đồng quản trị của trường đại học tư thục phải là người góp vốn [3].

Những nội dung cần sửa đổi, bổ sung trong Luật Giáo dục đại học

Thế nhưng tại Điểm b, Khoản 3, Điều 17 của Luật Giáo dục đại học quy định thêm những thành phần đương nhiên vào hội đồng quản trị của đại học tư thục là “hiệu trưởng; đại diện cơ quan quản lý địa phương nơi cơ sở giáo dục đại học có trụ sở; đại diện tổ chức Đảng, đoàn thể; đại diện giảng viên”. 

Việc này thể hiện sự không nhất quán của Nhà nước, xung đột với Pháp lệnh công chức, không phù hợp với Luật Doanh nghiệp, Luật Dân sự. 

Trong thực tế một số trường đại học tư thục do một gia đình hoặc một công ty đầu tư.

Điều này dẫn đến tình trạng nhà đầu tư buộc phải tìm cách “chế biến” sao cho tài sản của mình không bị “tuột tay” v.v. 

Những ví dụ trên cho thấy Luật Giáo dục và Luật Giáo dục đại học có những quy định mà cuộc sống phải “né tránh”. Đặt vấn đề sửa đổi, bổ sung một số điều của hai luật trên là cần thiết.

2. Quan điểm về sửa đổi, bổ sung các quy định về quản trị các cơ sở giáo dục đại học

Sau khi Luật Giáo dục và Luật Giáo dục đại học ra đời xuất hiện Hiến pháp 2013, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII và một loạt văn bản dưới luật của Chính phủ liên quan đến giáo dục đại học.

Hiến pháp khẳng định kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng; tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức đầu tư, sản xuất, kinh doanh được pháp luật bảo hộ và không bị quốc hữu hóa [Điều 51 Hiến pháp 2013].

Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII ghi rõ: “tiếp tục thể chế về sở hữu..”, “đổi mới cơ chế chính sách tài chính”, “tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của của các cơ sở giáo dục đào tạo” v.v [4].

Trong khi đó, Bộ luật Dân sự xuất bản năm 2009 quy định  “chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình để nắm giữ, quản lý tài sản nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội”, còn Chính phủ đang nỗ lực trải nghiệm tăng quyền tự chủ toàn diện cho các cơ sở giáo dục đại học.

Trong bối cảnh đó, người viết xin nêu một số quan điểm sau nhằm góp phần hoàn thiện Luật Giáo dục và  Luật Giáo dục đại học.

Đó là:

-  Cụ thể hóa được các văn kiện Đại hội Đảng, Hiến pháp năm 2013 của Nhà nước, bảo đảm sự phù hợp với các luật khác, đồng thời cập nhật được các giá trị hoạt động thực tiễn của Chính phủ.

-  Tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa mở rộng các nguồn đầu tư, khai thác các tiềm năng về nhân lực, vật lực và tài lực trong xã hội nhằm phát triển giáo dục đại học, coi đây là chính sách lâu dài, là phương châm để phát triển giáo dục đại học.

-  Kế thừa những giá trị của những mô hình đại học đã được trải nghiệm của những năm đổi mới gần đây.

-  Bảo đảm sự bình đẳng giữa các trường đại học công lập với các trường đại học ngoài công lập.

-  Bảo đảm quyền tài sản của Nhà nước, tổ chức, cá nhân theo Hiến pháp.

-  Tăng quyền tự chủ đại học phải song hành với các biện pháp kiểm soát tự chủ.

3.  Một số kiến nghị

Những kiến nghị dưới đây tập trung vào góp phần hoàn thiện các quy định về quản trị các cơ sở giáo dục đại học.

Kiến nghị thứ nhất là rà soát một số điều có liên quan, theo đó:

Đối với Luật Giáo dục 2005: Chỉnh sửa Điều 48 theo hướng ở trình độ đại học vẫn có mô hình đại học dân lập. Dựa vào nguyện vọng nhà đầu tư.

Có thể duy trì hình thức sở hữu tập thể như lâu nay nhà nước đã quy định, hoặc áp dụng hình thức sở hữu chung của cộng đồng theo tinh thần Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 của Trung ương Đảng.

Đối với Luật Giáo dục đại học: Chỉnh sửa Điều 66 theo hướng bỏ việc trường đại học tư thục dành 25% trước thuế từ chênh lệch thu chi và biến chúng thành tài sản chung không chia.

Chỉnh sửa Điều 16 của Luật Giáo dục đại học theo hướng bổ sung thêm quyền cho Hội đồng trường về quyết định nhân sự chủ chốt nhà trường, về kiểm soát tài chính.

Làm việc này nên tham khảo quy định của Chính phủ về cơ chế tự chủ của các đơn vị sự nghiệp công lập [năm 2015].

Tại văn bản này Chính phủ đã định chế cụ thể một Hội đồng quản lý đơn vị sự nghiệp công lập có khá đầy đủ quyền lực [5].

Kiến nghị 2. Biên tập một điều về “Quản trị các cơ sở giáo dục đại học”

Xin gợi ý, trong điều này có hai khoản.

Khoản 1. Phân nhóm các cơ sở giáo dục đại học theo sở hữu:

Nhóm 1. Các cơ sở giáo dục đại học thuộc sở hữu nhà nước. Đây là các cơ sở giáo dục đại học công lập [định nghĩa về trường công lập hiểu theo Điều 48 Luật Giáo dục].

Nhóm 2. Các cơ sở giáo dục đại học thuộc sở hữu tập thể hoặc sở hữu chung của cộng đồng.

Đào tạo đại học không nên được quan niệm chỉ là đào tạo nghề

Đây là các trường đại học dân lập hiện tồn tại, hoặc xuất hiện những nhà hảo tâm đầu tư đủ lớn để trường đi vào hoạt động và giao tài sản đó cho cộng đồng quản trị.

Nhóm 3. Các cơ sở giáo dục đại học thuộc sở hữu của tư nhân [bao gồm các trường  đại học tư thục đầu tư theo cơ chế tương tự như doanh nghiệp].

Khoản 2. Nguyên tắc quản trị các cơ sở giáo dục đại học: 

- Đối với cơ sở giáo dục đại học nhóm 1, đại diện quyền sở hữu là Chính phủ và một tổ chức được gọi là Hội đồng đại học hay Hội đồng trường.

Xin lưu ý là các trường nhóm 1 đang thụ hưởng gần như 100% đầu tư công cho giáo dục đại học. 

Chính phủ chủ động tổ chức mô hình quản trị các cơ sở giáo dục đại học công lập theo chủ đích của Đảng và Nhà nước là đương nhiên.

-  Đối với cơ sở giáo dục đại học nhóm 2, đại diện quyền sở hữu là hội đồng quản trị.

Thành viên hội đồng quản trị gồm các thành viên trong trường nếu là sở hữu tập thể, có cả  thành viên ngoài trường nếu là sở hữu chung của công động. Việc bầu hội đồng quản trị theo nguyên tắc đối nhân.

-  Đối với cơ sở giáo dục đại học nhóm 3 đại diện quyền sở hữu là hội đồng quản trị. Thành viên hội đồng quản trị do các thành viên góp vốn bầu theo nguyên tắc đối vốn.

Xin được lưu ý thêm là hiện nay mô hình đầu tư vào các trường đại học tư thục ở nước ta rất đa dạng.

Sẽ giảm bớt những phức tạp đối với các trường đại học tư thục nếu để các chủ đầu tư tự đăng ký mô hình quản trị theo Luật Doanh nghiệp.

Việc bố trí điều về “Quản trị các cơ sở giáo dục đại học” vào vị trí nào của các luật sửa đổi do Ban soạn thảo sắp xếp theo logic về cấu trúc luật.

Tài liệu tham khảo:

[1]  Nghị quyết số 04-NQ/HNTW ngày 14/01/1993 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VII về tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Luật Giáo dục 1998 [Điều 44]

[2]  Thông tư  số 13 /2011/TT-BGDĐT ngày 28  tháng 3  năm 2011 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.

[3] Các quy chế về tổ chức và hoạt động của trường đại học tư thục ban hành theo: Quyết định số 14/2005/QĐ-TTg, Quyết định số  61/2009/QĐ-TTg, Quyết định số 63/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ

[4]. Văn kiện Đại hội Đảng XII, trang  102-117. NXB Chính trị quốc gia 2016.

[5]. Nghị định 16/2015/NĐ-CP về cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập. 

Tiến sĩ Đặng Văn Định

Video liên quan

Chủ Đề