Cục dự trữ liên bang mỹ viết tắt là gì năm 2024

Cục dự trữ liên bang Mỹ, gọi tắt là FED, là Ngân hàng trung ương của nước Mỹ. Trong vai trò của một Ngân hàng trung ương, FED là ngân hàng của các ngân hàng và là ngân hàng của Chính phủ liên bang. FED được xây dựng để đảm bảo duy trì cho nước Mỹ một chính sách tiền tệ linh hoạt hơn, an toàn hơn, và ổn định hơn. Trong quá trình tồn tại và phát triển cùng với lịch sử nước Mỹ, FED ngày càng chứng mình được vai trò vô cùng quan trọng của nó trong hệ thống ngân hàng cũng như trong nền kinh tế Mỹ.

Được thành lập ngày 23/12/1913 theo đạo luật mang tên "Federal Reserve Act" do tổng thống Woodrow Wilson kí, FED là một mạng lưới gồm 12 Ngân hàng dự trữ liên bang và một số chi nhánh khác. Về mặt quản lý, FED chia nước Mỹ làm 12 khu vực, được gọi là các "Quận" [District], mỗi ngân hàng Dự trữ liên bang đại diện cho một quận và được đặt tên theo tên thành phố mà nó đặt trụ sở, đó là Boston, New York, Philadelphia, Cleveland, Richmond, Atlanta, Chicago, St. Louis, Minneapolis, Kansas City, Dallas, San Francisco, trong đó Ngân hàng dự trữ New York có vai trò nổi bật hơn một chút so với các ngân hàng còn lại.

Lãnh đạo FED là Ban thống đốc [Board of Governors] gồm có 7 thành viên do Tổng thống bổ nhiệm và Thượng viện phê chuẩn. 7 thành viên của Ban thống đốc đóng vai trò như là đa số trong Uỷ ban thị trường mở Hoa Kì [FOMC], là cơ quan quyết định tất cả các chính sách tiền tệ của Mỹ. 5 thành viên còn lại của FOMC là chủ tịch của Ngân hàng dự trữ liên bang New York và 4 chủ tịch ngân hàng dự trữ liên bang khác. Nhiệm kì của mỗi thành viên Ban thống đốc kéo dài 14 năm, và các thành viên chỉ có thể được tái bổ nhiệm nếu nhiệm kì trước của ông ta không phải là một nhiệm kì trọn vẹn. Tổng thống tiếp tục bổ nhiệm Chủ tịch và phó Chủ tịch Ban thống đốc, hai người này giữ chức trong vòng 4 năm và có thể được tái bổ nhiệm không hạn chế chừng nào họ còn là thành viên của Ban thống đốc. Chủ tịch của FED hiện nay là Ben Bernanke, người đã thay thế Alan Greenspan vào ngày 01/01/2006. Alan Greenspan đã từng phục vụ ở cương vị Chủ tịch FED từ năm 1987.

FED có một số nhiệm vụ chính như:

  • Thực thi những chính sách tiền tệ quốc gia để duy trì mức việc làm, giá cả ổn định và lãi suất tương đối thấp.
  • Giám sát và quản lý các thể chế ngân hàng để đảm bảo đó là những nơi an toàn để gửi tiền và để bảo vệ quyền lợi tín dụng của người dân.
  • Cung cấp các dịch vụ tài chính cho các tổ chức tín dụng, Chính phủ Mỹ và Ngân hàng trung ương các nước khác như thanh toán bù trừ, thanh toán điện tử, phát hành tiền...
  • Ngoài ra FED còn tiến hành các nghiên cứu về nền kinh tế Mỹ cũng như kinh tế các bang, cung cấp thông tin về nền kinh tế thông qua các ấn phẩm, hội thảo giáo dục và qua website.

Với vai trò là Ngân hàng trung ương của nền kinh tế mạnh nhất thế giới, mỗi quyết định của FED đều gián tiếp ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế toàn cầu. Người ta hay nói vui rằng "một cái hắt hơi sổ mũi của chủ tịch FED" cũng đủ làm chao đảo nền kinh tế thế giới, xét về mặt nào đó cũng không phải là không có lý. Vậy FED đã tác động đến nền kinh tế toàn cầu như thế nào?

Thứ nhất các quyết định về tăng giảm lãi suất của FED tác động trực tiếp đến sức mạnh của đồng USD, qua đó ảnh hưởng mạnh đến các đối tác thương mại của Mỹ. Nếu FED tăng lãi suất đồng USD nhằm kiềm chế lạm phát, vô hình chung làm tăng sức mạnh của đồng USD trên thị trường tiền tệ quốc tế, làm tăng nhập khẩu, giảm xuất khẩu, giảm đầu tư vào Mỹ.

Thứ hai, FED còn trực tiếp can thiệp vào việc xác lập giá trị đồng USD thông qua hoạt động mua bán USD và các ngoại tệ khác. Ví dụ, nếu Mỹ bán đồng Yen ra đồng thời mua vào USD thì giá trị của USD sẽ tăng, trong khi giá trị Yen giảm xuống, dẫn đến tỉ giá USD/Yen tăng.

Chính vì vậy những chuyên tham gia vào thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế không bao giờ bỏ qua những diễn biến của FED.

FED là gì? FED là gì một tổ chức quan trọng trong nền kinh tế Hoa Kỳ, chịu trách nhiệm kiểm soát tiền tệ và hệ thống tài chính của Hoa Kỳ, và nó đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy ổn định tài chính. Trong bài viết này chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu về FED là gì? Vai trò của FED đối với Mỹ và Thế giới là gì?

Để hiểu hơn về bài viết này mọi người có thể tham khảo một số bài viết dưới đây:

  • Gia Tộc Rothschild Là Gì? Bí Ẩn Gia Tộc Nắm Giữ Vận Mệnh Thế Giới
  • Gia Tộc Rockefeller Là Gì? Bí Ẩn Của Gia Tộc Nắm Sức Ảnh Hưởng Tới FED
  • JP Morgan Là Gì? Ai Thực Sự Nắm Trong Tay Ngân Hàng Lớn Nhất Nước Mỹ

Lịch Sử Ra Đời Của Cục Dự Trữ Liên Bang Mỹ FED

Thời gian ra đời

Vào ngày 23/12/1913, Tổng thống Mỹ tại thời điểm đó là Woodrow Wilson đã chính thức ban hành Đạo luật Dữ trữ Liên bang từ đó Cục Dữ trữ Liên bang FED là viết tắt của Federal Reserve System chính thức ra đời. Nhưng để làm được điều này thì hành trình ra đời của FED là cả một con đường đầy chông gai và đã từng bị nhiều đời tổng thống Mỹ phế bỏ từ ngay trong trứng.

Lí do ra đời của FED nằm ở đâu?

Khủng hoảng kinh tế Mỹ năm 1907 là điểm then chốt để FED ra đời. Vậy cuộc khủng hoảng 1907 này có những sự kiện nào đáng nổi bật? Cuộc khủng hoảng năm 1907 hay còn gọi là cuộc Khủng hoảng của các chủ ngân hàng hay Khủng hoảng Knickerbocker.

Trong những năm 1907, tại Mỹ đã có tới 22.000 ngần hàng khác nhau tức là cứ mỗi 4.000 dân thì sẽ có 1 ngân hàng. Ở các thị trấn, người dân có thể lựa chọn giữa ngân hàng địa phương và ngân hàng được quản lý bởi nhà nước, có thể thấy rằng ngành kinh doanh ngân hàng tại Mỹ giai đoạn này đang ở đỉnh cao. Tuy nhiên, mức lãi suất của các ngân hàng là không hấp dẫn dẫn tới người dùng lựa chọn gửi tiền vào các công ty tín thác.

Các công ty, loại hình tín thác xuất hiện vào đầu những năm 1890 với mục tiêu lấy tiền của khác hàng để đầu tư vào trái phiếu và cổ phiếu kiếm lợi nhuận. Khi ngày càng có nhiều công ty tín thác khác nhau thì sẽ chủ yếu cạnh tranh nhau về lãi suất. Để có được lãi suất cao thu hút người dùng thì các công ty tín thác bắt đầu lựa chọn những hoạt động rủi ro đầu tư hơn như bảo lãnh và phân phối cổ phần, sở hữu và điều hành các dự án bất động sản và đường sắt.

Lãi suất càng cao thì dòng tiền đổ vào công ty tín thác càng nhiều từ đó có thể coi các công ty tín thác như một dạng ngân hàng đầu tư. Nguy hiểm ở chỗ:

  • Các công ty tín thác quản lý tài chính lỏng lẻo khi tiếp cận với tài sản đầu tư.
  • Dữ trữ tiền mặt chỉ là 5% so với 25% với các ngân hàng thông thường.

Trong bối cảnh Mỹ vẫn tiếp tục phát triển mạnh mẽ sang hàng loạt các sự kiện không đáng có như thảm họa cháy Baltimore năm 1904 và động đất tại San Francisco năm 1906. Thảm họa được bắt đầu tư hai cá nhân như sau:

  • Augustus Heinze và Charles Morse sử dụng quá nhiều tiền và đòn bẩy để thao túng giá cổ phiếu United Copper.
  • Cuối 1907, nền kinh tế Mỹ có dấu hiệu ngưng phát triển dẫn tới giá cổ phiếu United Copper lao dốc.
  • Augustus Heinze và Charles Morse thua lỗ quá sâu và cả hai bắt đầu dùng tới vốn của ngân hàng của mình để xử lý khủng hoảng.
  • Điều này đã bắt đầu tạo nên các rắc rối cho các ngân hàng nhỏ hơn và đặc biệt là một công ty tín thác lớn thứ 3 tại Mỹ là Knickerbocker Trust.

Người dân bắt đầu có những thông tin tiêu cực từ Augustus Heinze và Charles Morse có ảnh hưởng tới Knickerbocker Trust, họ bắt đầu lao ra rút tiền. Chỉ trong vòng chưa đầy 1 ngày, Knickerbocker Trust đã phải trả lại cho khách hàng $8M và từ chối một số giao dịch.

Hoảng loạn lan rộng khi mà toàn bộ người dần đua nhau rút tiền khỏi các công ty tín thác trong đó có Lincoln Trust. Tại thời điểm đó, ông lớn của ngành ngân hàng là JP Morgan đã phải ra mắt dùng tiền của mình để cung cấp thanh khoản cho cả thị trường nhưng từng đó vẫn là chưa đủ khi cơn hoảng loạn của người dân lan từ các công ty tín thác sang các ngân hàng.

Nhiều ngân hàng đã phải đóng cửa khẩn cấp, một số ngân hàng vẫn mở cửa nhưng hạn chế rút tiền. Chính sự kiện này đã dẫn tới tình trạng khan tiền mặt trên toàn nước Mỹ. Từ đó thúc đẩy nhu cầu có một Ngân hàng trung ương là cơ quan quyền lực và là cơ quan giám sát chặt chẽ hệ thống ngân hàng tại Mỹ giống như tại Anh và các nước châu Âu lên cao hơn bao giờ hết.

FED được thành lập như thế nào?

Sau cuộc khủng hoảng của các ngân hàng 1907, thì Quốc Hội Hoa Ky thành lập "Ủy ban tiền tệ quốc gia" với nhiệm xây dựng một hệ thống ngân hàng. Nelson Aldrich – người đứng đầu đảng Cộng hòa ở quốc hội đồng thời là chuyên gia tài chính, được chỉ định là Chủ tịch Ủy ban. Sau khoảng thời gian nghiên cứu các mô hình Ngân hàng Trung ương của các nước châu Âu thì Nelson Aldrich đã lựa chọn mô hình hệ thống tài chính tiên tiến như của Anh và Đức.

Một cuộc họp kín tại một hòn đảo Jekyll ngoài khơi bang Georgia trong vòng nhiều 7 ngày đêm đã được diễn ra với sự tham gia của:

  • Nelson Aldrich là đại diện của Kuhn, Loeb & Công ty [chuyên gia tài chính gốc Đức].
  • John D. Rockefeller Sr., người sáng lập Standard Oil
  • J. P. Morgan, chủ tịch của ngân hàng J.P. Morgan & Co.
  • Henry P. Davison, phó chủ tịch của ngân hàng J.P. Morgan & Co.
  • Benjamin Strong, chủ tịch của ngân hàng Morgan Guaranty Trust
  • Frank Vanderlip, chủ tịch của ngân hàng National City Bank of New York
  • Charles Norton, chủ tịch của ngân hàng First National Bank of New York
  • Henry Harriman, chủ tịch của ngân hàng Union Pacific Railroad
  • James Stillman, chủ tịch của ngân hàng National City Bank of New York
  • William Rockefeller, em trai của John D. Rockefeller Sr.

Trong 7 ngày này thì Nelson Aldrich đã xác lập những ý cơ bản của Đạo luật Dự trữ liên bang tuy nhiên nó lại không được thông qua vào năm 1911 bởi vì tại thời điểm đóa đa số quốc hội thuộc về đảng Dân chủ trong khi Nelson Aldrich là người lãnh đạo đảng Cộng Hòa.

Mãi tới năm 1913, tổng thống Mỹ là Woodrow Wilson phải có những tác động mạnh mẽ để kế hoạch của Nelson Aldrich tái khởi đồng và thông qua với các tên mới là "Đạo luật Dự trữ liên bang". Frank Vanderlip, người đã tham gia hội nghị ở đảo Jekyll và là chủ tịch National City Bank viết trong tự truyện của mình rằng "mặc dù kế hoạch về Quỹ dự trữ liên bang của Aldrich đã không được thông qua với cái tên của chính ông, nhưng những điểm cơ bản của nó đều nằm trong dự luật sau này được thông qua".

Vào ngày 23/12/1913, FED chính thức được ra đời

Cấu trúc cơ bản của Cục dự trữ liên bang Mỹ FED cơ bản bao gồm:

  • Hội đồng thống đốc: là cơ quan độc lập với chính phủ liên bang. Hội đồng không nhận tài trợ của Quốc hội và bảy thành viên của Hội đồng theo cơ chế dân chủ. Thành viên của Hội đồng là độc lập và không phải chấp hành yêu cầu của hệ thống lập pháp cũng như hành pháp. Tuy nhiên, Hội đồng phải gửi báo cáo tới Quốc hội theo định kỳ. Theo luật, thành viên của Hội đồng này chỉ rời chức vụ khi mãn hạn. Hội đồng Thống đốc chịu trách nhiệm việc hình thành và cụ thể hóa chính sách tiền tệ.
  • Các ngân hàng của FED [Federal Reserve Banks]: Ngân hàng dự trữ liên bang khu vực không phải là công cụ của Chính phủ liên bang, chúng là các ngân hàng độc lập, sở hữu tư nhân và hoạt động theo luật pháp ở địa phương.
  • Các ngân hàng thành viên có cổ phần tại các chi nhánh.

Mỗi ngân hàng Fed khu vực và ngân hàng thành viên của Cục dự trữ liên bang tuân thủ sự giám sát của Hội đồng thống đốc. Bảy thành viên của Hội đồng thống đốc được chỉ định bởi Tổng thống Hoa Kỳ và phê chuẩn bởi Quốc hội. Các thành viên được lựa chọn cho nhiệm kỳ 14 năm [trừ khi bị phế truất bởi Tổng thống] và không phục vụ quá một nhiệm kỳ. Tuy nhiên, một thành viên nếu được chỉ định để phục vụ nốt phần chưa hoàn tất của thành viên khác có thể phục vụ tiếp một nhiệm kỳ 14 năm nữa.

Tiền giấy do Fed phát hành sẽ được đưa vào lưu thông qua các Ngân hàng dự trữ liên bang khu vực.

Vai Trò & Nhiệm Vụ Của Cục Dự Trữ Liên Bang Mỹ FED Là Gì?

Vai trò và nhiệm vụ của FED

Theo như Hội đồng thống đốc, FED sẽ có những nhiệm vụ cơ bản như sau:

  • Kiểm soát cung tiền và lãi suất: FED có thể sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ để kiểm soát cung tiền và lãi suất. Điều này có tác động đến chi tiêu của các hộ gia đình và doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế và lạm phát.
  • Giám sát hệ thống ngân hàng: FED chịu trách nhiệm giám sát hệ thống ngân hàng của Hoa Kỳ để đảm bảo sự ổn định và an toàn. FED có thể thực hiện các biện pháp trừng phạt đối với các ngân hàng vi phạm quy định.
  • Thực hiện các hoạt động thị trường mở: FED mua và bán trái phiếu chính phủ và các tài sản khác trên thị trường mở. Điều này có tác động đến cung tiền và lãi suất.
  • Cung cấp thanh khoản cho thị trường tài chính: FED có thể cung cấp thanh khoản cho thị trường tài chính trong trường hợp khẩn cấp. Điều này giúp ngăn chặn các cuộc khủng hoảng tài chính.

Qua mỗi thời kì khác nhau FED đều có những vai trò và nhiệm vụ khác nhau. Tuy nhiên, vai trò của FED ngày càng mở rộng qua các năm từ đó cũng dẫn tới sức ảnh hưởng của FED vẫn tăng dần qua các thời kì mà chưa có những dấu hiệu suy giảm.

Một số những tác động của FED

Có thể nói rằng FED có những tác động trực tiếp tới nền kinh tế Mỹ thông qua việc điều chỉnh tăng giảm lãi suất. Các chính sách tiền tệ của FED có thể tác động đến kinh tế Mỹ theo các cách sau:

  • Tác động đến tăng trưởng kinh tế: Các chính sách tiền tệ nới lỏng có thể giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bằng cách làm giảm lãi suất, từ đó khuyến khích chi tiêu và đầu tư.
  • Tác động đến lạm phát: Các chính sách tiền tệ thắt chặt có thể giúp kiểm soát lạm phát bằng cách làm tăng lãi suất, từ đó làm giảm chi tiêu và đầu tư.
  • Tác động đến thị trường tài chính: Các chính sách tiền tệ của FED có thể ảnh hưởng đến giá cả tài sản, chẳng hạn như cổ phiếu và trái phiếu.

Khi FED có những tác động tới Mỹ vì vô hình chung FED cũng có những tác động đến toàn thế giới như:

  • Tác động đến tỷ giá hối đoái: Các chính sách tiền tệ của FED có thể ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái giữa đồng đô la Mỹ và các loại tiền tệ khác.
  • Tác động đến dòng vốn đầu tư: Các chính sách tiền tệ của FED có thể ảnh hưởng đến dòng vốn đầu tư vào Hoa Kỳ và các quốc gia khác.
  • Tác động đến giá cả hàng hóa và dịch vụ: Các chính sách tiền tệ của FED có thể ảnh hưởng đến giá cả hàng hóa và dịch vụ, đặc biệt là những hàng hóa và dịch vụ được định giá bằng đồng đô la Mỹ.

Ví dụ, trong những năm gần đây, FED đã tăng lãi suất để kiểm soát lạm phát. Điều này đã dẫn đến sự thắt chặt điều kiện tài chính ở Hoa Kỳ và các quốc gia khác, làm giảm chi tiêu và đầu tư. Kết quả là, tăng trưởng kinh tế toàn cầu đã chậm lại. Một ví dụ khác là trong cuộc khủng hoảng tài chính 2007-2008, FED đã sử dụng các chính sách tiền tệ nới lỏng để giải quyết cuộc khủng hoảng. Điều này đã giúp hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở Hoa Kỳ và các quốc gia khác.

Một Số Những Thành Công Và Thất Bại Của FED

Một số những thành công của FED

Năm 1965, FED đã sử dụng các chính sách tiền tệ nới lỏng để giúp nền kinh tế Hoa Kỳ phục hồi sau cuộc suy thoái năm 1960. Trong cuộc suy thoái năm 1960, GDP thực tế giảm 1.2%. FED đã cắt giảm lãi suất xuống mức thấp kỷ lục để kích thích nền kinh tế. Các chính sách này đã giúp nền kinh tế phục hồi, và GDP thực tế tăng trưởng trung bình 4.2% mỗi năm trong giai đoạn từ năm 1961 đến năm 1965.

Năm 1980, FED đã sử dụng các chính sách tiền tệ thắt chặt để đưa lạm phát xuống mức thấp sau những năm 1970. Lạm phát ở Hoa Kỳ đạt mức cao nhất trong lịch sử vào năm 1980, ở mức 14,8%. FED đã tăng lãi suất lên mức cao kỷ lục 20% để kiểm soát lạm phát. Các chính sách này đã hiệu quả, và lạm phát giảm xuống mức 3,2% vào năm 1983.

Năm 2007-2008, FED đã sử dụng các biện pháp chưa từng có để giải quyết cuộc khủng hoảng tài chính. Cuộc khủng hoảng tài chính 2007-2008 đã gây ra sự hoảng loạn trên thị trường tài chính. Nhiều ngân hàng đã gặp khó khăn trong việc huy động vốn, và một số ngân hàng đã phá sản. FED đã cung cấp thanh khoản cho các ngân hàng bằng cách mua trái phiếu chính phủ và các khoản thế chấp. Các biện pháp này đã giúp ổn định hệ thống ngân hàng và ngăn chặn một cuộc suy thoái sâu hơn.

Một số những thất bại của FED

Không thể kiểm soát lạm phát trong những năm 1970

Trong những năm 1970, lạm phát ở Hoa Kỳ tăng cao, đạt mức 14.8% vào năm 1980. FED đã sử dụng các chính sách tiền tệ thắt chặt để kiểm soát lạm phát, nhưng các chính sách này đã không hiệu quả.

Có một số yếu tố dẫn đến lạm phát cao trong những năm 1970, bao gồm:

  • Giá dầu tăng cao: Giá dầu tăng cao trong thời kỳ này đã gây ra áp lực lạm phát lên nền kinh tế.
  • Tăng trưởng tiền lương: Tăng trưởng tiền lương trong thời kỳ này cũng đã góp phần gây ra lạm phát.
  • Chính sách tiền tệ nới lỏng: FED đã sử dụng chính sách tiền tệ nới lỏng trong những năm 1970 để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, chính sách này đã góp phần làm tăng lạm phát.

Không thể ngăn chặn việc tăng trưởng bong bóng bất động sản

Trong những năm 2000, giá bất động sản ở Hoa Kỳ tăng cao một cách không bền vững. FED đã không thể ngăn chặn việc tăng trưởng bong bóng bất động sản này.

Có một số yếu tố dẫn đến việc tăng trưởng bong bóng bất động sản, bao gồm:

  • Tín dụng dễ dàng: Các ngân hàng đã cung cấp tín dụng dễ dàng cho các khách hàng có khả năng thanh toán kém.
  • Chính sách tiền tệ nới lỏng: FED đã sử dụng chính sách tiền tệ nới lỏng trong những năm 2000 để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, chính sách này đã góp phần làm tăng bong bóng bất động sản.

Không thể ngăn chặn cuộc khủng hoảng tài chính 2007-2008

Cuộc khủng hoảng tài chính 2007-2008 là một cuộc khủng hoảng tài chính nghiêm trọng đã gây ra một cuộc suy thoái kinh tế ở Hoa Kỳ và trên toàn thế giới. FED đã không thể ngăn chặn cuộc khủng hoảng này.

Có một số yếu tố dẫn đến cuộc khủng hoảng tài chính 2007 - 2008, bao gồm:

  • Tăng trưởng bong bóng bất động sản: Trong những năm 2000, giá bất động sản ở Hoa Kỳ tăng cao một cách không bền vững. Điều này đã tạo ra một bong bóng bất động sản.
  • Cho vay bất động sản không an toàn: Các ngân hàng đã cho vay bất động sản không an toàn cho các khách hàng có khả năng thanh toán kém.
  • Chính sách tiền tệ nới lỏng: FED đã sử dụng chính sách tiền tệ nới lỏng trong những năm 2000 để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, chính sách này đã góp phần làm tăng bong bóng bất động sản.

Những Thuyết Âm Mưu Xoay Quanh Cục Dự Trữ Liên Bang Mỹ FED

Thuyết âm mưu lớn nhất liên quan đến FED chính là việc đứng sau FED là một trong những gia tộc có sức ảnh hưởng nhất thế giới tài chính là gia tộc Rothschilds. Tất cả những người tham gia vào 7 ngày đêm tại đảo Jekyll ngoài khơi bang Georgia đều liên quan ít nhiều tới gia tộc nổi tiếng này.

Nelson Aldrich và gia tộc Rothschilds

Những bằng chứng về mối liên hệ giữa Nelson Aldrich và gia tộc Rothschild như:

  • Aldrich là một người ủng hộ mạnh mẽ cho các chính sách kinh tế có lợi cho các doanh nghiệp lớn, bao gồm cả các ngân hàng. Gia tộc Rothschild là một gia đình ngân hàng giàu có và quyền lực, và họ có lợi ích trong việc thúc đẩy các chính sách kinh tế này.
  • Aldrich đã kết hôn với Abby Aldrich Rockefeller, con gái của John D. Rockefeller, một trong những người giàu nhất thế giới. Rockefeller cũng là một người ủng hộ mạnh mẽ cho các chính sách kinh tế có lợi cho các doanh nghiệp lớn, và ông cũng có mối quan hệ mật thiết với gia tộc Rothschild.
  • Aldrich là một thành viên của Hội Tam Điểm, một tổ chức bí mật mà gia tộc Rothschild được cho là có ảnh hưởng lớn.

Tuy nhiên cũng có những tranh cãi về mối liên hệ giữa Nelson Aldrich và gia tộc Rothschild như:

  • Những người tin vào thuyết âm mưu cho rằng Aldrich là một tay sai của gia tộc Rothschild, và rằng ông đã sử dụng vị trí của mình trong chính phủ để thúc đẩy lợi ích của gia đình này.
  • Những người khác cho rằng mối quan hệ giữa Aldrich và gia tộc Rothschild là hợp pháp và không có gì đáng lo ngại.

Mối quan hệ giữa tập đoàn Rockefeller và gia tộc Rothschilds

Có bằng chứng cho thấy Rockefeller và gia tộc Rothschild có mối quan hệ kinh doanh và tài chính chặt chẽ. Ví dụ, Rockefeller đã đầu tư vào các công ty do Rothschild kiểm soát, và gia tộc Rothschild đã cung cấp tài chính cho các dự án kinh doanh của Rockefeller. Rockefeller đã đầu tư vào một số công ty do Rothschild kiểm soát, bao gồm:

  • Standard Oil of New Jersey, một công ty con của Standard Oil, đã vay tiền từ Rothschilds vào năm 1897 để mua cổ phần của công ty đối thủ.
  • National City Bank of New York, một ngân hàng do Rockefeller thành lập, đã có mối quan hệ kinh doanh chặt chẽ với Rothschilds trong nhiều năm.
  • International Mercantile Marine Company, một công ty vận tải do Rockefeller thành lập, đã nhận được khoản tài trợ từ Rothschilds vào năm 1902.

Gia tộc Rothschild đã cung cấp tài chính cho một số dự án kinh doanh của Rockefeller, bao gồm:

  • Tuyến đường sắt xuyên lục địa, một dự án mà Rockefeller đã đầu tư vào vào cuối thế kỷ 19.
  • Tuyến đường sắt xuyên lục địa Canada, một dự án mà Rockefeller đã đầu tư vào vào đầu thế kỷ 20.
  • Standard Oil of California, một công ty con của Standard Oil, đã được tài trợ bởi Rothschilds vào năm 1902.

Dưới đây là một số bằng chứng cụ thể về mối quan hệ kinh doanh và tài chính giữa Rockefeller và gia tộc Rothschild:

  • Vào năm 1897, Standard Oil of New Jersey đã vay tiền từ Rothschilds để mua cổ phần của công ty đối thủ. Khoản vay này trị giá 10 triệu đô la, và nó đã giúp Standard Oil trở thành công ty dầu mỏ lớn nhất thế giới.
  • Vào năm 1902, International Mercantile Marine Company đã nhận được khoản tài trợ từ Rothschilds. Khoản tài trợ này trị giá 100 triệu đô la, và nó đã giúp International Mercantile Marine trở thành công ty vận tải lớn nhất thế giới.
  • Vào năm 1904, Rockefeller đã đầu tư 1 triệu đô la vào một công ty do Rothschilds kiểm soát. Công ty này là một công ty khai thác mỏ vàng ở Nam Phi.
  • Vào năm 1906, Rockefeller đã thành lập một công ty mới, tên là Standard Oil of California. Công ty này đã được tài trợ bởi Rothschilds.

Không rõ mức độ ảnh hưởng của gia tộc Rothschild đối với Rockefeller. Một số người tin rằng gia tộc Rothschild đã kiểm soát Rockefeller, trong khi những người khác tin rằng mối quan hệ này chỉ mang tính chất kinh doanh.

Mối quan hệ giữa JP Morgan và gia tộc Rothschilds

JP Morgan và gia tộc Rothschild có mối quan hệ kinh doanh và tài chính chặt chẽ. Hai gia đình này đã hợp tác trong nhiều dự án quan trọng, bao gồm:

  • Vào năm 1895, Morgan và Rothschilds đã hợp tác để cứu Ngân hàng Quốc gia Hoa Kỳ khỏi phá sản. Morgan đã cung cấp cho ngân hàng này khoản vay 3,5 triệu đô la, trong khi Rothschilds đã cung cấp cho ngân hàng này khoản vay 1 triệu đô la.
  • Vào năm 1907, Morgan và Rothschilds đã hợp tác để giải quyết cuộc khủng hoảng tài chính năm 1907. Hai gia đình này đã cung cấp cho các ngân hàng đang gặp khó khăn khoản vay trị giá hàng triệu đô la.
  • Morgan và Rothschilds đã đầu tư vào nhiều công ty và dự án chung, bao gồm đường sắt, vận tải và khai thác mỏ. Ví dụ, Morgan và Rothschilds đều đầu tư vào Standard Oil, công ty dầu mỏ lớn nhất thế giới vào thời điểm đó.

JP Morgan cũng có mối quan hệ cá nhân với gia tộc Rothschild. Ông là bạn thân của Nathan Mayer Rothschild, Jr., một thành viên của gia tộc Rothschild.

Rõ ràng, thuyết âm mưu về Gia tộc Rothschilds đứng sau FED là hoàn toàn có cơ sở khi mà trước đó gia tộc này cũng đã có nhiều mối quan hệ với Ngân hàng trung ương Anh và Đức như:

  • Vào năm 1819, Nathan Mayer Rothschild, Jr., một thành viên của gia tộc Rothschild, đã được bổ nhiệm làm cố vấn tài chính của Ngân hàng Anh. Ông đã giữ vị trí này cho đến khi qua đời vào năm 1879.
  • Năm 1901, Walter Rothschild, một thành viên khác của gia tộc Rothschild, được bổ nhiệm làm thành viên hội đồng quản trị của Ngân hàng Anh. Ông đã giữ vị trí này cho đến năm 1923.
  • Vào năm 1820, Nathan Mayer Rothschild, Sr., một thành viên của gia tộc Rothschild, đã được bổ nhiệm làm cố vấn tài chính của Ngân hàng Đức. Ông đã giữ vị trí này cho đến khi qua đời vào năm 1836.
  • Năm 1901, Lionel Nathan Rothschild, một thành viên khác của gia tộc Rothschild, được bổ nhiệm làm thành viên hội đồng quản trị của Ngân hàng Đức. Ông đã giữ vị trí này cho đến năm 1914.

Và tại sao Nelson Aldrich lại lấy mô hình hoạt động của Ngân hàng trung ương Anh và Đức sau đó là đổi tên cho phù hợp.

Một Số Những Quan Điểm Của FED về Bitcoin & Crypto

Từ năm 2009 đến năm 2021

Trong những năm đầu tiên của Bitcoin, FED chủ yếu giữ thái độ im lặng về tiền điện tử. Tuy nhiên, vào năm 2013, Chủ tịch FED khi đó là Ben Bernanke đã phát biểu rằng Bitcoin là "một tài sản thú vị" nhưng có "rủi ro đáng kể".

Cụ thể, ông Bernanke đã nói rằng Bitcoin có tiềm năng cung cấp một số lợi ích, chẳng hạn như khả năng thanh toán xuyên biên giới nhanh chóng và an toàn. Tuy nhiên, ông cũng cảnh báo rằng Bitcoin có một số rủi ro, chẳng hạn như biến động giá cao và khả năng bị lạm dụng cho các hoạt động bất hợp pháp.

Năm 2017, FED bắt đầu thể hiện sự quan tâm nhiều hơn đến tiền điện tử khi giá Bitcoin tăng vọt. Chủ tịch FED khi đó là Janet Yellen đã cảnh báo rằng Bitcoin là một "công cụ đầu cơ" và có thể gây ra rủi ro cho hệ thống tài chính.

Cụ thể, bà Yellen đã nói rằng Bitcoin không phải là một loại tiền tệ thực sự và không được hỗ trợ bởi bất kỳ tài sản nào. Bà cũng cảnh báo rằng Bitcoin có thể gây ra rủi ro cho các nhà đầu tư, chẳng hạn như mất tiền và khả năng bị lừa đảo.

Năm 2022

Vào năm 2022, FED tiếp tục bày tỏ lo ngại về tiền điện tử. Chủ tịch FED hiện tại là Jerome Powell đã nói rằng Bitcoin là một "tài sản rủi ro cao" và có thể gây ra rủi ro cho người tiêu dùng.

Cụ thể, ông Powell đã nói rằng Bitcoin có thể biến động mạnh và có thể bị sử dụng cho các hoạt động bất hợp pháp. Ông cũng cảnh báo rằng các nhà đầu tư nên hiểu rõ về rủi ro trước khi đầu tư vào Bitcoin.

Năm 2023

Vào năm 2023, FED đã đưa ra một số quy định mới đối với tiền điện tử. Các quy định này nhằm mục đích bảo vệ người tiêu dùng và ngăn chặn các hoạt động bất hợp pháp liên quan đến tiền điện tử.

Cụ thể, FED đã ban hành một quy định yêu cầu các sàn giao dịch tiền điện tử phải đăng ký với FED. FED cũng đã ban hành một quy định yêu cầu các tổ chức tài chính phải tuân thủ các biện pháp phòng chống rửa tiền khi giao dịch tiền điện tử.

FED vẫn chưa có quan điểm rõ ràng về Bitcoin & Crypto. Tuy nhiên, FED đã bày tỏ lo ngại về rủi ro của tiền điện tử và đã đưa ra một số quy định mới đối với tiền điện tử. Các tuyên bố và quy định của FED có thể tác động đến thị trường Bitcoin & Crypto theo một số cách.

Tổng Kết

FED là một tổ chức quan trọng trong nền kinh tế Hoa Kỳ. Nó chịu trách nhiệm kiểm soát tiền tệ và hệ thống tài chính của Hoa Kỳ, và nó đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy ổn định tài chính. Mong rằng qua bài viết này mọi người có thể hiểu thêm được FED là gì?

Chủ Đề