Đánh giá hoạt tính sinh học là gì

Hoạt chất sinh học là một loại hóa chất được tìm thấy một lượng nhỏ trong thực vật và một số loại thực phẩm. Lợi ích của hoạt chất là có thể thúc đẩy sức khỏe tốt.

Bạn đang xem: Hoạt tính sinh học là gì

Hoạt chất sinh học là gì? Các hợp chất hoạt tính sinh học là các thành phần ngoại dinh dưỡng thường xuất hiện với số lượng nhỏ trong thực phẩm. Chúng đang được các nhà nghiên cứu chuyên sâu xem xét để đánh giá tác động đối với sức khỏe. Kết quả của nhiều nghiên cứu dịch tễ học cho thấy, tác dụng bảo vệ của chế độ ăn dựa trên thực vật về bệnh tim mạch [CVD] và ung thư chính là tiền đề thúc đẩy cho các nghiên cứu về tính hữu dụng của các hoạt chất sinh học đối với sức khỏe.

Trong các từ điển y học, chất hoạt tính sinh học được định nghĩa là chất gây ra phản ứng trong mô sống. Một hợp chất có hoạt tính sinh học, có ảnh hưởng trực tiếp đến cơ thể sống. Những tác dụng này có thể tích cực hoặc tiêu cực tùy thuộc vào chất, liều lượng hoặc sinh khả dụng. Những hợp chất này có hiệu ứng trên diện rộng, bắt đầu với việc duy trì tốt sức khỏe thậm chí có tác dụng hồi phục, hoặc nguy hiểm thậm chí gây tử vong. Liều lượng tiêu thụ của các hợp chất hoạt tính sinh học thường quyết định xem tác dụng tích cực hay bất lợi.

Nhiều hợp chất hoạt tính sinh học đã được phát hiện trong những thực phẩm mà chúng ta tiêu thụ như: ngũ cốc, các loại đậu, quả hạch, dầu ô liu, rau, trái cây, trà và rượu vang đỏ và các hợp chất phenolic có trong các loại thực phẩm này có đặc tính chống oxy hóa. Một số nghiên cứu đã chứng minh tác dụng bảo vệ khỏi sự hình thành huyết khối và sự hình thành khối u.

Các phytoestrogen khác nhau có trong đậu nành, dầu hạt lanh, ngũ cốc nguyên hạt, trái cây và rau có đặc tính chống oxy hóa và tác dụng thuận lợi đối với các yếu tố nguy cơ CVD khác và trong các mô hình nuôi cấy tế bào và động vật gây ung thư.

Xem thêm: Hay Chảy Nước Mắt Là Bệnh Gì ? Chảy Nước Mắt Sống: Triệu Chứng Và Cách Khắc Phục

Hydroxytyrosol là một trong nhiều phenol có trong ô liu. Đây là một chất chống oxy hóa mạnh. Resveratrol được tìm thấy trong các loại hạt và rượu vang đỏ, có đặc tính chống oxy hóa, chống huyết khối, chống viêm và ức chế chất sinh ung thư. Lycopene, một chất carotenoid chống oxy hóa mạnh trong cà chua và các loại trái cây khác được cho là có tác dụng bảo vệ chống lại tuyến tiền liệt và các bệnh ung thư khác, đồng thời ức chế sự phát triển của tế bào khối u ở động vật.

Các hợp chất organosulfur trong tỏi và hành, isothiocyanates trong các loại rau họ cải và monoterpenes trong trái cây họ cam quýt, anh đào, thảo mộc có tác dụng chống ung thư trong các mô hình thử nghiệm cũng như tác dụng bảo vệ tim mạch.

Rất nhiều hợp chất hoạt tính sinh học dường như có tác dụng có lợi cho sức khỏe. Tuy nhiên, vẫn cần nhiều nghiên cứu khoa học hơn nữa để chúng ta có đủ bằng chứng để có thể bắt đầu đưa ra các khuyến nghị về chế độ ăn uống dựa trên cơ sở khoa học. Mặc dù vậy, xây dựng một chế độ ăn uống nhiều loại trái cây, rau, ngũ cốc nguyên hạt, các loại đậu, dầu và loại hạt luôn luôn vẫn được đánh giá cao để duy trì một sức khỏe tốt.

Vì thế, để có một sức khỏe tốt và hạn chế nguy cơ mắc các bệnh thường gặp, chúng ta cần nên cho mình một chế độ dinh dưỡng, tập luyện phù hợp. Nếu cần thiết có thể tham khảo ý kiến bác sĩ để có những lời khuyên thiết thực nhất.

22/08/2021

Đậu cô ve [Phaseolus vulgaris L.] là loại đậu phổ biến được trồng và tiêu thụ rộng rãi trên khắp thế giới. Trong thành phần hóa học, đậu cô ve rất giàu polysaccharide, protein, lipid và các chất chuyển hóa thứ cấp khác. Các dạng polysaccharide từ P. vulgaris đã được nghiên cứu và chứng minh là có hoạt tính sinh học cao như: tinh bột trong đậu cô ve là chất chống oxy hóa và tăng cường miễn dịch; chất xơ đã được chứng minh về khả năng cải thiện sức khỏe con người, giảm cholesterol, điều chỉnh mức đường huyết và ngăn ngừa táo bón.

Đánh giá được tiềm năng thu nhận polysaccharide từ đậu cô ve, Viện Y sinh nhiệt đới đã sàng lọc và nghiên cứu phương pháp chiết tách polysaccharide tối ưu nhất. Hiệu suất của quy trình chiết tách polysaccharide từ đậu phụ thuộc vào nhiều yếu tố như loại đậu, bộ phận chiết tách, điều kiện nhiệt độ, pH, thời gian và dung môi chiết tách. Quy trình chiết tách là phá hủy và làm suy giảm thành tế bào trong điều kiện nhẹ để các tính chất của polysaccharide không thay đổi.

Qua nghiên cứu thử nghiệm, chúng tôi xác định phương pháp chiết tách polysaccharide từ đậu cove là phương pháp chiết nóng hồi lưu với dung môi là NaOH. Nhiệt độ chiết tách, thời gian gia nhiệt, tỷ lệ nguyên liệu- dung môi và thành phần dung môi được tối ưu hóa bằng cách sử dụng đồ thị bề mặt 3D. Phương pháp trên được tiến hành tương tự nhằm xác định các điều kiện tối ưu để tinh sạch polysaccharide từ chế phẩm bán tinh sạch. Hoạt tính sinh học của polysaccharide được tiến hành đánh giá qua các thử nghiệm ức chế tế bào ung thư và enzym hạ đường huyết α-amylase. Các dữ liệu được tổng hợp xử lý, so sánh và phân tích thống kê để tìm kiếm mối tương quan giữa điều kiện chiết tách, chế phẩm và hoạt tính, từ đó đưa ra điều kiện chiết tách polysaccharide tối ưu nhất.

Biểu đồ bề mặt [3D] thể hiện sự ảnh hưởng của nhiệt độ, nồng độ NaOH [a] và etanol [b], trên tổng hàm lượng polysaccharides

Kết quả nghiên cứu đã chiết tách được 50gr polysaccharide với độ tinh sạch >90%. Đồng thời xác định được các điều kiện tối ưu cho quy trình chiết tách polysaccharide từ đậu cove và tinh sạch polysaccharide từ sản phẩm bán tinh sạch, cụ thể: dung môi chiết là NaOH 10% với tỷ lệ nguyên liệu-dung môi 1:20 [w/v], nhiệt độ chiết tách là 70oC trong 2 giờ, tỉ lệ dung dịch Sevag và dịch chiết là 1:1. Sản phẩm polysaccharide thu được từ quy trình trên thể hiện hoạt tính sinh học cao [DPPH  [IC50, µg/ml]: 36,3 ± 1,3; Hydroxyl [IC50, µg/ml] : 23,31 ± 0,6; Superoxide [IC50, µg/ml]: 30,9 ± 1,1; α-amylase [IC50, µg/ml]: 125,3 ± 3,1]. Phương pháp này có thể được sử dụng ở quy mô lớn hơn để chiết tách polysaccharide từ đậu làm nguyên liệu ứng dụng trong ngành công nghiệp thực phẩm hoặc dược phẩm.

Biểu đồ thể hiện sự tương quan giữa điều kiện chiết tách và hoạt tính sinh học của sản phẩm polysaccharides

Nguồn tài liệu: //dx.doi.org/10.19261/cjm.2020.795

Bài và ảnh: ThS. Nguyễn Thị Thu Thủy/ Viện YSNĐ

Chủ Đề