1.
Năm 1861, đối với công cuộc giữ nước
của nhân dân miền Nam
những ngày đầu người Pháp chính thức đổ bộ, mang một ý nghĩa lịch sử quan
trọng. Đó là năm đại đồn Kỳ Hòa - chiến tuyến vững chắc kiên cường nhất của
triều đình Huế ở Nam Kỳ bị quân xâm lược chọc thủng sau hai năm xây dựng và ra
sức chiến đấu. Thất bại quân sự to lớn vào đầu năm 1861 (tháng 2/1861) này có ý
nghĩa đánh dấu giai đoạn chuyển hướng của triều đình từ chiến lược quyết đánh
sang sách lược kết hợp vừa thương thuyết vừa đánh du kích cầm chừng, cũng chính
là thời điểm bắt đầu nảy sinh hai luồng tư tưởng đối nghịch chủ hòa - chủ chiến.
Cũng từ đây, cuộc kháng chiến chống xâm lăng trở nên một tính cách thực sự
nhân dân (1). Bốn tháng sau khi Kỳ Hòa thất thủ, Trương Định tổ chức cuộc tập
kích Gò Công, khiến cho người Pháp không thể không thấy sự thật hiển nhiên:
một ý thức độc lập quốc gia vẫn tồn tại trong dân chúng Annam (2). Trận tấn công đồn Cần
Giuộc của các nghĩa sĩ vào những ngày cuối năm 1861 (ngày rằm tháng Một Tân Dậu)
chính là tiếp nối tính cách nhân dân của cuộc kháng chiến. Cũng giống như
trận Gò Công, ở trận Cần Giuộc, nghĩa binh sau khi uy hiếp tinh thần quân giặc
đã chịu tổn thất không nhỏ và phải lui quân. Trận Cần Giuộc không phải là trận
chiến đấu chống xâm lược Pháp đầu tiên, cũng không phải là chiến công đáng kể
nhất trong ngày đầu đánh giặc song bài văn tế lại là tác phẩm văn học Nôm sớm
nhất ghi giữ được chân dung người nghĩa binh chân đất hy sinh oanh liệt cho đất
nước. Như vậy, hoàn cảnh sáng tác của bài văn tế rất có ý nghĩa đối với việc
tìm hiểu giá trị thời sự - hiện thực của văn chương Nguyễn Đình Chiểu cũng như đối
với việc đánh giá thực chất tinh thần kháng chiến của triều đình Nguyễn, tránh
lối nói chung chung một chiều từng tồn tại trong nhiều năm như triều đình hèn
nhát đầu hàng giặc, triều đình bạc nhược, phản động dâng đất cho giặc
2.
Chân dung người nghĩa binh nhân dân
gây ấn tượng sâu sắc cho người đọc người nghe ngay từ câu mở đầu của bài văn: Hỡi ôi! Súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ.
Câu văn tứ tự mang ý nghĩa khái quát cả bối cảnh thời đại và chân dung tinh
thần của người nghĩa binh Cần Giuộc. Chỉ với hai vế câu ngắn gọn mà cô đúc đặt
trong thế đối ngẫu súng giặc lòng dân, tác giả đã định hướng cho
chúng ta tâm điểm của hình tượng chính. Toàn bộ kết cấu, ngôn từ của bài văn tế
đều tập trung thể hiện cái tâm điểm lòng dân đó trong hoàn cảnh thử thách ác
nghiệt nhất giặc đến nhà. Chữ nghĩa của cụ Đồ Chiểu giản dị nôm na mà cực kỳ
sâu sắc: đối chọi với kẻ ngoại xâm hùng mạnh vũ khí áp đảo lấn lướt, người dân
Việt lúc đó chỉ có một tấc lòng yêu nước thấu trời. Đối với bài học chiến tranh
giữ nước, phải chăng tư tưởng này không chỉ đơn thuần là tụng ca mà còn bao hàm
cả bi ca và những ý tứ sâu xa muốn phân tích tranh luận? Vận dụng lối đối ngẫu quen
thuộc của thể phú Đường luật cũng như tuân thủ thi pháp truyền thống trong một
mệnh đề chắc nịch súc tích vừa mang giá trị tượng trưng cao lại vừa đậm hơi thở
hiện thực, cụ Đồ Chiểu đã phác họa thật sắc nét chân dung bi hùng một thời đại
đau thương của dân tộc. Bài văn tế gồm 29 câu (có bản chép 30 câu) theo lối độc
vận, theo bố cục thông thường, có thể được chia làm bốn phần Lung khởi Thích
thực Ai vãn Kết. Nhưng thực tế, hai phần Thích thực và Ai vãn ở đây không
có ranh giới rõ rệt lắm, những hồi tưởng về công đức và chân dung các nghĩa sĩ cứ
triền miên trăn trở từ câu thứ ba Nhớ
linh xưa cho đến tận những câu Kết. Lời khóc thương cùng nhân vật phông
nền (dân chúng, đất trời, mẹ già, vợ yếu) đan xen vào giữa có giá trị tôn tác
ngời sáng tâm điểm lòng dân. Trong những hình ảnh đầu tiên về người nghĩa
binh nhân dân, cái làm xúc động lòng người trước hết chính là cái Thật. Cụ Đồ
Chiểu đã kể rất thật về nguồn gốc, lai lịch, thân phận của những người tham
gia trận công đồn cuối năm 1861 đó:
Nhớ linh xưa: Cui cút làm ăn, toan lo nghèo
khó
Chẳng quen cung ngựa đâu tới trường
nhung, chỉ biết ruộng trâu ở theo làng bộ
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc
cấy, tay vốn quen làm; tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó
Ba
câu văn với hai hình dung từ mở đầu (cui
cút, nghèo khó) và phép liệt kê kể việc rất giản dị (ruộng trâu, làng bộ, cuốc, cày, bừa, cấy) giới thiệu khá tường tận
về những thân phận nông dân lam lũ, lạc hậu đến mức tội nghiệp. Cảm giác tội
nghiệp cũng là một cảm giác thật, nó không phải chỉ được gợi nên bởi dáng điệu
cui cút (rõ hơn vẻ âm thầm, nhỏ bé
so với bản phiên âm là côi cút) mà
còn bởi tác giả hơn một lần cố ý nhấn mạnh cái thân phận hèn mọn nghèo khó của
các nghĩa binh: Khá thương thay! Nào
phải thiệt quân cơ quân vệ, theo dòng ở lính diễn binh; chẳng qua là dân ấp dân
lân, chịu tiếng làm quân chiêu mộ. Theo nhà nghiên cứu Trần Văn Giàu (3),
dân làng Nam Bộ xưa chia làm hai loại là dân đinh và dân lân; dân lân là những
người không có tài sản (ruộng đất nhà cửa), không đóng thuế đinh (có lẽ giống
như dân ngụ cư ở Bắc Bộ?), có nghĩa vụ phục dịch như canh gác cổng làng, khiêng
kiệu võng cáng cho nha lại hương lý hoặc thậm chí lo đập bờ bụi để ếch nhái
khỏi kêu cho các quan ngủ ngon, nếu không chịu phục dịch sẽ bị xử đày vì tội vô
gia cư không nghề nghiệp, dân lân thì không bao giờ được làm hương chức dù là
hương chức bé, cũng như không thể được lên lão ngồi chiếu trên cho dù có
thọ đến trăm tuổi. Hiểu khái niệm dân lân như vậy mới thấm thía hơn địa vị thấp
kém tội nghiệp của người nghĩa binh. Họ không phải lính chính quy trong biên
chế cơ - vệ của triều đình đã đành, hơn nữa toàn bộ gia sản của họ chỉ có
tấm lưng trần với một manh áo vải
và bàn tay trắng cùng một ngọn tầm vông.
Ngay từ lúc nhấn mạnh lai lịch xuất xứ con số không của những nghĩa binh Cần
Giuộc, cụ Đồ Chiểu đã ngầm ý luận giải về nghịch lý vĩ đại nơi lòng dân.
Những con người vô sản tưởng không có gì để mất lại là con người có nhiều
nhất ý thức sâu sắc về giá trị tự do độc lập của xứ sở. Họ vừa mang tâm lý thụ
động, phục tùng của tầng lớp bị trị vốn quen trông vào bề trên dẫn dắt (sản
phẩm hoàn hảo của thể chế xã hội Nho giáo quân chủ - gia trưởng) lại vừa tiềm tàng một khối tâm tư yêu quê
hương ghét giặc cướp cực kỳ chủ động mãnh liệt tự nhiên:
Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng,
trông tin quan như trời hạn trông mưa; mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét
thói mọi như nhà nông ghét cỏ.
Bữa thấy bong bong che trắng lốp,
muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.
Đúng là tâm lý yêu
ghét rất thật của người nông dân vốn quen với mưa nắng ruộng vườn, là phản ứng căm
giận rất đỗi tự nhiên vốn xuất phát từ tính cách ngay thẳng bộc trực của dân
chúng Lục tỉnh trước một kẻ thù xa lạ nghịch mắt bỗng dưng từ đâu ập đến nổ
súng cướp đất chiếm nhà. Người dân ấp dân lân đó hoàn toàn tự nguyện khi xác
định trách nhiệm của chính bản thân mình với xứ sở:
Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu; hai
vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó
Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình;
chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.
Điển
dẫn từ sách vở Nho gia (mối xa thư, chém
rắn đuổi hươu) song ngôn từ và giọng điệu lại nôm na ngang tàng quyết liệt đích
thực là người nông dân Lục tỉnh (há để
đâu dung, nào đợi chẳng thèm lũ treo dê bán chó). Tỏ ra am hiểu tâm tư
cảm xúc của những nghĩa binh nông dân Nam Bộ, cụ Đồ Chiểu lần lượt dẫn dắt
người nghe dần khám phá thế giới tinh thần đơn sơ mà cao quý của họ, từ nỗi
lòng yêu quê hương ghét giặc cướp sâu sắc đến ý thức tự nguyện giữ nước và cuối
cùng là ý chí hy sinh đánh giặc cứu nước đến cùng. Đó là một quá trình tâm lý
tự nhiên giúp chúng ta hiểu được động lực tinh thần đã làm nên những hành động
quả cảm mãnh liệt. Trong ba câu văn kế tiếp nhau, cái chất anh hùng nghĩa liệt
đã được mô tả thật sắc bén, như khắc cốt ghi xương:
Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi cũng đốt xong
nhà dạy đạo kia; gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay cũng chém rớt đầu quan hai
nọ.
Chi nhọc quan quản gióng trống kỳ
trống giục, đạp rào lướt tới coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn
nhỏ đạn to, xô cửa xông vào liều mình chư chẳng có.
Kẻ đâm ngang người chém ngược làm
cho mã tà ma ní hồn kinh, bọn hè trước lũ ó sau trối kệ tàu thiếc tàu đồng súng
nổ.
Trong lịch sử văn
học chống ngoại xâm thời trung đại Việt Nam, đây là lần đầu tiên người dân
nghèo chân đất áo vải hiện lên như những vị anh hùng cứu nước bằng xương bằng
thịt có thật. Trước cụ Đồ Chiểu khoảng bốn trăm năm, khi Nguyễn Trãi thay mặt
Lê Lợi viết Bình Ngô đại cáo, năm
1428, nhắc đến manh lệ: Yết can vi kỳ manh lệ chi đồ tứ tập
(Dựng gậy làm cờ, dân lưu tán và nô lệ bốn phương tụ họp lại), thì lực lượng
chính của các cuộc kháng chiến giữ nước mới thực sự được nhắc tới lần đầu tiên
trong văn học, nhưng còn ở dạng khái niệm. Các tác phẩm văn tế dành cho tập thể
tướng sĩ trận vong thời trung đại Việt Nam còn lại không nhiều. Nổi tiếng
hơn cả là bài văn Nôm Tế trận vong tướng
sĩ của Nguyễn Văn Thành (năm 1802). Cũng khoảng thời điểm những năm đầu
chống Pháp xâm lăng, còn có hai bài văn tế các tướng sĩ bỏ mình sau mấy trận
đánh nhau với Pháp của Hoàng giáp Lê Khắc Cẩn được viết bằng chữ Hán theo lệnh
vua Tự Đức. Ở cả ba bài văn tế trận vong tướng sĩ đó đều không hề thấy bóng
dáng người nông dân tham gia kháng chiến. Phải đến cụ Đồ Chiểu, những kẻ manh lệ (manh có các nghĩa: dân nói chung bách tính, dân ngụ cư, dân thảo
dã không học hành; lệ có các nghĩa
chính: nô bộc, tù phạm, kẻ tạp dịch; manh
lệ là chỉ chung kẻ tiện dân lao động, địa vị thấp kém nhất) mới trở thành
một nhân vật yêu nước đánh giặc cụ thể với thân phận, cảm xúc, suy nghĩ chân
thực chứ không chỉ được nhắc tới như một khái niệm chung chung. Đoạn văn sử
dụng nghệ thuật tương phản và trùng điệp một hệ thống động từ, ngữ động từ hoạt
sắc kết hợp với lối ngắt nhịp nhanh mạnh, chỉ ba câu mà để lại ấn tượng khó
phai về một tư thế kỳ vĩ hùng tráng hiếm có của người nghĩa binh nông dân. Tác
giả triệt để khai thác tác dụng của nghệ thuật tương phản ở cả hai cấp độ: tương
phản ngoài và tương phản trong tương phản giữa ta - giặc và tương phản
trong bản thân ta (không tuyệt đối về vật chất/có vĩ đại về tinh thần). Có lẽ phải suy
ngẫm nhiều hơn về tư tưởng mà cụ Đồ Chiểu gửi gắm trong bài văn tế, đặc biệt là
ở chính hình tượng tương phản này. Một mặt không thể phủ nhận giọng điệu ca
ngợi, tự hào với hình ảnh tôn xưng tư thế anh dũng quả cảm tuyệt vời của người
nghĩa binh sẵn sàng xả thân cứu nước. Nhưng mặt khác, tất cả những hành động
đạp rào lướt tới, xô cửa xông vào, đâm ngang, chém ngược, hè trước, ó sau
trong hoàn cảnh chỉ có rơm con cúi cùng lưỡi dao phay cũng gợi cho người
nghe về một cuộc chiến đấu tự phát, thiếu thốn vũ khí binh lực, không có tổ
chức chặt chẽ hay kỷ luật đội ngũ nghiêm minh bài bản, lại mang đầy màu sắc
duy ý chí chỉ quan trọng cái tinh thần mà không thiết cốt sự thành bại. Phải
chăng ngay trong tư thế tiến công quyết liệt chấp nhận cái chết liệt oanh vì
nước đã hàm chứa một phần nguyên nhân thất bại đáng tiếc đáng thương? Nỗi ai
oán đáng thương đáng tiếc đó càng có dịp bộc lộ rõ hơn bởi tác giả đã lựa chọn
thể loại văn tế. Suốt cả bài văn luôn song hành hai cảm xúc tự hào và xa xót
đồng nghĩa với hai dáng điệu hùng tráng và đau thương, nhiều lúc dường như không
rõ cảm xúc và dáng điệu nào trội hơn. Bởi tiếp ngay sau bức tượng đài hào
hùng khí thế công đồn lại là lời ai oán mất mát: Những lăm lòng nghĩa lâu dùng; đâu biết xác phàm vội bỏ. Tinh thần
đánh giặc bất tử: Sống đánh giặc thác
cũng đánh giặc, vong hồn theo giúp cơ binh muôn kiếp nguyện trả thù kia
không lau khô nổi những dòng nước mắt tiếc thương: Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên dân; cây hương
nghĩa sĩ thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ. Phần Ai vãn không dài
lời nhưng thực sự là những tiếng khóc than thống thiết trùm khắp trời đất: Đoái sông Cần Giuộc cỏ cây mấy dặm sầu
giăng; nhìn chợ Trường Bình già trẻ hai hàng lụy nhỏ Ôi thôi thôi! Chùa Tôn Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi
lại bóng trăng rằm; đồn Lang sa một khắc đặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo
dòng nước đổ/ Đau đớn bấy mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong
lều; não nùng thay vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ. Trên
từng tấc đất quê hương, thiên nhiên và con người đều nhuốm một màu tang tóc u
ám sầu lụy. Đồn Lang sa giờ đây ngang nhiên đối mặt trước chùa Tôn Thạnh, tấm lòng son có đất
trời chứng giám song cái phận bạc nào ai biết sẽ trôi về đâu? Và nỗi đau xót
càng nhân lên khi tinh thần hi sinh oanh liệt chưa thể đuổi được giặc thù, sự
thực đang phơi bày ra đó: Binh tướng nó
hãy chật sông Bến Nghé, làm nên bốn phía mây đen; ông cha ta còn ở đất Đồng
Nai, ai cứu một phương con đỏ. Cụ Đồ Chiểu viết nhiều văn tế và thơ điếu
nghĩa dân trận vong, thậm chí các bài thơ Đường luật vịnh sử vịnh vật của Cụ
cũng thấm đẫm giọng điệu tế, điếu; song phải công nhận, khó có câu thương
khóc nào bi lụy cho bằng những câu Ai vãn ở bài văn tế này. Bài Tế Lục tỉnh sĩ dân trận vong văn được
viết khoảng 1883, những năm kháng chiến thoái trào ở Nam Bộ (khởi nghĩa Cần
Vương dịch chuyển trung tâm ra Trung và Bắc Bộ) tràn ngập những tiếng tình oan, hơi oán, hồn oan, quỷ ức
cũng không khắc họa được hình ảnh nào cụ thể mà giàu tượng trưng cho bằng hình
ảnh mẹ già khóc trẻ vợ yếu tìm chồng trong cơn bóng xế dật dờ cùng ngọn đèn khuya leo lét. Kết cấu đối
ngẫu với lối đối cân (đối cả tiếng và nghĩa) giữa hình ảnh con người và không
gian thời gian (cùng một thuộc tính tàn, yếu, nhỏ nhoi, thoi thóp), giữa hai
nạn dân đáng thương mẹ già vợ yếu (cùng một tình cảnh bị tiêu hủy tương lai
và trụ cột) tạo cho lời Ai vãn một cảm giác tuyệt vọng bốn bề không lối thoát.
3.
Tế Cần Giuộc sĩ dân trận vong văn là tên gọi khác của bài văn tế. Cách nói tôn xưng sĩ dân (người dân có học) thể hiện tấm
lòng trân trọng đặc biệt dành cho những kẻ dân
lân, manh lệ, biên manh yêu nước (Tủi
phận biên manh, căm loài dương tặc -
Tế Lục tỉnh sĩ dân trận vong văn). Có thể nói, Nguyễn Đình Chiểu là bậc đại
gia của thể loại văn tế thơ điếu nửa cuối thế kỷ XIX. Trong chùm văn tế thơ
điếu để đời của ông (ba bài văn tế nghĩa sĩ và ba chùm thơ điếu liên hoàn
chùm 12 bài, chùm 10 bài và chùm 2 bài - dành cho ba nhân vật Trương Định, Phan
Tòng, Phan Thanh Giản) thì Tế Cần Giuộc
sĩ dân trận vong văn nổi bật hơn cả, đặc biệt là về kết cấu và ý nghĩa tư
tưởng. So với hai bài văn tế viết sau Điếu
Trương tướng quân văn (1864) và Tế
Lục tỉnh sĩ dân trận vong văn (1883), kết cấu và câu văn của Tế Cần Giuộc sĩ dân trận vong văn vừa
ngắn gọn, mạch lạc lại vừa độc đáo. Cái mạch lạc của Tế Cần Giuộc sĩ dân trận vong văn nằm ngay trong lối kết cấu đan
xen độc đáo giữa hai phần Thích thực và Ai vãn, thậm chí lối kết cấu đan xen
còn phát huy thế mạnh cả ở phần Thích thực. Sự đan xen các hình ảnh về thân
phận/ lai lịch và tinh thần/ tấm lòng của người nghĩa binh chân đất, suốt từ
câu 3 cho đến câu 22, được trình hiện theo thứ tự thân phận tấm lòng lai
lịch tinh thần trùng điệp tới ba lần, vừa khắc họa sâu sắc hơn tư tưởng ngợi
ca lòng dân vĩ đại vừa bộc lộ thấm thía hơn tình cảm trìu mến yêu thương mà
tác giả dành cho các nghĩa sĩ tử vì nước. Nét riêng biệt của Tế Cần Giuộc sĩ dân trận vong văn còn
nằm ở ý nghĩa tư tưởng có phần khác lạ so với hai bài văn tế sau đó. Cái khác
lạ là ở chỗ có vẻ như mâu thuẫn trong tư tưởng, phần chìm của tảng băng trôi
mà không phải cách đọc nào cũng dễ dàng chấp nhận. Cùng cảm hứng chủ đạo về
lòng dân nạn nước, hai bài văn tế sau thể hiện sự tách bạch khá rạch ròi
giữa Vua và Nước, nổi trội nỗi niềm oán trách vắng chúa, trông vua nỗi niềm
hờn oán của nạn dân vì lo nước nhà, bờ cõi mà chịu tiếng nghịch đảng. Trong
hình tượng người nghĩa binh Cần Giuộc không có sự tách bạch như thế, vô tư xả
thân cứu nước song sự hi sinh của họ đã mang lại hiệu quả gì ngoài nỗi mất mát lớn
lao của mẹ già vợ yếu? Dù vậy, họ vẫn được an ủi bởi danh thơm, tiếng hay
chữ ấm đền công, bởi lý tưởng thiên dân vương thổ, bởi tinh thần đánh giặc
không bao giờ chết. Lý tưởng trung vua cùng khí thế tiến công cả sau khi thác
là tư tưởng chịu ảnh hưởng rõ rệt của phong trào chiến tranh nhân dân lúc đó đang
có sự hậu thuẫn từ phía triều đình và đang lan rộng mạnh mẽ với những đội quân
của Phủ Cao, Phủ Thiên Hộ Dương, Quản Tư, Quản Tuân, Quản Định khắp Lục tỉnh. Mặt
khác, cuộc chiến đấu không cân sức giữa những người chân đất áo vải rơm con cúi
lưỡi dao phay với súng nổ tàu thiếc tàu đồng còn gợi nên những suy tư gì nữa
ngoài cảm xúc ngưỡng mộ tiếc thương? Hiểu thêm phần chìm đó của tảng băng
trôi, chắc hậu thế sẽ cảm thông nhiều hơn với Đồ Chiểu, trân trọng hơn nỗi
lòng yêu nước không giản đơn của nhà văn nhân dân đáng kính này./.
Chú thích
(1) và (2) Philippe Devillers, Người Pháp và người Annam, bạn hay
thù? NXB Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2006, tr.113, 115
(3) Trần Văn Giàu, Sự khủng hoảng của chế độ phong kiến nhà Nguyễn trước 1858, Sơ khảo
NXB Văn hóa, Hà Nội, 1958, tr.25 28
.................................
(*) Trần Hoa Lê: TS. Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.