Di tích lịch sử, văn hóa là gì


Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ DI TÍCH LỊCH SỬ-VĂN HÓA,

DANH LAM THẮNG CẢNH

1.1. Khái niệm di tích

Trước khi tìm hiểu khái niệm di tích, phải hiểu về di sản văn hóa. Theo

quy định của Luật di sản văn hóa được Quốc hội Nước Cộng hòa Xã hội Chủ

nghĩa Việt Nam, khóa X, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29/6/2001, Luật sửa

đổi, bổ sung một số điều của Luật di sản văn hóa năm 2009 thì di sản văn hóa

bao gồm di sản văn hóa phi vật thể và di sản văn hóa vật thể, là sản phẩm tinh

thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ

này qua thế hệ khác ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 28, tr 32.

Trong khái niệm này, thì di sản văn hóa bao gồm di sản văn hóa phi vật

thể và di sản văn hóa vật thể. Di sản văn hóa vật thể là sản phẩm tinh thần gắn

với cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan; có giá

trị lịch sử, văn hóa, khoa học; thể hiện bản sắc của cộng đồng; không ngừng

được tái tạo và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền

miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình thức khác. Di sản văn hóa vật thể

là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, bao gồm di tích lịch

sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.

Như vậy, di tích lịch sử - văn hóa [gọi chung là di tích] là một bộ phận

của di sản văn hóa vật thể. Từ những khái niệm trên, ta có khái niệm di tích là

công trình xây dựng, địa điểm và các di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc

công trình, địa điểm đó có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học 28, tr 33.

Trong đó, di vật được hiểu là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị lịch sử,

văn hóa, khoa học; cổ vật được hiểu là hiện vật được lưu truyền lại, có giá

trị tiêu biểu về lịch sử, văn hóa, khoa học và có từ 100 năm tuổi trở nên; bảo

vật quốc gia được hiểu là hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị đặc biệt quý

hiếm về các mặt lịch sử, văn hóa, khoa học 28, tr 33-34.

Theo quan niệm truyền thống, di tích lịch sử - văn hóa gồm các bộ phận

cấu thành sau đây:

6



Một là, các công trình kiến trúc, địa điểm có liên quan tới các sự kiện

lịch sử hoặc nhân vật lịch sử, danh nhân văn hóa.

Hai là, những đồ vật trong nội thất các công trình kiến trúc [vật dụng cá

nhân, đồ tế tự trong các thiết chế văn hóa, tín ngưỡng...]

Ba là, môi trường cảnh quan thiên nhiên xem kẽ hoặc bao quanh di

tích.

Bốn là, những giá trị di sản văn hóa phi vật thể gắn với các công trình

địa điểm đó.

Theo quan niệm hiện đại, khái niệm di tích được mở rộng 28, tr46-48:

Một quần thể kiến trúc hoàn chỉnh gồm nhiều công trình kiến trúc gắn

bó với nhau vào một cơ cấu thống nhất.

+ Trung tâm lịch sử của một đô thị cổ.

+ Khu phố cổ gồm nhiều đường phố khác nhau.

+ Di sản kiến trúc đô thị:

. Ý tưởng quy hoạch gắn kiến trúc với môi trường tự nhiên

. Cơ cấu đô thị

. Diện mạo kiến trúc đô thị

. Lối sống, nếp sống văn minh đô thị

+ Bộ phận di sản văn hóa phi vật thể gắn với di tích lịch sử - văn hóa

Danh lam thắng cảnh là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có sự kết

hợp giữa cảnh quan thiên nhiên và công trình kiến trúc có giá trị lịch sử, thẩm

mỹ, khoa học 28, tr 33.

1.2. Phân loại di tích

Căn cứ vào đặc điểm nội dung và hình thức thì di tích lịch sử - văn hóa,

danh lam thắng cảnh được phân ra thành 4 loại: di tích lịch sử, di tích kiến

trúc nghệ thuật, di tích khảo cổ học và danh lam thắng cảnh.

1.2.1. Di tích lịch sử bao gồm những công trình, địa điểm gắn với sự

kiện lịch sử tiêu biểu trong quá trình dựng nước và giữ nước; gắn với thân thế

và sự nghiệp của anh hùng dân tộc, danh nhân đất nước, gắn với sự kiện lịch

7



sử tiêu biểu của các thời kỳ cách mạng, kháng chiến dưới sự lãnh đạo của

Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Di tích lịch sử liên

quan tới sự kiện hoặc nhân vật lịch sử có những đóng góp, ảnh hưởng tới sự

tiến bộ của lịch sử dân tộc. Đến với di tích lịch sử, khách tham quan như được

đọc cuốn sử ghi chép về những con người, những sự kiện tiêu biểu, được cảm

nhận một cách chân thực về lịch sử, những cảm nhận không dễ có được khi

chỉ đọc những tư liệu ghi chép của đời sau.

1.2.2. Di tích kiến trúc nghệ thuật bao gồm quần thể các công trình kiến

trúc hoặc công trình kiến trúc đơn lẻ có giá trị tiêu biểu về kiến trúc, nghệ

thuật của một hoặc nhiều giai đoạn lịch sử. Giá trị của di tích kiến trúc nghệ

thuật thể hiện ở quy hoạch tổng thể và bố cục kiến trúc, ở sự kết hợp hài hòa

giữa kiến trúc với cảnh quan, ở những bức chạm khắc trên kết cấu gỗ, ở vẻ

đẹp thánh thiện của những pho tượng cổ, ở nét chạm tinh xảo của những đồ

thờ tự...

1.2.3. Di tích khảo cổ học gồm những địa điểm khảo cổ có giá trị nổi

bật, đánh dấu các giai đoạn phát triển của các văn hóa khảo cổ. Việt Nam là

một trong những quốc gia có nhiều di tích khảo cổ. Các di tích, di vật khảo cổ

học là nguồn sử liệu quan trọng giúp việc biên soạn lịch sử trái đất và lịch sử

dân tộc từ thời tiền/sơ sử tới các thời kỳ lịch sử sau này.

1.2.4. Danh lam thắng cảnh là cảnh quan thiên nhiên hoặc địa điểm có

sự kết hợp giữa cảnh quan thiên nhiên với công trình kiến trúc có giá trị thẩm

mỹ cao hoặc địa điểm ghi dấu hoạt động của con người trong lịch sử để lại, có

giá trị về lịch sử, văn hóa, khoa học. Danh lam thắng cảnh thường được kết

hợp giữa công trình tôn giáo tín ngưỡng với cảnh quan thiên nhiên đẹp. Đất

nước ta ở miền nhiệt đới, trải dài trên nhiều vĩ tuyến, có Rừng vàng biển

bạc với một hệ động thực vật đặc biệt phong phú và nhiều hang động kỳ thú

đủ sức hấp dẫn mọi du khách.

Căn cứ vào giá trị về các mặt lịch sử, văn hóa, khoa học và cấp độ quản

lý các di tích lại được chia thành ba loại 28, tr 46-48:

8



Một là, di tích quốc gia đặc biệt là di tích có giá trị đặc biệt tiêu biểu

của quốc gia do Thủ tướng Chính phủ ra quyết định xếp hạng.

Hai là, di tích quốc gia là di tích có giá trị tiêu biểu của quốc gia do Bộ

trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ra quyết định xếp hạng.

Ba là, di tích cấp tỉnh, thành phố là di tích có giá trị tiêu biểu trong

phạm vi địa phương do Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc

trung ương ra quyết định xếp hạng.

Việc hiểu rõ nội hàm khái niệm di tích và các hình thức phân loại di

tích có ý nghĩa quan trọng để xác định thái độ ứng xử đúng cho từng loại hình

di tích. Đây cũng là một trong những cơ sở khoa học cho việc hoạch định

chính sách và xây dựng hệ thống văn bản pháp luật trong việc bảo tồn và phát

huy giá trị di sản văn hóa dân tộc.

1.3. Vi phạm di tích

1.3.1. Khái niệm

Vi phạm di tích là những hành vi trái với quy định của Luật di sản văn

hóa, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật di sản văn hoá và pháp luật

khác có liên quan làm thay đổi yếu tố gốc, làm sai lệch giá trị và làm biến đổi

cảnh quan, môi trường di tích.

Hiện tượng vi phạm di tích còn diễn ra khá phổ biến dưới nhiều hình

thức như: lấn chiếm đất đai di tích; xây dựng công trình trái phép làm ảnh

hưởng đến cảnh quan sinh thái nhân văn xung quanh di tích; tu bổ, tôn tạo

không được phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, khai quật, trục vớt

trái phép các địa điểm khảo cổ, tổ chức dịch vụ văn hóa, khai thác di tích trái

với quy định của pháp luật, thậm chí cá biệt có nơi hiện tượng thương mại

hóa di tích còn khá phổ biến. Điển hình là 42 điểm xây dựng chùa trái phép

tại khu di tích thắng cảnh Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, tỉnh Hà Tây [nay là Hà

Nội, xem ảnh 1.1]. Bộ Văn hóa Thông tin [nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và

Du lịch] đã phối hợp với Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tây giải quyết dứt điểm

tình trạng hiện tượng xây dựng chùa và dẹp bỏ được những chùa đã được xây

9



trái phép nêu trên. Cũng là một hiện tượng vi phạm di tích, tại chùa Tây

Phương, người dân đã san, gạt đất đồi để xây lều quán bán hàng gây mất cảnh

quan và mỹ quan môi trường xung quanh di tích [xem ảnh 1.2]. Đây là hệ quả

của việc buông lỏng quản lý của chính quyền xã, huyện nên mới xảy ra những

hiện tượng vi phạm nêu trên. Bên cạnh đó, phải kể đến sự thiếu hiểu biết của

một bộ phận không nhỏ nhân dân trong việc bảo vệ và phát huy di tích.



Ảnh 1.1: Chùa xây dựng trái phép tại

di tích thắng cảnh Hương Sơn, Hà Tây [nay là Hà Nội]

Nguồn: Cục Di sản văn hóa



10



Ảnh 1.2: Điểm xây dựng trái phép tại

di tích chùa Tây Phương, Hà Tây [nay là Hà Nội]

Nguồn: Cục Di sản văn hóa

1.3.2. Phân loại vi phạm di tích

Điều 13 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật di sản văn hoá quy

định Nghiêm cấm các hành vi sau đây: Chiếm đoạt, làm sai lệch di tích lịch

sử - văn hoá, danh lam thắng cảnh; huỷ hoại, hoặc gây nguy cơ huỷ hoại di

sản văn hoá; đào bới trái phép địa điểm khảo cổ, xây dựng trái phép, lấn

chiếm đất đai thuộc di tích lịch sử-văn hoá, danh lam thắng cảnh; mua bán,

trao đổi, vận chuyển trái phép di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia thuộc di tích

lịch sử-văn hoá, danh lam thắng cảnh và di vât, cổ vật, bảo vật quốc gia có

nguồn gốc bất hợp pháp, đưa trái phép di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia ra nước

ngoài 28,tr 38.

Những hành vi mà Luật di sản văn hoá và Luật sửa đổi, bổ sung một số

điều của Luật di sản văn hoá quy định là phải có giấy phép mới được thực

11



hiện nhưng vẫn thực hiện mà không có giấy phép. Ví dụ điển hình cho hành

vi vi phạm này là di tích Hồ Tịnh Tâm [Thừa thiên Huế]. Tại di tích này, một

số hộ dân trong khu vực bảo vệ di tích Hồ Tịnh Tâm đã tiến hành cải tạo, sửa

chữa, xây dựng mới một số công trình trong khu vực di tích mà không có sự

đồng ý bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Chính quyền địa

phương đã đình chỉ và bắt tháo dỡ toàn bộ công trình xây dựng trái phép.

Nhưng đến nay, các công trình này không những không bị tháo dỡ mà còn

được hoàn thiện.

Những hành vi mà khi được cấp giấy phép rồi nhưng thực hiện không

đúng với nội dung trong giấy phép. Ví dụ điển hình cho hành vi vi phạm này

là di tích đền Độc Cước, đền Cô Tiên, tỉnh Thanh Hóa với hai hành vi vi

phạm: là tu bổ tôn tạo không đúng với những nội dung mà Cục Di sản văn

hóa đã cho phép và xây dựng các công trình trong khu vực bảo vệ II, phá vỡ

cảnh quan môi trường di tích. Trong văn bản cho phép nêu rất rõ Không xây

dựng lầu hóa vàng và lầu vọng cảnh; giữ nguyên hiện trạng môn lâu, không

thay đổi kết cấu và họa tiết trang trí trên các cấu kiện khi tu bổ môn lâu; tu bổ

tôn tạo Tiền đường theo hình thức, cấu trúc vì kèo hiện trạng, không tu bổ

theo hình thức vì kèo của tòa Trung đường, riêng phần kẻ cổ ngỗng ở hiên cần

nghiên cứu tu bổ cho phù hợp với hình thức kết cấu bên trong, phải đảm bảo

được vững chắc, chống chịu được mưa bão; Hạng mục Trung đường: cần bảo

tồn tuyệt đối các mảng trạm khắc thế kỷ 17, 18; đánh dấu các cấu kiện thay

mới, cấu kiện tu bổ và cấu kiện bảo quản tái sử dụng trên các bản vẽ thiết kế

tu bổ, tôn tạo, đồng thời bổ sung bản vẽ nối, vá, thay cốt, ốp mang; Thống

nhất phương án thay thế hệ thống vì kèo gỗ phần xây bằng gạch không phù

hợp của gian cuối hậu cung; Trước khi hạ giải các cấu kiện kiến trúc cần đánh

số và sau khi hạ giải cần đánh giá, phân loại tình trạng các cấu kiện kiến trúc

để có phương án tu bổ, tôn tạo thích hợp nhằm bảo tồn tối đa yếu tố gốc của

di tích; Vật liệu gỗ đưa vào tu bổ, tôn tạo phải được ngâm, tẩm chống mối

mọt theo quy trình; Đèn chiếu sáng chỉ mang tính chất bảo vệ di tích, hình

12



thức cần đảm bảo phù hợp với cảnh quan và tính thâm nghiêm của di tích.

Tuy nhiên, đến khi kiểm tra, tất cả các hạng mục nêu trong văn bản cho phép

của Cục Di sản văn hóa gần như không được thực hiện hoặc thực hiện không

đúng với những nội dung đã thỏa thuận. Kết quả là di tích bị biến dạng, các

yếu tố gốc cấu thành di tích không giữ được mà thay vào đấy là những sản

phẩm mới, kiến trúc mới, cấu kiện mới. Điều này đồng nghĩa với việc di tích

đã bị xâm hại.

1.4. Cơ sở pháp lý để ngăn chặn và xử lý vi phạm di tích

Trong thực tiễn, hành vi vi phạm di tích có rất nhiều như: ăn cắp di vật,

cổ vật tại di tích, lấn chiếm đất đai di tích, xây dựng trái phép trong di tích, tu

bổ tôn tạo di tích không được sự đồng ý bằng văn bản của cơ quan nhà nước

có thẩm quyền, tu bổ, tôn tạo không đúng với những nội dung đã được quy

định trong giấy phép, khai thác, sử dụng di tích không đúng mục đích làm phá

vỡ cảnh quan môi trường di tích, phá di tích cũ để xây di tích mới [mà chủ

yếu tập trung vào những di tích là đình, đền, chùa]... Bảo tồn di tích là hoạt

động bảo vệ di tích khỏi những tác động chủ quan và khách quan. Ngăn chặn

và xử lý vi phạm di tích cũng là một hoạt động bảo tồn di tích.

Dưới các triều đại phong kiến, ý thức giữ gìn, bảo quản, kiểm kê và tu

bổ di tích đã được cả chính quyền trung ương và toàn xã hội chú ý. Trong các

bộ sử ký, các sách địa chí đều có các ghi chép về di tích như: đình, đền, chùa,

quán, miếu, thành quách...và các nhân vật lịch sử. Bộ Luật Hồng Đức ban

hành dưới triều vua Lê Thánh Tông có điều khoản ghi việc trừng phạt những

người lấy cắp, phá huỷ tượng phật và chuông đồng cổ. Vào cuối thế kỷ XIX

đầu thế kỷ XX người Pháp đã tiến hành điều tra, nghiên cứu về các di tích

kiến trúc nghệ thuật, khảo cổ học trên đất nước ta. Nhưng việc ban hành các

văn bản pháp lý để quản lý và điều hành các hoạt động có tính chất bảo vệ di

tích là hầu như không có gì. Từ sau năm 1945 và nhất là sau năm 1954 là hoạt

động bảo tồn di tích ở Việt Nam bắt đầu tiếp cận với khoa học bảo tồn hiện

đại của thế giới. Và cũng bắt đầu từ đây các văn bản pháp lý từng bước được

13



xây dựng để làm sơ sở cho mọi hoạt động có liên quan, đặc biệt là hoạt động

bảo tồn di tích.

1.4.1. Sắc lệnh số 65/SL ngày 23 tháng 11 năm 1945 về việc thành lập

Đông Phương Bác Cổ học viện và Bảo tồn cổ tích trên toàn cõi Việt Nam.

Ngay sau Cách mạng tháng 8 thành công trong lúc phải đối phó với

giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm, Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân

Chủ Cộng Hoà không quên tới việc bảo vệ các di sản văn hoá của dân tộc.

Nhà nước ta chủ trương đặt toàn bộ các di tích dưới sự bảo hộ của pháp luật.

Tư tưởng đó được thể hiện rất rõ ràng, cụ thể trong Sắc lệnh số 65/SL ngày 23

tháng 11 năm 1945 về việc thành lập Đông Phương Bác Cổ học viện và bảo

tồn cổ tích trên toàn cõi Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký. Nội dung Sắc

lệnh nêu rõ Cấm phá huỷ đình, đền, chùa, đền miếu hoặc những nơi thờ tự

khác như cung điện, thành quách cùng lăng mộ đình chùa được bảo tồn 13.

Sắc lệnh đã khẳng định quan điểm và nhận thức đúng đắn của Chính phủ đối

với vai trò và ý nghĩa quan trọng của các di tích trong công cuộc kiến thiết đất

nước. Cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ đã không cho phép chúng ta mở

rộng hoạt động trong lĩnh vực bảo vệ di tích của đất nước.

Ngay trong những năm tháng ác liệt của cuộc chiến tranh chống Mỹ

cứu nước, nhiều Chỉ thị, Thông tư của Chính phủ, của Bộ Văn hoá liên tiếp

được ban hành nhằm tăng cường bảo vệ các di tích lịch sử- văn hoá của đất

nước như: Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ số 1999-VG ngày 15 tháng 5

năm 1958 về việc cấm đào bới mộ cổ; Thông tư của Thủ tướng số 442-TTg

ngày 09 tháng 11 năm 1960 về việc bảo vệ các di sản văn hoá, ngăn chặn hoạt

động xuất khẩu cổ vật trái phép; Ngày 13/12/1963 Thủ tướng Chính phủ có

Chỉ thị về bảo vệ và quản lý những sách tài liệu văn hoá bằng chữ Hán, chữ

Nôm; Tiếp theo ngày 29 tháng 4 năm 1966 có Thông tư về việc bảo vệ di tích

lịch sử, di tích nghệ thuật và hang động được sử dụng vào công tác sơ tán

phòng không. Có thể nói, văn bản pháp lý được ban hành trong giai đoạn này

đã bám sát với hoạt động thực tiễn chung của đất nước.

14



1.4.2. Nghị định số 519-TTg ngày 29 tháng 10 năm 1957 quy định thể

lệ về bảo tồn di tích.

Một văn bản pháp lý quan trọng khác có giá trị nền tảng cho hoạt động

bảo vệ di tích nói riêng và bảo tồn bảo tàng nói chung là Nghị định số 519TTg ngày 29 tháng 10 năm 1957 do Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký quy định

các luật lệ cơ bản cho hoạt động bảo tồn di tích thời gian này. Nghị định gồm

7 mục 12 điều trong đó mục II quy định về liệt hạng di tích, mục III quy định

về sưu tầm và khai quật, mục IV quy định về bảo quản, mục V quy định về

trùng tu, sửa chữa, mục VI quy định về xuất nhập khẩu những di vật có giá trị

lịch sử. Như vậy, từ năm 1957 cho tới năm 1984, Nghị định số 519-TTg đã

phát huy tốt tác dụng làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động của toàn ngành, đặc

biệt là hoạt động bảo vệ di tích.

1.4.3. Pháp lệnh số 14-LCT/HĐND ngày 04 tháng 4 năm 1984 của Hội

đồng Nhà nước [nay là Chủ tịch nước] bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử -văn

hoá và danh lam thắng cảnh.

Sự nghiệp bảo vệ di sản văn hoá nói chung và di tích nói riêng đang

từng bước phát triển, đòi hỏi hệ thống các văn bản pháp lý phải được nâng

cao và hiệu chỉnh sao cho phù hợp với tình hình thực tế. Sau nhiều năm tháng

biên soạn và quan hơn 20 lần chỉnh lý Pháp lệnh số 14-LCT/HĐND ngày 04

tháng 4 năm 1984 của Hội đồng Nhà nước [nay là Chủ tịch nước] ra đời. Pháp

lệnh là căn cứ pháp lý quan trọng trong việc bảo vệ di tích trong thời kỳ đất

nước vừa hoàn toàn thống nhất. Tiếp theo vào các năm 1985, 1986 Nghị định

của Hội đồng Bộ trưởng [nay là Chính phủ] quy định việc thi hành Pháp lệnh

và Thông tư hướng dẫn thi hành Pháp lệnh của Bộ Văn hoá ban hành. Đây là

bước tiến lớn của ngành bảo tồn bảo tàng nhằm thống nhất quản lý và chỉ đạo

mọi hoạt động bảo vệ di tích bằng các điều luật cụ thể. Pháp lệnh ra đời đã

bảo vệ được hàng ngàn di tích. Ở vào thời điểm này do những khó khăn về

kinh tế, do hạn chế về nhận thức nhiều di tích của chúng ta không được bảo

vệ chăm sóc trong một thời gian dài, bị sử dụng không đúng mục đích hoặc bị

15



vi phạm lấn chiếm, nhờ có Pháp lệnh và một cơ chế quản lý mới với phương

châm Nhà nước và nhân dân cùng làm đã góp phần cứu vãn sự huỷ hoại của

nhiều di tích, góp phần ngăn chặn những vi phạm đất đai của di tích. Giai

đoạn này, kinh tế của đất nước còn cực kỳ khó khăn bởi toàn đảng, toàn dân

tập trung vào việc khắc phục hậu quả chiến tranh và dần đi vào ổn định. Mặc

dù vậy, chúng ta cũng phải thừa nhận với nhau rằng, khi đưa Pháp lệnh đi vào

thực tiễn mới xuất hiện những hạn chế sau: chỉ có Bộ trưởng Bộ Văn hoá

Thông tin [nay là Bộ trưởng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch] căn cứ vào đề

nghị của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và đơn vị

hành chính tương đương ra quyết định công nhận là di tích. Có nghĩa là chỉ có

một cấp có thẩm quyền quyết định công nhận di tích. Điều đáng lưu ý nhất ở

Pháp lệnh là chỉ có 2 cấp quản lý di tích đó là Bộ Văn hoá Thông tin [nay là

Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch] và Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố, không

phân cấp cho các cấp hành chính khác quản lý di tích. Các di tích được Bộ

trưởng Bộ Văn hoá Thông tin [nay là Bộ trưởng Bộ Văn hoá, Thể thao và

Du lịch] công nhận gọi chung là di tích quốc gia. Tuy nhiên, số lượng di tích

được phát hiện trong quá trình điều tra, kiểm kê, đăng ký là rất lớn, nhu cầu

các địa phương được công nhận và đặt di tích dưới sự bảo hộ của pháp luật là

rất cấp bách nhưng chỉ một cấp là Bộ Văn hoá Thông tin mới có thẩm

quyền quyết định công nhận thì không còn phù hợp nữa, không đáp ứng kịp

thời nhu cầu của địa phương, đôi khi còn gây hiền hà cho nhân dân, đặc biệt

là công tác bảo vệ và phát huy giá trị của di tích chưa được đảm bảo, hiện

tượng vi phạm di tích bắt đầu gia tăng không ngừng, những hành vi như lấn

chiếm đất đai di tích, xin vào ở nhờ di tích do hoàn cảnh khó khăn nhưng mãi

vẫn không chịu ra khỏi di tích khi có điều kiện, xây dựng những công trình

dân dụng phục vụ sinh hoạt hàng ngày của những hộ dân sống trong di tích

bắt đầu có dấu hiệu tăng dần. Việc thực hiện đường lối đổi mới của Đảng

trong thời gian qua đã đưa đến những thay đổi mạnh mẽ trong cơ cấu kinh tế,

cấu trúc xã hôị... Pháp lệnh Bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử văn hoá và danh

16



Video liên quan

Chủ Đề