Giới thiệu về một nhân vật lịch sử ngắn gọn

Viết đoạn văn ngắn về một trong những trận đánh hoặc nhân vật tiêu biểu đã học mà em thích là lời giải bài tập Lịch sử lớp 4 bài 20: Ôn tập. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết.

Viết đoạn văn ngắn về một trong những trận đánh hoặc nhân vật tiêu biểu đã học

  • Viết về về một trong những trận đánh hoặc nhân vật tiêu biểu Mẫu 1
  • Viết về về một trong những trận đánh hoặc nhân vật tiêu biểu Mẫu 2
  • Viết về về một trong những trận đánh hoặc nhân vật tiêu biểu Mẫu 3

Đề bài: Bài 3. (trang 35 VBT Lịch Sử 4): Em hãy viết một đoạn văn ngắn về một trong những trận đánh hoặc nhân vật tiêu biểu đã học mà em thích.

Viết về về một trong những trận đánh hoặc nhân vật tiêu biểu Mẫu 1

Thuở xưa, nước ta bị quân Hán đô hộ. Chúng rất tàn ác, hà hiếp nhân dân ta và ra sức vơ vét của cải.

Bấy giờ ở huyện Mê Linh có hai người con gái tài giỏi: chị là Trưng Trắc còn em là Trưng Nhị. Cả hai bà dều giỏi võ nghệ và nuôi chí giành lại non sông. Trưng Trắc có chồng là Thi sách. Thi Sách là Lạc tướng cũng cùng chí hướng với vợ.Tướng giặc là Tô Định làm Thứ sử Giao Châu thời ấy biết được bèn lập mưu giết chết Thi Sách. Nợ nước, thù nhà, Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa. Quân của hai bà đi đến đâu, giặc tan đến đó. Với đoàn quân khởi nghĩa hừng hực khí thế chiến đấu và chiến thắng, Hai Bà Trưng tiến về giải phóng thành Luy Lâu. Tướng giặc Tô Định tháo chạy về nước. Hai Bà Trưng lên ngôi vua, xưng là Trưng Nữ Vương.

Năm 43, quân giạc cử Mã Viện, đại tướng lão luyện đốc quân đàn áp cuộc khởi nghĩa, Hai Bà Trưng lãnh đạo quân ta chiến đấu anh dũng nhưng vì thế giặc quá mạnh, yếu thế, Hai Bà Trưng nhảy xuống sông Hát Giang tuẫn tiết. Dân ta lại chìm trong vòng áp bức của quân giặc phương Bắc. Dù vậy, tấm gương oanh liệt của Hai Bà Trưng vẫn ngời sáng nghìn thu.

Viết về về một trong những trận đánh hoặc nhân vật tiêu biểu Mẫu 2

Đoàn quân mang lá cờ đề “Phá cường địch, báo hoàng ân” vừa xuống khỏi dốc đầu trại Vĩnh Bình (Lạng Sơn) thì dừng lại.

Trần Quốc Toản mặc áo bào đỏ, cưỡi ngựa trắng, dáng vẻ uy nghi giữa hàng quân, nói: “Ta vì sợ không được quan tin dùng nên băng rừng đi tìm giặc mà đánh. Nay giặc đã ở sát bên. Vậy ta hãy đánh vài trận cho giặc Nguyên khiếp vía, cho người lớn biết sức chúng ta. Sau khi được quân do thám báo cáo tình hình và bày binh, Trần Quốc Toản vẫy tay ra hiệu. Tiếng tù và rúc lên. Toán giặc đầu tiên ngã gục dưới làn mưa tên dữ dội. Toán thứ hai quay đầu chạy. Trần Quốc Toản đón đầu, giáp mặt với giặc, vung kiếm chém giặc như chém chuối. Viên tướng giặc liều chết mờ đường mau rút lui nhưng trước mặt hắn là vị tướng rất trẻ mặc áo bào đó, cười ngựa trắng oai phong lẫm liệt.

Viết về về một trong những trận đánh hoặc nhân vật tiêu biểu Mẫu 3

Lịch sử nước ta trải hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước. Đã có rất nhiều anh hùng trở thành tấm gương sáng trong lịch sử nước nhà. Đó là Ngô Quyền, Lê Lợi, Hai Bà Trưng...nhưng có lẽ, người mà em cảm thấy ấn tượng nhất và thích nhất đó chính là Lý Thường Kiệt.

Nhắc đến Lý Thường Kiệt, hẳn ai cũng nhớ đến một nhà quân sự, nhà chính trị thời nhà Lý của nước Đại Việt ta thời bấy giờ. Làm quan qua 3 triều vua Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông và Lý Nhân Tông, Lý Thường Kiệt đã để lại đời sau những trận đánh vô cùng oanh liệt. Tiêu biểu là trận đánh năm 1077, khi quân Tống sang xâm lược nước ta, bằng chiến thuật và tài trí của mình, ông đã lãnh đạo nhân dân kháng chiến chống quân giặc và giành thắng lợi vẻ vang.

Đặc biệt, sau lần đại chiến quân Tống, bài thơ "Nam Quốc sơn hà" của ông sáng tác đã được truyền đi khắp nơi cho đến tận ngày nay. Đó được xem là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước ta, có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với đất nước.

Ngày nay, khi nhắc đến Lý Thường Kiệt, không chỉ riêng em mà tất cả mọi người dân đất Việt đều nhớ đến ông - một người anh hùng kiệt xuất với bốn câu thơ ngắn gọn, gắn bó với tên tuổi của ông:

"Núi sông Nam Việt vua Nam ở,
Vằng vặc sách trời chia xứ sở.
Giặc dữ cớ sao phạm đến đây?
Chúng mày nhất định phải tan vỡ".

Ngoài bài giải Lịch sử lớp 4 trên, các em học sinh hoặc quý phụ huynh còn có thể tham khảo thêm đề thi học kì 1 lớp 4 và đề thi học kì 2 lớp 4 các môn Toán, Tiếng Việt, Tiếng Anh, Khoa, Sử, Địa theo chuẩn kiến thức của bộ Giáo Dục. Những đề thi này được sưu tầm và chọn lọc từ các trường tiểu học trên cả nước nhằm mang lại cho học sinh lớp 4 những đề ôn thi học kì chất lượng nhất. Mời các em cùng quý phụ huynh tải miễn phí đề thi về và ôn luyện.

  • lý thuyết
  • trắc nghiệm
  • hỏi đáp
  • bài tập sgk

Em hãy viết một đoạn văn ngắn về một trong nhân vật lịch sử tiêu biểu đã học mà em thích.

Các câu hỏi tương tự

Ví dụ: Giới thiệu Nguyễn Ái Quốc

Chủ tịch Hồ Chí Minh là một vị lãnh tụ vĩ đại, một danh nhân văn hóa thế giới. Người như một vị cha già của cả dân tộc, công lao to lớn của người trong việc đi tìm đường cứu nước, dẫn dắt nhân dân thoát khỏi kiếp lầm than nô lệ.

Chính nhờ con đường mà người chỉ lối chúng ta mới có cơ hội chiến thắng hai đế quốc lớn Pháp và Mỹ, dân tộc ta thoát khỏi kiếp cai trị của những nước thực dân đế quốc. Con người mới được tự do làm chủ đời mình, làm chủ vận mệnh cuộc sống.

Hồ Chí Minh là một người yêu nước vĩ đại, chính vì yêu nước, nên trong thời Người sinh ra đất nước ta đang trong đêm dài nô lệ. Những người dân khốn khổ, tối tăm, làm việc cực nhọc quanh năm nhưng không đủ cơm ăn áo mặc, bởi những bóc lột mà họ phải mang trên người, bởi chế độ phong kiến thối nát và thực dân Pháp cai trị.

Trong sự bế tắc đó, chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1911 ông 21 tuổi đã lên đường ra đi, ông không đi những nước gần mà ông muốn sang Pháp một đất nước thuyết giảng về văn minh, tự do bình đẳng bác ái, tại sao lại mang những xiềng xích nô lệ sang trói buộc nước ta.

Người muốn đi sang Pháp để hiểu hơn về kẻ thù. Trong qua trình chu du đó người đã tới với nước Nga, đã thấy sự thành công của giai cấp vô sản trong cách mạng tháng 10 Nga. Từ đó, người tới với chủ nghĩa Mác- Lê Nin. Người đã tìm thấy con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam.

Sau đó, người trở về nước đứng ra sáp nhập ba tổ chức Đảng đang tồn tại trong nước lúc bấy giờ là An Nam cộng sản đảng, Đông Dương cộng sản đảng và Đông Dương cộng sản liên đoàn.

Ba tổ chức này đều được cầm đầu bởi những nhà tiểu tri thức tư sản yêu nước, những người có tư tưởng tiên tiến, yêu nước nhưng chưa biết cách lãnh đạo đoàn kết thành một khối thống nhất, chưa biết sử dụng nông dân và công nhân những con người tưởng như không có tri thức, nhưng sẽ là người cầm súng cầm đao giết giặc vô cùng dũng cảm.

Chính nhờ sự thống nhất ba tổ chức cộng sản Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, lấy lá cờ đỏ sao vàng là quốc kỳ.

Nhờ sự ra đời của Đảng cộng sản dưới sự lãnh đạo của chủ tịch Hồ Chí Minh nên nước ta đã đi hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Từ cách mạng tháng 8/1945 thành lập nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.

Ngày 2/09/2015 tới chiến thắng thực dân Pháp năm 1954, thống nhất hai miền Nam- Bắc mùa xuân năm 1975 tất cả những chiến thắng đó đều có tâm huyết, công lao của vị lãnh tụ vĩ đại chủ tịch Hồ Chí Minh.

Người đúng là một vị lãnh tụ lỗi lạc, người cha già của cả dân tộc. Đúng như câu thơ tác giả Tố Hữu đã viết về người

Bác ơi tim Bác mênh mông thế
Ôm cả non sông mọi kiếp người.

Nguyễn Trãi sinh năm 1380, hiệu là Ức Trai, quê ở Chi Ngại (Chí Linh, Hải Dương) sau dời về Nhị Khê (Thường Tín, Hà Tây). Cha là Nguyễn Phi Khanh, một học trò nghèo, học giỏi, đỗ thái học sinh (tiến sĩ). Mẹ là Trần Thị Thái, con Trần Nguyên Đán, một qúy tộc đời Trần.Lên sáu tuổi, mất mẹ, lên mười tuổi, ông ngoại qua đời, ông về ở Nhị Khê, nơi cha dạy học. Năm hai mươi tuổi, năm 1400, ông đỗ thái học sinh và hai cha con cùng ra làm quan với nhà Hồ. Năm 1407, giặc Minh cướp nước tạ Nguyễn Phi Khanh bị chúng đưa sang Trung Quốc. Nguyễn Trãi và một người em đi theo chăm sóc. Nghe lời cha khuyên , ông trở về, nhưng bị quân Minh bắt giữ. Sau đó, ông tìm theo Lê Lợi. Suốt mười năm chiến đấu, ông đã góp công lớn vào chiến thắng vẻ vang của dân tộc.

Đầu năm 1428, quét sạch quân thù, ông hăm hở bắt tay vào xây dựng lại nước nhà thì bỗng dưng bị nghi oan và bắt giam. Sau đó ông được tha, nhưng không còn được tin cậy như trước. Ông buồn, xin về Côn Sơn. Đó là vào những năm 1438 – 1440. Năm 1440, Lê Thái Tông mời ông trở lại làm việc và giao cho nhiều công việc quan trọng. Ông đang hăng hái giúp vua thì xảy ra vụ nhà vua chết đột ngột ở Trại Vải (Lệ Chi Viên, Bắc Ninh). Vốn chứa thù từ lâu đối với Nguyễn Trãi, bọn gian tà ở triều đình vu cho ông âm mưu giết vua, khép vào tội phải giết cả ba họ năm 1442.

Nỗi oan tày trời ấy, hơn hai mươi năm sau, 1464, Lê Thánh Tông mới giải tỏa, rồi cho sưu tầm lại thơ văn ông và tìm người con trai sống sót cho làm quan.

Nhìn chung, ở cuộc đời Nguyễn Trãi nổi lên hai điêm cơ bản sau:

Nguyễn Trãi là bậc đại anh hùng dân tộc và là một nhân vật toàn tài hiếm có của lịch sử Việt Nam trong thời đại phong kiến. Nguyễn Trãi có một nhà chính trị, một nhà quân sự, một nhà ngoại giao, một nhà văn hóa, một nhà văn, một nhà thơ tầm cỡ kiệt xuất.Nhưng Nguyễn Trãi cũng là một người đã phải chiụ những oan khiên thảm khốc, do xã hội củ gây nên cũng tới mức hiếm có trong lịch sử.

Ông nhà văn, nhà thơ lớn: là anh hùng dân tộc, Nguyễn Trãi còn là nhà văn, nhà thơ lớn. Ông còn để lại nhiều tác phẩm có giá trị. “Quân trung từ mệnh tập” là những thư từ gửi cho các tướng giặc và những giấy tờ giao thiệp với triều đình nhà Minh, nhằm thực hiện kế “đánh vào lòng”, ngày nay gọi là địch vận. “Bình Ngô đại cáo” lấy lời Lê Lợi tổng kết 10 năm chống giặc, tuyên bố trước nhân dân về chính nghĩa quốc gia, dân tộc, về qúa trình chiến đấu gian nan để đi đến chiến thắng vĩ đại cuối cùng giành lại hòa bình cho đất nước. “Lam Sơn thực lục” là cuốn sử về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. “Dư địa chí” viết về địa lý lịch sử nước ta. “Chí Linh sơn phú” nói về cuộc chiến đấu chống giặc Minh gian khổ và anh hùng. Các tác phẩm ấy đều là văn bằng chữ Hán. Năm 1980,Nguyễn Trãi được Liên hiệp quốc UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới.