Hình phạt tử hình là gì năm 2024

Hình phạt tử hình là hình phạt nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt của pháp luật hình sự Việt Nam, được áp dụng đối với những tội phạm đặc biệt nguy hiểm. Trong lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam, hình phạt từ hình cùng với các hình phạt khác trong pháp luật hình sự đã góp phần quan trọng trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế xã hội của đất nước qua các thời kỳ. Tuy nhiên trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập với cộng đồng quốc tế, nhất là khi chúng ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền, thì việc nghiên cứu về mặt lý luận và thực tiễn của việc loại bỏ hình phạt tử hình ra khỏi hệ thống hình phạt của pháp luật hình sự có ý nghĩa hết sức quan trọng.

1. Cơ sở lý luận của việc xóa bỏ hình phạt tử hình

1.1. Khái niệm và đặc điểm của hình phạt tử hình

Trong lịch sử lập pháp hình sự của nước ta từ trước tới nay, khái niệm hình phạt lần đầu tiên được quy định tại Điều 26 Bộ luật Hình sự (BLHS). Theo đó: Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội. Hình phạt được quy định trong BLHS và do Tòa án quyết định”.

Hình phạt tử hình là một loại hình phạt truyền thống, có từ lâu đời. Thuật ngữ hình phạt tử hình có tên tiếng Anh là “death penalty” hay là “capital punishment”. Capital có nguồn gốc từ tiếng Latin là capitalis, trong đó có gốc của từ kaput, có nghĩa là đầu. “Capital punishment” có nghĩa là hình phạt mà khi áp dụng, người bị áp dụng sẽ bị mất đầu, tức là tước bỏ quyền sống của một người. Trong tiếng Pháp hình phạt này có tên “peine de mort” hay còn gọi là “peine capitale”; trong tiếng Đức nó có tên gọi là “todesstrafe”.

Trong Luật Hình sự Việt Nam, tử hình là loại hình phạt đặc biệt và nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt, tước đi quyền sống của người bị kết án và chỉ được áp dụng đối với người phạm tội có tính chất nguy hiểm đặc biệt cao cho xã hội. Hình phạt tử hình được quy định trong Bộ luật Hình sự và do Tòa án quyết định. Từ định nghĩa này cho thấy hình phạt tử hình có những đặc điểm sau:

Thứ nhất, hình phạt tử hình là hình phạt nghiêm khắc nhất - tước đoạt mạng sống của người phạm tội, không một hình phạt nào trong hệ thống hình phạt có khả năng này. Hình phạt tử hình tước bỏ quyền được sống - quyền năng tự nhiên, thiêng liêng, cao quý nhất của con người. Áp dụng tử hình đối với người phạm tội là nhà nước loại bỏ hoàn toàn sự tồn tại của họ trong đời sống xã hội vì lợi ích chung của cộng đồng.

Thứ hai, tử hình chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng được quy định trong BLHS và do Tòa án có thẩm quyền quyết định. Chỉ khi hành vi phạm tội gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội, người phạm tội ở vào các trường hợp được BLHS dự liệu trước, cùng với bản án có hiệu lực của Tòa án, việc áp dụng tử hình mới có giá trị pháp lý thực tế. Và chỉ Tòa án có thẩm quyền mới có quyền quyết định áp dụng hình phạt tử hình. Đây cũng chính là đòi hỏi của nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, phản ánh tính nghiêm minh của pháp luật trong việc phòng ngừa tội phạm chung.

Thứ ba, hình phạt tử hình không đặt ra mục đích cải tạo, giáo dục người bị kết án. Tuy nhiên, tử hình vẫn đạt được mục đích phòng ngừa riêng của nó khi loại bỏ khả năng phạm tội mới của người bị kết án. Và mục đích phòng ngừa chung khi có tác dụng răn đe mạnh mẽ, ngăn ngừa những cá nhân không vững vàng trong xã hội đi vào con đường phạm tội. Xuất phát từ điểm này chúng ta có thể thấy hình phạt tử hình luôn có tính chất không thể thay đổi. Bởi nếu ở những hình phạt khác, thì khi phát hiện có oan sai, chúng ta vẫn có thể khắc phục được hậu quả. Nhưng người bị kết án tử hình thì sau đó dù có chứng minh được người đó hoàn toàn vô tội thì cũng không làm cách nào để họ có thể sống lại để tiếp tục cuộc sống mà họ đáng được có.

Thứ tư, quy định về hình phạt tử hình trong BLHS vẫn phù hợp với nguyên tắc nhân đạo vì hình phạt này tuy tước đi quyền sống của người phạm tội nhưng để bảo vệ lợi ích của cả cộng đồng, loại trừ nguy cơ đe dọa cộng đồng. Bên cạnh đó, việc áp dụng hình phạt tử hình chỉ được áp dụng với một số loại tội danh, và loại trừ đối tượng bị tử hình là người chưa thành niên, phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi bị xét xử.

1.2. Mục đích của hình phạt tử hình

Mục đích của hình phạt tử hình là sự phản ánh rõ nét bản chất xã hội, bản chất giai cấp của hình phạt nói chung và hình phạt tử hình nói riêng. Trước đây, nếu các nhà làm luật quan niệm người phạm tội là kẻ đã gây ra tội ác và ác giả ác báo, phải trừng trị thích đáng thì sẽ dẫn đến việc lạm dụng hình phạt tử hình. Các hình thức thi hành hình phạt tử hình trong trường hợp đó cũng dã man, tàn khốc hơn, thể hiện mục đích “ trả thù” người phạm tội. Dần dần các quan điểm tiến bộ, nhân đạo về hình phạt tử hình đã thay thế nên tuy vẫn duy trì ở đa số các nước nhưng hình phạt tử hình chỉ được áp dụng đối với người phạm tội như là biện pháp cuối cùng và nghiêm khắc nhất để “ trừng trị” họ.

Điều 27 BLHS quy định: “ Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa tội phạm mới. Hình phạt còn nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm”. Tuy nhiên, đối với hình phạt tử hình thì không đặt ra mục đích cải tạo, giáo dục người bị kết án. Vì họ không còn cơ hội để sửa chữa, khắc phục những hậu quả do hành vi phạm tội của mình gây ra. Không có cơ hội cải tạo, giáo dục họ trở thành người tốt.

Sự nghiêm khắc và triệt để của hình phạt tử hình cho thấy mục đích phòng ngừa riêng, ngăn ngừa người bị kết án phạm tội mới. Bởi các nhà làm luật xét thấy rằng người phạm tội bị kết án tử hình là những người không thể cải tạo, giáo dục, không còn khả năng tái hòa nhập với xã hội. Việc loại bỏ hoàn toàn khả năng tái phạm với mức độ nguy hiểm cao là cần thiết hơn cả. Tuy nhiên, có thể thấy tác dụng răn đe, phòng ngừa chung của hình phạt tử hình trong việc ngăn ngừa các thành viên khác trong xã hội không phạm tội, tích cực tham gia đấu tranh phòng, chống tội phạm.

1.3. Quy định về hình phạt tử hình qua các giai đoạn

Sau năm 1945, hình phạt tử hình được quy định trong các pháp lệnh 1967 trừng trị tội phản cách mạng; pháp lệnh 1970 tội phạm về xâm phạm tài sản.

Đến năm 1985 nhà nước ban hành Bộ luật hình sự, có 29 tội quy định về hình phạt tử hình, bộ luật năm1985 sửa đổi năm 1989 có 33 tội; sửa đổi năm 1991 có 36 tội, năm 1992 quy định 38 tội; năm 1997 quy định 44 tội có hình phạt tử hình.

Bộ luật hình sự năm 1999 có 29 tội quy định mức phạt tử hình, Bộ luật hình sự sửa đổi 2009 còn 22 tội quy định hình phạt tử hình.

1.4. Nguyên tắc nhân đạo

Nguyên tắc nhân đạo là một trong những nguyên tắc cơ bản của Bộ luật hình sự. Mục đích của quy định nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự là nhằm bảo đảm cho con người những lợi ích tối thiểu, bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về danh dự, nhân phẩm và tính mạng. Nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự là cách thể chế hóa quan điểm chính sách vì con người của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quan điểm bao dung coi giáo dục thuyết phục nhân cách trong con người là chủ yếu. Mục đích tối thượng và quan trọng của hình phạt tử hình là nhằm đạt đến sự công bằng trong xã hội dân chủ và ngăn chặn những hành vi tương tự có thể xảy ra. Hình phạt tử hình là sự trừng trị kẻ phạm tội nhằm mục đích răn đe trước hết là người phạm tội sau đó là các tội phạm khác.

Như vậy, về mặt bản chất việc tồn tại hình phạt tử hình trong Luật hình sự Việt Nam hiện nay không tạo ra mâu thuẫn với nguyên tắc nhân đạo. Tuy nhiên, nó cũng phần nào làm giảm đi tính tích cực và toàn diện trong chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta.

Hiện nay BLHS quy định về các trường hợp không áp dụng hình phạt tử hình đối với Người chưa thành niên phạm tội; đối với phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi bị xét xử.

Cách thức thi hành án tử hình cũng thể hiện nguyên tắc nhân đạo của Đảng và nhà nước ta. Theo Luật thi hành án Hình sự năm 2010, thì cách thức thi hành án tử hình mới được áp dụng là hình thức “tiêm thuốc độc”. hiểu bản chất của biện pháp thi hành hình phạt tử hình này là tiêm vào người tử tội một liều thuốc độc. Sở dĩ nhiều nước lựa chọn cách tử hình này vì không tạo ra những cảnh man rợ như đầu rơi, máu chảy, phạm nhân gào thét vì đau đớn. Các chuyên gia y học thế giới thường nhận xét về biện pháp tử hình này là cách "chết nhẹ nhàng", "chết không đau đớn". Một số chuyên gia y học còn so sánh cách thi hành hình phạt tử tội này giống như người tự sát, uống thuốc ngủ hoặc uống thuốc độc chết.

Tiêm thuốc độc để thi hành án tử hình là một vấn đề mới ở nước ta. Hy vọng việc áp dụng thành công biện pháp tử hình mới này sẽ góp phần thể hiện chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, bảo vệ an ninh, trật tự đất nước trong thời kỳ hội nhập quốc tế.

Nhìn chung nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự Việt Nam có ảnh hưởng rất lớn đến xu thế thu hẹp việc áp dụng hình phạt tử hình. Hai phạm trù khái niệm này bề ngoài có vẻ đối trọng nhau nhưng thực chất lại không hề có sự mâu thuẫn lẫn nhau mà trái lại nguyên tắc nhân đạo luôn làm tiền đề, định hướng, chi phối đến việc áp dụng hình phạt tử hình, khiến cho việc áp dụng nó trở nên bị hạn chế. Hiện nay, cần tiếp tục vận dụng lý luận của nguyên tắc nhân đạo nhằm bảo vệ cho các quyền con người trong đó có quyền sống mà có thể bị hình phạt tử hình cướp đi.

II. Cơ sở thực tiễn trong việc xóa bỏ hình phạt tử hình của một số tội phạm

Tử hình là hình phạt nghiêm khắc nhất trong hệ thống hình phạt của Nhà nước, tước đi quyền quan trọng và thiêng liêng nhất của con người, đó là quyền sống. Xuất phát từ quan điểm hình phạt tử hình (cho dù thể thức thi hành nó trong thực tế như thế nào cũng là một hình phạt dã man, phi luân lý, vô ích, không có tác dụng răn đe người phạm tội). Việc duy trì hình phạt này không có tác dụng làm giảm tội phạm, kể cả các tội đặc biệt nghiêm trọng (bởi vì, tình trạng phạm tội đã không tăng lên trong các nước sau khi đã bị xóa bỏ loại hình phạt này), không sửa chữa được trong trường hợp có sai lầm về tư pháp, nên nhiều quốc gia đã và đang nghiên cứu loại bỏ hình phạt này và thay thế bằng các hình phạt khác. Cho đến nay, có rất nhiều nước (trong đó có toàn bộ các nước thuộc Cộng đồng chung châu Âu) đã loại bỏ hình phạt này đối với không chỉ các tội phạm theo luật chung, mà còn với cả các tội phạm chính trị, quân sự và tội phạm quốc tế. Mặc dù vậy, loại hình phạt này vẫn còn được duy trì trong pháp luật hình sự của nhiều nước, trong đó có nhiều tiểu bang ở Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Tôi cho rằng, việc áp dụng hình phạt này cần phải căn cứ vào đặc điểm và điều kiện cụ thể của mỗi nước. ở Việt Nam, tử hình vẫn được coi là hình phạt cần thiết và cần phải có nhằm trừng trị những người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng để giữ nghiêm kỷ cương phép nước, bảo đảm cho an ninh và trật tự an toàn xã hội, tức là loại hình phạt này vẫn có tác dụng tốt trong việc ngăn ngừa tội phạm và bảo vệ hữu hiệu lợi ích công cộng. Việc áp dụng đúng đắn hình phạt tử hình được dư luận đồng tình ủng hộ.

Tuy nhiên, xuất phát từ tình hình phát triển kinh tế - xã hội và quá trình hội nhập quốc tế, đồng thời với yêu cầu cải các tư pháp, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, đòi hỏi cấp thiết là phải tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự với việc bảo đảm các quyền con người, nhân đạo hóa các biện pháp trừng trị hình sự, phù hợp với điều kiện phát triển và đạo đức của người Việt Nam.

V.I. Lênin đã từng nói: “ Tác dụng của hình phạt không phải ở chỗ hình phạt nặng hay nhẹ mà là ở chỗ bất cứ tội phạm nào cũng phải chịu hình phạt ”. Rõ ràng vấn đề công bằng đã thể hiện rất rõ trong luận điểm này của Lênin. Việc ngăn ngừa các hành vi tội phạm tương tự xảy ra bằng cách áp dụng án tử hình đối với người phạm tội chưa hẳn đã đem lại hiệu quả mong muốn. Bởi lẽ kẻ đáng được răn đe để không tái phạm nữa thì đã được hành quyết. Không ai biết được cảm giác trừng trị bằng hình phạt tử hình nó ghê gớm thế nào trừ người đã gánh chịu nó. Hậu quả tội phạm vẫn cứ được tiếp diễn. Thế nhưng một kẻ tù chung thân đang lãnh án trong trại giam, đang hối cải từng ngày vì hành vi tội lỗi của mình, đôi khi lại là minh chứng sống cho những ai có ý định vi phạm pháp luật. Cái giá phải trả cho sự phạm tội là bị tước đi quyền tự do. Vậy tại sao phải giết một con người khi chính chúng ta tạo ra pháp luật để chúng ta sinh tồn trong xã hội tốt đẹp hơn.

Có thể nói, nhân loại càng tiến bộ, xã hội càng phát triển thì phạm vi áp dụng hình phạt tử hình càng có xu hướng bị thu hẹp. Kết quả thống kê gần đây cho thấy số quốc gia xoá bỏ hình phạt tử hình đang tăng lên. Đối với những quốc gia còn lưu giữ hình phạt tử hình, thì hình phạt này thường chỉ dành cho các tội phạm có tính chất đặc biệt nguy hiểm như xâm phạm an ninh quốc gia, ảnh hưởng đến nền hòa bình thế giới...

Ở nước ta, trong xu thế hội nhập mạnh mẽ, việc xem xét bỏ hình phạt tử hình đối với một số tội hiện có chế tài tử hình được quy định trong Bộ luật hình sự là cần thiết, phù hợp với xu thế chung của thế giới và tình hình cụ thể trong nước, phù hợp với truyền thống đạo lý của ông cha ta. Và hơn bao giờ hết nó là hành động tôn trọng nguyên tắc nhân đạo mà chúng ta đã đặt ra.

Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn khách quan và trên cơ sở quán triệt đường lối chính sách hình sự của Đảng Cộng sản Việt Nam, Chính phủ đã trình Dự thảo luật hình sự sửa đổi, bổ sung một số điều luật của Bộ luật Hình sự năm 1999 tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XII. Dự thảo này đã đề nghị bỏ hình phạt tử hình đối với 7 tội danh, bao gồm: Tội cướp tài sản ( Điều 133), Tội phá hủy công trình, phương tiện an ninh quốc gia ( Điều 321), Tội chống mệnh lệnh ( Điều 316); Tội đầu hàng địch ( Điều 322); Tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược ( Điều 341); Tội chống loài người ( Điều 342); Tội phạm chiến tranh ( Điều 343).

Tội cướp tài sản. Đối với tội danh này, quan điểm cá nhân cho rằng áp dụng hình phạt tử hình là mức cao nhất là không tương xứng. Mục đích của tội cướp tài sản chỉ vì mục đích kinh tế mà xâm phạm quyền sở hữu, không nguy hiểm như hành vi giết người. Thực tiễn xét xử cho thấy, có nhiều tội phạm vì quá túng quẫn nên mới nảy sinh ý định phạm tội, thực hiện hành vi cướp tài sản. Nếu áp dụng hình phạt tử hình đối với họ là quá nghiêm khắc, không thể hiện được mục đích nhân đạo của hình phạt là để cải tạo, giáo dục người phạm tội. Vì vậy, dự thảo sửa đổi, bổ sung BLHS bỏ quy định hình phạt tử hình đối với tội danh này là hợp lý.

Tội phá hủy công trình, phương tiện quan trọng đối với an ninh quốc gia. Ở tội danh này, người phạm tội không có mục đích chống chính quyền nhân dân. Thực tiễn xét xử cho thấy, họ gây thiệt hại cho các công trình, phương tiện công cộng do thiếu hiểu biết, không nghĩ hoặc nhận thức được đó là các công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia. Do đó, những người này đã vô tình xâm hại đến các đối tượng được Nhà nước bảo vệ. Do vậy, việc quy định hình phạt tử hình đối với tội này là không cần thiết và không tương xứng với mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi.

Tội chống mệnh lệnh; Tội đầu hàng địch. Nhìn chung, đây cũng là tội phạm có tính nguy hiểm cao. Tuy nhiên, nếu bỏ qua dấu hiệu về chủ thể đặc biệt (quân nhân), hai tội phạm này không khác gì mấy so với các hành vi xâm phạm trật tự công cộng, trật tự quản lý hành chính....Tội chống mệnh lệnh có thể so sánh với hành vi không chấp hành quyết định, chỉ thị cấp trên trong quản lý hành chính. Trong khi đó hành vi không chấp hành quyết định, chỉ thị của cấp trên không bị coi là tội phạm. Việc nhà làm luật xem các hành vi này là tội phạm chính là sự thể hiện thái độ nghiêm khắc đối với quân nhân, những người đang đảm nhận vai trò quan trọng, có ảnh hưởng trực tiếp đến nền an ninh, quốc phòng của quốc gia. Tuy nhiên vì thế mà áp dụng hình phạt tử hình đối với những tội này là không tương xứng. Vì đây không phải là tội phạm mang tính quốc tế nên các tội phạm này chỉ có tính nguy hiểm đặc biệt cao đối với xã hội chỉ khi đất nước trong giai đoạn chiến tranh. Khi chiến tranh đã lùi xa, các tội phạm này có tính nguy hiểm giảm đi rất nhiều, không đáng phải chịu mức chế tài tử hình.

Xóa bỏ hình phạt tử hình đối với nhóm tội phá hoại hòa bình gây chiến tranh xâm lược; tội chống loài người; tội phạm chiến tranh là hoàn toàn hợp lý. Xuất phát từ truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam không gây chiến tranh xâm lược với các nước khác. Bỏ hình phạt tử hình ở các điều này để phù hợp với Quy chế Rome về tòa án hình sự quốc tế ( mức hình phạt cao nhất đối với 4 tội ác quốc tế chỉ dừng lại ở mức là chung thân hoặc phạt tù cao nhất là 30 năm tù) mà Việt Nam đã tham gia ký kết quy chế. Về chủ thể của tội phạm chủ yếu là người đứng đầu nhà nước, nguyên thủ quốc gia. Do đó khả năng xảy ra các tội phạm này ở Việt Nam là thấp. Trường hợp xảy ra thì rất khó trong hoạt động xử lý tội phạm. Vì người nước ngoài phạm tội ở nước ngoài thì Việt Nam không thể xử lý được. Mà người Việt Nam phạm tội ở Việt Nam là hoàn toàn khó có thể xảy ra. Thực tiễn nước ta chưa có tội phạm nào được thực hiện, nên sửa đổi để phù hợp với quy chế Rome.

III. Kiến nghị trong việc xóa bỏ hình phạt tử hình của một số tội phạm.

Trên cơ sở những luận điểm về mặt lý luận, cũng như căn cứ vào thực tiễn pháp luật và thực tiễn áp dụng hình phạt này, tôi cho rằng, dự thảo sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự năm 1999 liên quan đến việc xóa bỏ hình phạt tử hình ở một số tội phạm vẫn còn có những tồn tại nhất định, cần tiếp tục hoàn thiện:

Thứ nhất, nên loại bỏ hình phạt tử hình đối với Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh ( Điều 157). Xét về tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi này chưa nguy hiểm cho xã hội như hành vi giết người, khủng bổ hay hành vi xâm phạm an ninh quốc gia. Mục đích phạm tội là vi tư lợi và gây thiệt hại cho trật tự quản lý kinh tế. Hình phạt tử hình được tuyên và áp dụng đối với người phạm tội này thì mục đích khắc phục hậu quả do tội phạm kinh tế gây ra là rất khó, mục tiêu thu hồi tài sản sẽ không đạt được. Hơn nữa, thực tiễn xét xử tội phạm này thời gian qua cho thấy, hầu như không có Tòa án nào áp dụng hình phạt tử hình trong trường hợp này. Thực tế cho thấy bởi sự lơi lỏng trong việc quản lý các hoạt động này của các cơ quan chức năng cũng là nguyên nhân chính dẫn tới sự gia tăng của tội phạm này. Do đó, các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cần phải quản lý nghiêm ngặt trong lĩnh vực này thì cơ chế phòng ngừa tội phạm mới có hiệu quả.

Thứ hai, nên xóa bỏ hình phạt tử hình đối với Tội làm, tàng trữ, vận chuyển, lưu hành tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả ( Điều 180). Hiện nay, khoa học – kỹ thuật phát triển đã tạo điều kiện thuận lợi cho tội phạm này phát triển. Tuy nhiên, sự phát triển của khoa học kỹ thuật cũng giúp Nhà nước có thể phát hiện hành vi phạm tội làm tiền giả, ngân phiếu giả, công trái giả một cách dễ dàng. Đồng thời, công nghệ cao cũng tạo điều kiện cho hoạt động thanh toán thông qua tín dụng phát triển mạnh mẽ. Như vậy, nếu các cơ quan quản lý nhà nước nỗ lực phối hợp với hệ thống ngân hàng tổ chức tuyên truyền, phổ biến về tác hại và cơ sở nhận biết đâu là tiền giả, ngân phiếu, trái phiếu giả với tiền thật, ngân phiếu, trái phiếu thật; đồng thời tăng cường dịch vụ thanh toán thông qua tín dụng thì các hành vi phạm tội này ít có cơ hội tồn tại. Do đó, việc duy trì hình phạt tử hình đối với tội này là không cần thiết.

Thứ ba, Dự thảo Bộ luật Hình sự khi loại bỏ hình phạt tử hình đối với tội phạm nào đó nên tính đến các biện pháp cưỡng chế để thay thế, để đảm bảo phòng ngừa triệt để sau này. Theo quan điểm cá nhân có thể áp dụng một trong hai phương án: (1) Khi loại bỏ hình phạt tử hình với một loại tội nào đó nhà làm luật nên nghiên cứu thay thế bằng hình phạt khác, thông thường đó là hình phạt tù chung thân không được giảm án, chứ không phải là hình phạt tù chung thân thông thường. (2) Vẫn cho người bị kết án chung thân về loại tội phạm đó được hưởng các chế định giảm thời hạn chấp hành hình phạt hoặc đặc xá thì cần quy định “thời kỳ an toàn”, hoặc phóng thích có điều kiện (như một số nước đang áp dụng), tức là khi áp dụng những biện pháp trên đối với người bị kết án, thì họ buộc phải thực hiện những điều kiện (nghĩa vụ) trong một khoảng thời gian nhất định dưới sự giám sát và trợ giúp của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền, nhằm tạo thuận lợi cho họ cải tạo và tái hòa nhập xã hội.

Thứ tư, pháp luật hình sự có mối quan hệ chặt chẽ với các ngành luật trong hệ thống pháp luật về đấu tranh phòng, chống tội phạm. Cho nên, việc hoàn thiện pháp luật hình sự nói chung và hoàn thiện chế định hình phạt tử hình nói riêng cần phải tiến hành đồng thời với việc cải cách hệ thống tư pháp hình sự và đổi mới một cách đồng bộ, thống nhất các chế định thuộc pháp luật tố tụng hình sự và pháp luật thi hành án hình sự của nước ta. Nếu không sẽ dẫn đến tình trạng để lại hoặc tạo ra những lỗ hổng, khoảng trống, không được pháp luật điều chỉnh, hoặc có sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa các quy định của pháp luật, ảnh hưởng đến các yêu cầu của thực tiễn công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm. Vì thế, bất cứ việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện nào liên quan đến chế định hình phạt tử hình cũng phải đi liền với việc nghiên cứu, rà soát, đối chiếu với các đạo luật có liên quan. Nói cách khác, hệ thống các quy định về hình phạt tử hình phải được hoàn thiện đồng bộ với các pháp luật có liên quan, nhất là với pháp luật tố tụng hình sự, pháp luật thi hành án hình sự.

Vì vậy, chế định hình phạt tử hình là một trong những chế định quan trọng của pháp luật hình sự, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, khi mà hình phạt tử hình trở thành một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá sự tiến bộ của một quốc gia. Do vậy, chủ trương hoàn thiện pháp luật về hình phạt tử hình và hạn chế phạm vi của hình phạt tử hình là một chủ trương hoàn toàn đúng đắn của Đảng ta, phù hợp với xu thế của thế giới và tình hình của Việt Nam. Tuy nhiên, việc xem xét xóa bỏ hình phạt tử hình đối với các loại tội phạm nào cần có sự cân nhắc thận trọng và cần dựa vào tính nguy hiểm cho xã hội của loại tội phạm đó. Ngoài ra, chúng ta cũng cần phải học hỏi kinh nghiệm của các nước trong lộ trình xóa bỏ hình phạt tử hình.

Danh mục tài liệu tham khảo

1. Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2009.

2. Giang Văn Quyết, Nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự và vấn đề áp dụng án tử hình ở Việt Nam, Đại học quốc gia Hà nội.

3. Lê Văn Cảm – Nguyễn Thị Lan, Hình phạt tử hình trong pháp luật hình sự Việt Nam: Giữ nguyên hay cần giảm và tiến tới loại bỏ, Tạp chí khoa học đại học quốc gia Hà Nội, Số 3, Tập 30, Tr. 1 – 14.

4. Nguyễn Ngọc Chí, Một số suy nghĩ về hình phạt tử hình trong Luật hình sự Việt Nam, Tạp chí khoa học đại học quốc gia Hà nội, 28( 2012), tr. 42 – 48.

Thế nào là hình phạt từ tử hình?

Tử hình là hình phạt đặc biệt, tước đi quyền được sống của người bị kết án theo quy định của pháp luật, chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng trong trường hợp việc áp dụng các hình phạt khác không đáp ứng yêu cầu phòng, chống tội phạm, thuộc một trong nhóm các tội xâm phạm an ninh quốc gia , xâm phạm ...

Tử hình ở Việt Nam tốn bao nhiêu tiền?

Như đã biết hình thức tử hình bằng tiêm thuốc độc là hình thức gây tốn kém rất nhiều cho kinh phí nhà nước. Thay vì tốn 15 triệu khi tử hình bằng xử bắn thì nhà nước phải tốn từ 200 triệu đến 300 triệu cho hình thức tử hình bằng tiêm thuốc độc.

Tội gì thì tử hình?

Tử hình là hình phạt đặc biệt chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng thuộc một trong nhóm các tội xâm phạm an ninh quốc gia, xâm phạm tính mạng con người, các tội phạm về ma túy, tham nhũng và một số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác do Bộ luật hình sự 2015 quy định.

Tử hình là như thế nào?

(LSVN) – Tử hình là một loại hình phạt truyền thống có từ lâu đời ở Việt Nam, đây có thể coi là hình phạt đặc biệt và nghiêm khắc nhất, tước đi quyền sống của người bị kết án và chỉ được áp dụng đối với người phạm tội có tính chất nguy hiểm đặc biệt cao cho xã hội.