Học vnen là gì

Mô hình trường học mới vnen là gì là một trong những từ khóa được search nhiều nhất về chủ đề Mô hình trường học mới vnen là gì trong bài viết này, toludenim.com sẽ viết bài Mô hình trường học mới vnen là gì – Ưu nhực điểm của mô hình trường học vnen

Chương trình dạy bảo VNEN là gì? Chương trình giáo dục VNEN là mô ảnh trường học mới khởi nguồn từ Côlômbia từ những năm 1995-2000 để dạy học trong những lớp ghép ở vùng miền núi chông gai, theo quy tắc lấy học sinh làm trung tâm.Bạn đang xem: Chương trình vnen là gìDự án Mô hình trường học mới tại VN [Dự án GPE-VNEN, Global Partnership for Education – VNEN viết tắt của từ Việt Nam Escuela Nueva] là một Dự án về sư phạm nhằm xây dựng và nhân rộng một kiểu mô hình nhà trường tiên tiến, hiện đại, thích hợp với mục đích phát triển và đặc điểm của giáo dục Việt Nam.

Bạn đang xem: Vnen là gì

Mô hình trường học mới khởi nguồn từ Côlômbia từ những năm 1995-2000 để dạy học trong những lớp ghép ở vùng miền núi chông gai, theo nguyên tắc get học sinh làm trung tâm. Mô ảnh này vừa kế thừa những mặt tích cực của mô ảnh trường học truyền thống, vừa có sự đổi mới căn bản về mục tiêu training, nội dung chương trình, tài liệu học tập, phương thức dạy – học, cách đánh giá, phương pháp tổ chức quản lí lớp học, cơ sở vật chất giúp sức cho dạy – học…



Chương trình giáo dục VNEN là gì?

Mô ảnh trường học mới Vnen có một số đặc điểm nổi bật như:

Hoạt động học của học sinh được coi là trung tâm của quá trình dạy học.giáo viên với vai trò là người chỉ dẫn học, quan tâm đến sự không giống biệt trong việc tiếp thụ văn hóa của học sinh.Việc nghiên cứu học sinh tiếp tục theo công cuộc học tập nhằm kiểm tra và hướng dẫn phương thức học tập có kết quả – cách thức học tập là một yêu cầu quan trọng.Phải thiết lập nơi học tập cởi mở, gần gũi, kết quả.Sách giáo khoa gọi là tài liệu tut học được design cho học sinh hoạt động, tự học, học nhóm; sách biên soạn cho 3 trong 1, nghĩa là sách dùng chung cho cả giảng viên, học sinh và cha mẹ học sinh.Hoạt động học tập của học sinh k đóng khung trong bốn bức tường lớp học, mà phải giúp học sinh “vận dụng” và “tìm tòi, mở rộng” ra bên ngoài. Đây là các hoạt động giao cho học sinh thực hiện ở ngoài lớp học, giáo viên k tổ chức dạy học hoàn toàn trên lớp.

content các hoạt động này trong ebook tut học chỉ là những yêu cầu, định hình và ví dụ về công thức thực hiện, mô tả món hàng học tập phải hoàn thành… để học sinh tự phát hiện, lựa chọn tình huống thực tiễn nhằm ứng dụng văn hóa – kỹ năng đã học được trong bài học; tìm hiểu xây dựng rộng thêm theo sở like, sở trường, hứng thú của mình. Còn giảng viên có vị trí mới, được bồi dưỡng thường xuyên để nâng cao trình độ tác nghiệp, cung cấp vai trò là người tut, đơn vị hoạt động học tập, giáo dục, đánh giá học sinh và kết hợp với cha mẹ học sinh, với cộng đồng. Nên nhà trường phải thiết lập mối liên hệ chặt chẽ với cha mẹ học sinh và cộng đồng.

Những nhược điểm của mô ảnh VNEN

+ số lượng học sinh trong lớp quá đông k thể vận dụng vì không có cánh cửa. tỉ lệ thích hợp từ 25 đến 30 em, nhiều trường ngày nay có lớp trên 40 em.

+ Phụ huynh sẽ mang thêm gánh nặng về kinh phí, mua sách, tham gia xây dựng các công cụ hỗ trợ cho hội đồng tự quản, đồ dùng dạy và học… ở những vùng nghèo phụ huynh khó đáp ứng được.

+ Học sinh tiểu học còn nhỏ khó tự quản được hướng dẫn học nhóm [nhận xét, phân tích, báo cáo…]. Học sinh lớp 2, 3 khó có thể điều khiển lớp học giống như một giảng viên. Những cộng việc này ngay đến học sinh THCS cũng khó thực bây giờ sao lại ép học sinh tiểu học thực hiện.

+ Để học được theo mô hình VNEN thì học sinh phải sẵn sàng bài ở nhà. Vậy ngoài việc học 7 tiết ở trường thì về nhà mỗi ngày học sinh cũng dành khoảng 2-3 giờ để sẵn sàng bài. Điều này trái với qui định k giao bài về nhà cho học sinh và tác động đến việc sinh hoạt khác.

+ Khi đơn vị ngồi học theo group các em quay mặt vào nhau. Nhưng khi cô giáo giảng bài hay khi các bạn trình bày trên bảng thì một số em quay đầu Quan sát lên ở một tư thế khó khăn. đủ nội lực gây bệnh về cột sống cho học sinh.

Xem thêm: Tiểu Sử Ông Phùng Quang Hải Là Ai, Tổng Công Ty 319 Và Cha Con Phùng

+ Khi dạy học mô hình VNEN giảng viên giao việc học tập cho các nhóm, hoạt động giữa các nhóm không hoàn toàn đồng bộ, sẽ có những học sinh yếu kém, trong khi đó giáo viên lại mất nhiều thời gian kiểm tra trong nhóm, không có quá đủ điều kiện để theo dõi hết các hoạt động của các em, giống như thế sẽ khó chỉ dẫn thêm cho những học sinh yếu. Chỉ có một hai học sinh trong lớp là tích cực hoạt động và hiểu được bài. Còn các em thụ động, nhút nhát thì khó nắm bắt được bài.

+ Khi dạy học mô hình VNEN học sinh tự do chạy đến góc này, chạy sang góc kia, thảo luận một phương pháp tự do, thoải mái trong giờ học không phải ngồi ngay ngắn, im lặng răm rắp hướng về phía giảng viên. Nhưng điều này sẽ tạo một k khí lớp ồn ào, khó làm chủ, tác động đến các group không giống và giáo viên khó nắm bắt được các em có làm việc đúng với Nhiệm vụ mình ra hay không?

+ Để dạy học theo mô ảnh VNEN thì cần phải có Bộ tài liệu. Học sinh không học theo bộ sách giáo khoa hiện hành mà theo bộ sách được soạn lại. Bộ tài liệu này được coi là “3 trong 1” khi cả học sinh, giáo viên và phụ huynh đều đủ nội lực sử dụng làm ebook học tập và giảng dạy. Nếu không có Bộ ebook này thì nhà trường không thể dạy học theo mô hình trường học kiểu mới VNEN.

Chương trình dạy bảo VNEN được áp dụng từ khi nào?

Dự án mô ảnh trường học mới VNEN bắt đầu khai triển từ năm học 2011-2012. Đến nay nhiều địa phương đang xin dừng xây dựng rộng chương trình này vì có nhiều bất cập trong giảng dạy và học tập.

Cấu trúc bài học mô hình VNEN:

+ Mô ảnh VNEN giữ nguyên nội dung, phù hợp kiến thức, kĩ năng theo chương trình của Bộ dạy bảo và training. Các môn học được tích hợp và giúp support nhau trong việc giáo dục học sinh, các môn học được chuyển thành hoạt động dạy bảo vừa mới sử dụng giảm bớt gánh nặng trong học tập cho các em.

+ Bài học mô ảnh VNEN được cấu trúc theo một đơn vị kiến thức hoàn chỉnh, nhằm giải quyết trọn vẹn, liên tục một vấn đề: hình thành, củng cố, áp dụng, áp dụng văn hóa vào thực tiễn.

+ Bắt đầu của mỗi hoạt động đều có một hình vẽ [logo] cùng với những “lệnh” thực hiện để học sinh không khó khăn nhận ra yêu cầu và các hình thức đơn vị thực hiện hoạt động học tập [học một mình, theo cặp, group nhỏ hoặc toàn lớp]. design của ebook rất tiện cho giáo viên và học sinh trong hoạt dộng dạy và học. đầy đủ nơi ảnh và nơi chữ rõ ràng giúp học sinh dễ hiểu, giúp học sinh tiếp cận bài một hướng dẫn dễ dàng.

Phân tích học sinh:

Phân tích hiệu quả học tập các môn học và hoạt động dạy bảo theo phù hợp văn hóa kĩ thuật trong chương trình cấp tiểu học và các năng lực quan trọng được tạo dựng qua mô hình trường học mới: tự học; làm việc cá nhân; làm việc theo nhóm; giao tiếp; áp dụng kiến thức vào cuộc sống; chia sẻ; hợp tác; tự đánh giá; đánh giá hiệu quả học tập của bạn; thực hiện các hoạt động theo mô ảnh VNEN. nghiên cứu được tiến hành:

+ Đánh giá tiếp tục được tiến hành theo tiến trình bài học và các hoạt động dạy bảo hàng ngày bằng thể loại nhận xét.

+ Thực hiện chương trình VNEN xây dựng ra thời cơ để sự phối hợp nhà trường với các đoàn thể, giữa giáo viên với phụ huynh và cộng đồng không gian. Phụ huynh trực tiếp tham dự giáo dục con em mình, trực tiếp tham gia đánh giá con em mình thông qua việc thực hành kĩ thuật của con em.

Dự án mô hình giáo dục mới VNEN tại Việt Nam là mô hình giáo dục nhằm xây dựng và mở rộng kiểu trường học tiên tiến, hiện đại phù hợp với mục tiêu phát triển giáo dục. Mô hình trường học mới này được khởi xướng bởi Clara Victoria Colbert, bắt nguồn từ Colombia để áp dụng vào các chương trình giáo dục cho những lớp học ghép tại khu vực miền núi khó khăn, lấy học sinh làm trung tâm chính là nguyên tắc chính của mô hình giáo dục mới này. Mô hình giáo dục mới này được kế thừa những mặt tích cực của môi trường học truyền thống kết hợp với việc đổi mới căn bản về nội dung chương trình, mục tiêu đào tạo, phương pháp giảng dạy, tài liệu học tập, cách đánh giá, cách quản lý, các cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất,...

Mô hình giáo dục mới VNEN có rất nhiều đặc điểm nổi bật: lấy hoạt động học tập của sinh viên làm trung tâm, giáo viên chỉ đảm nhiệm vai trò là người hướng dẫn. Thường xuyên đánh giá năng lực học sinh trong quá trình học tập và hướng dẫn phương pháp học tập mới nhằm đánh giá phương pháp giáo dục mới có đạt hiệu quả. Các cơ quan quản lý giáo dục phối hợp với nhà trường, giáo viên trong trường cùng nhau xây dựng môi trường học tập cởi mở, thân thiện, hiệu quả. Sách giáo khoa cho mô hình giáo dục mới này là tài liệu hướng dẫn được thiết kế cho học sinh thực hiện các hoạt động, tự học, học nhóm, sách biên soạn cho 3 trong 1, nghĩa là sách dùng chung cho cả giáo viên, học sinh và cha mẹ học sinh. Hoạt động học tập của học sinh sẽ không còn phải đóng khung trong 4 bức tường nữa, giáo viên sẽ giúp học sinh “vận dụng” và “tìm tòi, mở rộng” ra bên ngoài. Đây là một trong những hoạt động cần giao cho học sinh thực hiện ngoài giờ lên lớp, giáo viên không nên tổ chức dạy học hoàn toàn trên lớp.

Trong nội dung các hoạt động này, giáo viên thường xuyên được bồi dưỡng nâng cao trình độ tác nghiệp để có đủ điều kiện đáp ứng vai trò là người hướng dẫn, tổ chức học tập và giáo dục, đánh giá năng lực học sinh, phối hợp với các bậc phụ huynh và cộng đồng. Còn các tài liệu học tập chỉ là những hướng dẫn, gợi ý về những phương pháp thực hiện,... từ đó học sinh có thể tự lựa chọn tình huống thực tiễn, áp dụng các kiến thức đã học vào thực tiễn đó.

Trên thực tế cho thấy có 5 triệu trẻ em trên toàn cầu đang theo học mô hình giáo dục này. Đối tượng cụ thể là: trẻ em nông thôn, miền núi, ghép độ tuổi, trình độ học vấn khác nhau, sỹ số lớp học không quá đông. Tại Việt Nam dự án giáo dục mới này được triển khai từ năm 2012 – 2013, được áp dụng ở cả khu vực thành phố và nông thôn cụ thể là: 54 tỉnh [thành phố], 2,365 trường tiểu học, 1000 Trường Trung học cơ sở. Mục đích của phương pháp giáo dục mới này là: học theo tốc độ phù hợp với trình độ nhận thức, chú trọng tự học, làm việc nhóm, nâng cao kiến thức đời sống và kĩ năng mềm, có giáo viên biết chủ động và linh hoạt,...

Tuy nhiên, mô hình giáo dục mới VNEN này lại có khá nhiều bất cập, nhược điểm:

- Mô hình giáo dục mới này chỉ áp dụng cho lớp học có số lượng học sinh vừa phải, số lượng học sinh thích hợp cho một lớp học đó từ 25 – 30 học sinh thế nhưng nhiều trường học hiện nay số lượng lên tới 40 học sinh. Chính vì vậy, không thể áp dụng mô hình học này vì không có không gian.

- Với mô hình giáo dục mới đòi hỏi phải có sự đầu tư về vật chất, phụ huynh sẽ phải gánh thêm nhiều khoản kinh phí, thế nhưng ở những khu vực nghèo khó như miền núi, phụ huynh không có khả năng đáp ứng được vấn đề này.

- Áp dụng mô hình giáo dục mới VNEN này vào cho học sinh tiểu học khó có thể đạt hiệu quả vì học sinh tiểu học còn quá nhỏ để có thể tự quản cách học nhóm [nhận xét, đánh giá, báo cáo,...]. Những phương pháp này khi áp dụng cho học sinh cơ sở còn khó thực hiện thì học sinh tiểu học không thực hiện được là điều đương nhiên.

- Để có thể đáp ứng được mô hình học mới VNEN thì học sinh cần phải chuẩn bị bài ở nhà, tức là ngoài việc học 7 tiếng trên lớp, về nhà học sinh phải dành ra 2 – 3 tiếng để tự học và tự chuẩn bị bài. Điều này lại trái với quy định của Bộ giáo dục không giao bài về nhà cho học sinh.

- Khi cho học sinh làm các hoạt động nhóm, sẽ có những học sinh yếu kém, lại có những học sinh thông minh tiếp thu kiến thức học tập khá nhanh, chính vì thế mà việc hoạt động nhóm không hoàn toàn đồng bộ. Bên cạnh đó, giáo viên phải mất thêm nhiều thời gian để kiểm tra các hoạt động nhóm của học sinh. Với mô hình học mới này thì chỉ có vài em học sinh trong lớp học tập tốt, còn lại thụ động, nhút nhát, khó nắm bắt bài vở.

- Với hình thức hoạt động nhóm, giáo viên hướng dẫn rất khó có thể kiểm soát được học sinh trong lớp, học sinh sẽ tự do chạy đi chạy lại trong lớp học, khiến cho lớp học ồn ào, khó kiểm soát và ảnh hưởng đến những bạn học xung quanh, chính vì vậy giáo viên khó có thể nắm bắt được học sinh có đang làm đúng nhiệm vụ hay không.

- Với mô hình giáo dục mới VNEN này, học sinh cần phải có bộ tài liệu “3 trong 1” thì mới có thể học tập. Sẽ không thể áp dụng mô hình giáo dục mới VNEN nếu như học sinh và giáo viên không có bộ tài liệu này.

2. Mô hình trường học mới VNEN ở nước ta

2.1. Mô hình giáo dục mới VNEN ồ ạt rồi bất ngờ dừng lại

Mô hình giáo dục mới VNEN đã trở thành nỗi ám ảnh cho giáo viên, phụ huynh và học sinh. Thế nên có rất nhiều phụ huynh đã cố gắng chọn cho con mình một trường học không áp dụng mô hình giáo dục mới, nhiều phụ huynh đang có con học bậc Trung học cơ sở cũng phản ứng và quyết định xin cho con ra khỏi chương trình học này.

Được biết mô hình giáo dục mới này được Qũy hỗ trợ giáo dục toàn cầu tài trợ cho Việt Nam nghiên cứu, vận dụng và triển khai. Có cơ quan giám sát và điều phối là UNESCO, với thời gian triển khai là 41 tháng [từ 1/2013 đến hết tháng 5/2016]. Vào năm học 2011 – 2012 thí điểm tại 6 tỉnh: Lào Cai, Hòa Bình, Hà Giang, Kon Tum, Đắc Lắc, Khánh Hòa] cho 12 huyện, 24 trường học và 48 lớp 2, và dự này chính thức được triển khai vào năm 2012 – 2013 trên toàn quốc.

Do thời gian đầu khi mới thực thi mô hình học mới này nước ta nhận được nguồn tài trợ nên các trường được thí điểm mô hình học này được đầu tư, cung cấp đầy đủ các trang thiết bị, cơ sở vật chất. Sau đấy, nhiều địa phương ồ ạt mở rộng thêm mô hình học này, nhưng lúc này kinh phí phục vụ cho mô hình giáo dục này phải tự lo.

2.2. Mô hình giáo dục mới VNEN ở nước ta

Theo kết quả rà soát tại Hà Tĩnh cho thấy, phần lớn các bậc phụ huynh đều không chấp nhận cho con mình học theo mô hình giáo dục mới VNEN. Trường tiểu học Cẩm Quang [Cẩm Xuyên - Hà Tĩnh] được lựa chọn là trường thí điểm mô hình VNEN. Nhưng phần lớn các bậc phụ huynh học sinh của trường học này đều phản đối. Không phải ngẫu nhiên phần lớn phụ huynh lại phải đối mô hình học mới này. Hội đồng của tỉnh thẳng thắn chia sẻ: “phụ huynh đã được trực tiếp quan sát mô hình học mới này, quan sát giáo viên áp dụng vào giảng dạy như thế nào? Nhìn chung các tiết dạy đều tổ chức theo một mô típ, khiến cho tiết học trở nên cứng nhắc, thiếu linh hoạt, không thu hút được học sinh, nó giống như một cỗ máy được lập trình sẵn”.

Mặt khác, theo thống kê cho thấy: năm học 2016 – 2017, cả nước có 4.393 trường tiểu học [29,2%] với 1.542.863 học sinh tiểu học [19,8%] theo mô hình VNEN. Tổng số tiền chi trả cho bộ tài liệu theo mô hình học mới này lên tới 400 tỉ đồng. Vấn đề cần đặt ra đó là, ngoài việc giá sách cao gấp 3 so với sách hiện thành, trong khi đó sách chỉ bản có độc quyền thông qua Giáo dục. Có thể kết luận việc theo mô hình giáo dục mới VNEN còn quá nhiều bất cập, đấy chính là nguyên nhân vì sao mô hình học này đang sụp đổ dần dần tại Việt Nam.

3. Nguyên nhân dẫn đến thất bại của chương trình VNEN

Cho đến thời điểm này có thể khẳng định việc theo mô hình giáo dục mới VNEN đã thất bại, đi vào ngõ cụt và không có phương pháp cứu vớt. Theo sát quá trình thực hiện và áp dụng chương trình VNEN kể từ ngày triển khai cho đến nay, bản thân chúng tôi nhận thấy việc thất bại của chương trình học mới này xuất phát từ những nguyên nhân cơ bản sau:

- Thứ nhất: Dự án mô hình giáo dục mới VNEN được giao cho những người thầy chuẩn bị về hưu nên tinh thần làm việc của học chỉ là “đóng góp” cho quá trình còn đang công tác, họ không có trách nhiệm lâu dài cho việc này nên thái độ làm việc, áp dụng mô hình học mới này rất hời hợt, thiếu trách nhiệm. Những người thực hiện kế hoạch này còn thiếu tính kiên định, mục tiêu làm được đề ra theo kiểu “đẽo cày giữa đường” khiến cho việc thực hiện bị thất bại.

- Thứ hai: làm việc không tới nơi là một trong những tác phong làm việc thiếu trách nhiệm của nước ta. Vì thực hiện theo dự án nên khi hết thời gian và kinh phí của dự án nên người ta cũng buông bỏ giữa chừng. Cụ thể là, các trường học ban đầu hào hứng với mô hình học mới thì có chi phí hỗ trợ, đầu tư. Hết dự án, Bộ đưa ra những hướng dẫn nửa vời nên các trường, địa phương họ cũng không còn thiết tha với mô hình học mới VNEN này nữa.

- Thứ ba: công tác tập huấn, bồi dưỡng cho giáo viên đứng lớp chưa chu đáo, tỉ mỉ, tường tận nên khi áp dụng vào giảng dạy luôn ở trạng thái nửa vời, hướng về chương trình giảng dạy cũ, hững hờ với mô hình học mới VNEN.

- Thứ tư: Tài liệu “3 trong 1” giảng dạy theo mô hình VNEN quá đắt, đắt hơn so với bộ sách giáo khoa hiện hành. Bên cạnh đó, nội dung học tập năm nào cũng chỉnh sửa, bổ sung, thành ra tài liệu học theo mô hình mới chỉ học được trong 1 năm rồi bỏ. Chính điều này đã khiến cho các bậc phụ huynh chán ngán, tẩy chay vì phải bỏ một khoản lớn ra để đầu tư cho con học tập mà thu lại kết quả học tập không hiệu quả.

- Thứ năm: Bộ giáo dục không chịu lắng nghe những đóng góp ý kiến của xã hội để điều chỉnh sao cho phù hợp phát triển mô hình học mới.

Những người thực hiện kiến tập chương trình giáo dục mới phải là những người biết chịu trách nhiệm, dám đương đầu với khó khăn, phải có một đội ngũ chuyên gia biết lắng nghe và giải đáp những khúc mắc của xã hội để có thể nhận được sự đồng thuận từ nhiều phía. Bên cạnh đó cũng cần phải tính đến sự hài hòa lợi ích giữa các thành phần liên quan. Đừng để chương trình mô hình giáo dục mới VNEN ảnh hưởng đến cả một thế hệ tương lai của đất nước.

Trên đây là những chia sẻ của chúng tôi về mô hình giáo dục mới VNEN. Hy vọng bài viết “Một số vấn đề cần biết về mô hình trường học mới VNEN tại nước ta” có thể cung cấp đầy đủ những thông tin cần thiết cho bạn đọc!

>> Bài viết liên quan:

Video liên quan

Chủ Đề