Khái niệm tục lệ là gì

You are watching: Khái Niệm Phong Tục Là Gì ? in indembassyhavana

Phong tục [custom] là gì? Phong tục trong tiếng Anh là gì? Vai trò của phong tục, tập quán trong đời sống xã hội?

Toàn bộ những hoạt động sống của con người đã được hình thành trong quá trình lịch sử và ổn định thành nền nếp, được cộng đồng thừa nhận và tự giác thực hiện, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, tạo nên tính tương đối thống nhất của cộng đồng, hình thành nên phong tục. Vậy, phong tục là gì? Vai trò của phong tục, tập quán trong đời sống xã hội như thế nào?

1. Phong tục là gì?

Phong tục là toàn bộ những hoạt động trong sinh hoạt của con người được hình thành và tạo lập trong quá trình lịch sử và ổn định thành nề nếp, được cộng đồng thừa nhận, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Phong tục không mang tính cố định, bắt buộc như nghi thức, nghi lễ nhưng cũng không tùy tiện như hoạt động sống thường ngày. Nó trở thành một tập quán xã hội tương đối bền vững và tương đối thống nhất.

Đang xem: Khái niệm phong tục là gì

Phong tục có thể ở một dân tộc, địa phương tầng lớp xã hội hay thậm chỉ một dòng họ, gia tộc. Phong tục là một bộ phận của văn hóa và có thể chia thành nhiều loại. Hệ thống phong tục liên quan đến vòng đời của con người, như phong tục về sinh đẻ, trưởng thành, cưới xin, mừng thọ và lên lão… Hệ thống phong tục liên quan đến hoạt động của con người theo chu kỳ thời tiết trong năm, hệ thống phong tục liên quan đến chu kỳ lao động của con người, mà với cư dân nông nghiệp là từ đất gieo hạt, cấy hái đến thu hoạch, với ngư dân là theo mùa đánh bắt cá,… Hệ thống các phong tục liên quan đến hoạt động của con người theo chu kỳ thời tiết trong năm như phong tục mùa xuân, mùa hè, mùa thu, mùa đông. Phong tục là một bộ phận của văn hóa, có vai trò quan trọng trong việc hình thành truyền thống của một dân tộc, một địa phương, nó ảnh hưởng, thậm chí chế định nhiều ứng xử của cá nhân trong cộng đồng. Phong trào được tuân thủ theo quy định của luật tục hay hương ước. Người vi phạm có thể bị phạt vạ. Cùng với sự phát triển của xã hội, một số phong trào không còn phù hợp với thời đại mới, bị đào thải, trong khi một số phong trào mới được hình thành.

Ở Việt Nam, cuộc vận động xây dựng gia đình, làng xóm, phường, khu dân cư văn hóa mới nhằm loại trừ các phong trào lỗi thời, duy trì và phát triển các phong trào tốt đẹp, bước đầu đã mang lại những kết quả tích cực trong việc xây dựng đời sống văn hóa mới của các tầng lớp nhân dân. Những phong tục ở Việt Nam rất đa dạng, có thể kể đến như: các phong tục cưới hỏi như bánh phu thê, tục thách cưới, các thủ tục của cô dâu trước khi về nhà chồng, lễ xin dâu, mẹ cô dâu không đi đưa dâu, phù dâu, thủ tục khi đàn bà tái giá,… Các phong tục sinh dưỡng như dạy con từ thuở bào thai, tục xin quần áo cũ của trẻ sơ sinh, “con so về nhà mạ, con rạ về nhà chồng”, con mới đẻ không đặt tên chính, tuổi trong khai sinh không đúng với tuổi thực,… Các phong tục về giao thiệp như “lời chào cao hơn mâm cỗ”, “tóc thề”, tục bán mở hàng, tục nhuộm răng, “miếng trầu là đầu câu chuyện”. đạo thầy trò,… Các phong tục về đạo hiếu như tục khao lão, yến lão, “ruộng hương hỏa”, tộc trưởng, bàn thờ vọng, “hợp tự”, gia phả,… Các phong tục về lễ tang như “thọ mai gia lễ”, “ba cha tám mẹ”, “chúc thư”, “cư tang”, “mũ đai gai chuối và chống gậy”, “năm hạng tang phục”, cha mẹ không đưa tang con, các phong tục khi đám tang trong ngày tết, đi đường gặp đám tang, tục hú hồn trước khi nhập quan, lễ an táng, lễ ba ngày, lễ cúng cơm trong trăm ngày, tục đốt vàng mã, chiêu hồn nạp táng, hình nhân thế mạng,…

2. Phong tục trong tiếng Anh là gì?

Phong tục trong tiếng Anh là: “Custom“.

3. Vai trò của phong tục, tập quán trong đời sống xã hội

Phong tục mang lại nhiều ý nghĩa đối với đời sống xã hội và đối với chế độ quản lý của Nhà nước:

– Phong tục làm cho sắc thái văn hóa trở nên đa dạng, phong tục giúp chúng ta phân biệt được cộng đồng này, dân tộc này, nước này khác với cộng đồng khác, dân tộc khác, nước khác. Sống đúng với phong tục của nước mình, dân tộc mình mới là sống đúng với truyền thống. Phong tục Việt Nam nói chung và các phong tục của dân tộc thiểu số trên lãnh thổ Việt Nam nói riêng là một đề tài vô tận, bởi nước ta có 54 dân tộc với rất nhiều phong tục, nghi lễ văn hóa khác nhau. Có thể nói, phong tục là nét đặc trưng của một quốc gia, một dân tộc, thậm chí là một làng, một xã, một thôn, một gia đình,…

– Phong tục là một trong những “thiết chế” tự sinh nhằm giúp cho hệ thống những người có cùng phong tục hình thành nên cùng một thói quen, một lối sống được xem là nền nếp, đạo đức, văn minh, tiến bộ. Phong tục được hình thành từ đời này sang đời khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác, tạo nên sự duy trì về những giá trị tốt đẹp, để những thói quen tốt được không bị mai mọt mà được lưu giữ và phát triển ngàn năm. Chính vì lẽ đó mà phong tục ngày càng phát triển, không chỉ giới hạn trong một phạm vi cộng đồng dân cư cụ thể mà có còn lan truyền và được tiếp thu từ thôn này sang thôn khác, xã này sang xã khác, huyện này sang huyện khác, tỉnh, thành phố này sang tỉnh, thành phố khác, từ miền này sang miền khác,… mở rộng phạm vi lên đến cả nước, tạo nên những giá trị tốt đẹp khẳng định giá trị của Việt Nam trên cả trường quốc tế, là một trong những giá trị mà không phải quốc gia nào cũng đạt được, kể cả các cường quốc phát triển trên thế giới.

Xem thêm: Sở Văn Hóa Thể Thao Và Du Lịch Phú Thọ, Sở Văn Hoá, Thể Thao Và Du Lịch Tỉnh Phú Thọ

– Việc duy trì các nếp sống để trở thành phong tục là một điều mang ý nghĩa cả về mặt ý thức lẫn tâm linh. Đối với một số phong tục như lì xì đầu năm, xin chữ hay chúc tế, phong tục thờ cúng gia tiên, phong tục “Lễ ba ngày”, phong tục an táng người chết, phong tục về cưới hỏi,… tất cả đều là niềm tin của người dân dành cho những tín ngưỡng, những lưu truyền của cha ông ta từ ngàn đời cho đến nay. Đồng thời, việc duy trì những phong tục thường niên này tạo niềm tin cho những người thực hiện rằng sẽ có được những điều tốt lành, sẽ được ông bà trên cao ủng hộ, được mọi người yêu mến và học hỏi, từ đó, tạo nên một niềm tin nội tâm mãnh liệt, tạo thành động lực cho từng người luôn tin vào những điều tốt đẹp, luôn tin vào cuộc sống, có ý chí vươn lên, không bao giờ từ bỏ và cũng không để bản thân vướng vào những điều đen tối.

– Phong trào xây dựng nếp sống văn hóa mới hiện nay, không chỉ đơn thuần dựa vào ý nghĩ chủ quan mà phải biết vận dụng thuần phong mỹ tục vào nếp sống, nếp suy nghĩ, hành động, cách đối nhân xử thế, hợp với trào lưu tiến hóa. Có những phong tục cổ truyền xuất xứ từ kinh nghiệm thực tiễn trong cuộc sống thời xưa, đến nay không hợp thời nữa, trở thành đồi phong bại tục, ta cũng cần nghiên cứu để biết nguyên do, từ đó mới vận dụng cho thích hợp với hiện tại và tương lai, hoặc tìm những phong tục hay để bổ kết mà loại trừ dần những cái dở. Chính đặc tính này của phong tục mà những giá trị tốt đẹp luôn được lưu giữ và truyền lại, còn những điều không còn phù hợp với thời đại nữa như phong tục nhuộm răng, phong tục rải tiền vàng mã, phong tục cướp vợ ở các đồng bào dân tộc thiểu số, phong tục về ma chay cưới hỏi ở một số đồng bào vùng sâu vùng xa,… đều bị loại trừ hoặc được cải tiến thành những cái tốt đẹp hơn.

– Phong tục cũng góp phần không nhỏ trong ổn định trật tự xã hội, đóng góp một phần lớn trong việc quản lý và quán triệt đời sống xã hội của những người đứng đầu trong một nhóm cộng đồng dân cư. Việc hình thành phong tục đã là một yếu tố tiên quyết để những người trong cùng một cộng đồng dân cư thống nhất với nhau về tư tưởng, cùng nhau hành động theo một hướng, tạo nên sự ổn định nhất định trong đời sống. Từ đó, những người đứng đầu là những người có trách nhiệm quản lý một cộng đồng dân cư có thể dựa theo những phong tục đó để có những quyết sách quản lý phù hợp, cũng có những ý tưởng dựa trên niềm tin của cộng đồng dân cư vào những phong tục đó để ổn định trật tư xã hội một cách tốt nhất, ngày càng đưa cộng đồng dân cư đó hướng đến những điều tốt đẹp, văn minh, tiến bộ, bài trừ những hủ tục lạc hậu, không còn phù hợp với thời đại, đem lại những điều không tốt đẹp, gây ảnh hưởng xấu đến tư tưởng, phong cách, lối sống, sức khỏe của con người.

Xem thêm: Tìm Hiểu Về Lễ Hội Nghinh Ông Tiền Giang ] Và Những Điều Thú Vị

Với hơn 54 dân tộc anh em cùng sinh sống, do đó phong tục Việt Nam vô cùng đa dạng và phong phú. Một phần do dân tộc Kinh chiếm đại đa số, một phần công tác tuyên truyền phổ biến chưa được đẩy mạnh do đó, đa phần chúng ta chỉ biết tới những phong tục tập quán của người Kinh là chính. Tuy nhiên nếu quý khách muốn tìm hiểu về phong tục tập quán của những dân tộc khác thì có thể nghiên cứu qua rất nhiều tài liệu công phu được bán tại các nhà sách lớn. Bên cạnh đó, để nghiên cứu kỹ hơn về các phong tục ở Việt Nam, các bạn có thể tìm hiểu thông qua “100 Điều nên biết về phong tục tập quán Việt Nam”.

See more articles in category: FAQ

Có thể đưa một định nghĩa về Luật tục như sau: Đó là một hình thức của tri thức bản địa, tri thức địa phương, được hình thành trong quá trình lịch sử lâu dài, qua kinh nghiệm ứng xử với môi trường và ứng xử xã hội, đã được định hình dưới nhiều dạng thức khác nhau, được truyền từ đời này sang đời khác qua trí nhớ, qua thực hành sản xuất và thực hành xã hội. Nó hướng đến việc hướng dẫn, điều chỉnh và điều hoà các quan hệ xã hội, quan hệ con người với môi trường thiên nhiên. Những chuẩn mực ấy của luật tục được cả cộng đồng thừa nhận và thực hiện, tạo nên sự thống nhất và cân bằng xã hội của mỗi cộng đồng.

Ở mỗi dân tộc có tên gọi luật tục riêng, ví như Hương ước [Việt], Hịt khỏng [Thái], Phat kđi [Êđê], Phat Ktuôi [M’nông], N’ri [Mạ]...

Một điều dễ nhận biết là Luật tục vừa mang một số yếu tố của Luật pháp, như quy định các hành vi phạm tội, các tội phạm, bằng chứng, việc xét xử và hình phạt ..., lại vừa mang tính chất của lệ tục, phong tục, như các quy ước, lời răn dạy, khuyên răn mang tính đạo đức, hướng dẫn hành vi cá nhân, tạo dư luận xã hội để điều chỉnh các hành vi ấy. Như vậy, Luật tục như là hình thức phát triển cao của phong tục, tục lệ và là hình thức phát triển sơ khai, hình thức tiền luật pháp.

Với sự hiểu biết hiện nay, có thể phân chia các luật tục của các dân tộc ở Việt Nam theo các dạng tồn tại khác nhau:

- Luật tục được cố định dướng dạng lời nói vần [văn vần] được truyền miệng từ đời này sang đời khác, ví dụ như; Luật tục Êđê, M’nông, Mạ, Stiêng, Bana, Giarai.

- Luật tục đã được cố định và ghi chép bằng văn tự, đó là hương ước của người Việt, Hịt khỏng bản mường của người Thái, lệ tục của người Chăm.

- Luật tục hay Lệ tục đã tương đối định hình, những chưa cố định thành lời văn vần hay thành văn bản, mà vẫn chỉ là sự ghi nhớ và thực thi của cộng đồng. Loại này phổ biến ở hầu hết các tộc người, rất khó phân biệt nó với phong tục và lệ tục cổ truyền.

Dù tồn tại dưới hình thức nào thì hiện nay luật tục của các dân tộc cũng đang đứng trước sự mai một, phá hoại bởi thời gian và con người.

Nhiều cuốn luật tục [Hịt khỏng] của người Thái bị đốt hay mất mát, thất lạc; nhiều bộ luật truyền miệng của các dân tộc Tây Nguyên bị quên lãng, thất truyền. Nhiệm vụ của chúng ta hiện nay là phải cứu lấy di sản quý báu đó.

Tuỳ theo các tộc người, nội dung luật tục đề cập tới nhiều khía cạnh rộng hẹp khác nhau, như các quan hệ xã hội, quan hệ kinh tế, phong tục – nghi lễ, an ninh xã hội, quản lý và khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên ... Trong bài nghiên cứu này, chúng tôi đề cập tới khía cạnh, giá trị Luật tục của các tộc người ở Tây Nguyên.

1. Là một tấm gương phản chiếu sát thực xã hội tộc người, do vậy là nguồn tư liệu gốc, quý hiếm để nghiên cứu tộc người

Luật tục đề cập đến hầu hết các lĩnh vực khác nhau của đời sống tộc người, từ môi trường thiên nhiên, việc bảo vệ môi trường đến sản xuất, quan hệ sở hữu, tổ chức và quan hệ xã hội, hôn nhân và gia đình, tín ngưỡng và phong tục, lễ nghi ... Đó là các chuẩn mực ứng xử đã được hình thành và định hình trong quá trình lịch sử lâu dài của tộc người, nó được mọi người chấp nhận và tự giác tuân theo như một thói quen, một tập quán. Nó không như luật pháp nhà nước phong kiến chế định, luật pháp đó nhiều khi mang tính áp đặt đối với làng xã, để nhiều khi luật pháp với lệ làng có độ chênh theo kiểu phép vua thue lệ làng. Trong khi đó, luật tục phản ánh sát thực xã hội các tộc người.

a] Trước nhất, luật tục phản ánh môi trường sinh tồn cũng như toàn bộ đời sống kinh tế của họ. ở đó, mỗi tộc người từ bao đời nay sinh tồn và phát triển. Rừng là nguồn tài nguyên nuôi sống con người và được con người trân trọng, bảo vệ. Luật tục có các điều luật quy định việc chặt phá rừng, bán đất rừng, bảo vệ rừng đầu nguồn, bảo vệ rừng thiêng, tôn trọng không được xúc phạm tới thần linh, các phong tục tập quán và lễ nghi liên quan tới rừng núi. Bởi vậy, ngày nay, từ góc độ môi trường và văn hoá muốn phát triển dân tộc, phát huy được nền văn hoá cổ truyền của dân tộc phải bắt đầu từ vấn đề cơ bản nhất, đó là môi trường sinh tồn của tộc người ấy.

Bản luật tục của dân tộc Êđê, M’nông, Giarai ... có những điều luật rất cụ thể quy định về đất rừng, đất rẫy, tập tục làm rẫy, tục lệ trồng trỉa, các hoạt động săn bắt thú rừng, đánh cá, tín ngưỡng lễ nghi liên quan tới việc làm rẫy ... chính cơ sở kinh tế nương rẫy này đã quy định toàn bộ đời sống xã hội và văn hoá của tộc người mà luật tục đã phản ánh một cách sinh động.

b] Cơ cấu xã hội cơ bản các tộc người ở Tây Nguyên là làng [Plây, buôn, bon] do vậy làng bon là khung xã hội cơ bản cho việc hình thành và vận hành của luật tục. Trong luật tục, từ các quy định thưởng phạt, các lời khuyên răn ... đều gắn liền với phạm vi và cơ cấu tổ chức làng bon. Và hình phạt nặng nhất đối với kẻ phạm tội là đuổi ra khỏi cộng đồng làng bon.

Trong làng bon, người thủ lĩnh và quan hệ giữa thủ lĩnh với làng bon là nhân tố quyết định sự tồn tại và ổn định của cộng đồng. Đó không phải là mối quan hệ giữa kẻ thống trị với những người bị trị như ở xã hội có giai cấp, mà là quan hệ tôn trọng, ràng buộc bởi quyền lợi và trách nhiệm giữa cộng đồng và thủ lĩnh của họ. Thủ lĩnh ở đây phải là người có đức độ và tài năng, được cả cộng đồng tôn trọng, bảo vệ, giúp đỡ, người đó phải chịu sự ràng buộc và có nghĩa vụ với các thành viên của làng bon, thậm chí làm những điều sai trái có thể bị cộng đồng trừng phạt theo luật tục. Đây là nét đẹp truyền thống mà chúng ta có thể học hỏi trong việc xây dựng quy chế dân chủ ở cơ sở, các quan hệ giữa người cán bộ lãnh đạo với nhân dân hiện nay.

c] Quan hệ xã hội cơ bản của làng bon là quan hệ cộng đồng. Cộng đồng ở đây với nhiều phạm vi và mức độ khác nhau nhưng chúng không hề đối lập nhau. Trong phạm vi nhỏ là cộng đồng gia tộc, mà ở các tộc người Tây Nguyên còn tồn tại tàn dư của gia tộc lớn mẫu hệ. Ngôi nhà dài với các căn phòng có kho lúa và bếp lửa cho từng đôi vợ chồng. Rộng hơn và cơ bản hơn đó là cộng đồng làng bon đan kết giữa quan hệ huyết thống và quan hệ láng giềng.

Nếu nói luật tục là hệ thống các quy ước nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội, thì hệ thống đó thấm đậm ý thức cộng đồng, chi phối toàn bộ các lĩnh vực xã hội, các mối quan hệ xã hội khác nhau. Có thể nói cộng đồng, ý thức cộng đồng là cái gì đó rất tự nhiên, là lẽ phải, là quy luật, ai đó làm gì trái với ý thức cộng đồng sẽ bị cộng đồng hoặc là khuyên răn, giáo dục hoặc trừng phạt.

Ý thức cộng đồng không chỉ thể hiện ở các điều trong chương nói về quan hệ cộng đồng, mà ở những mức độ khác nhau nó còn thể hiện ở các phần nói về quan hệ với thủ lĩnh, về phong tục tập quán, về sở hữu, về vi phạm thân thể, về hôn nhân và gia đình... Đó là quan hệ một vì tất cả và tất cả vì một, là quan hệ bình đẳng, tương trợ, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau. Đó là điều kiện đưa tới cho mọi người trong cộng đồng tư tưởng bình quân. ý thức cộng đồng, tư tưởng bình quân đó là một truyền thống, vừa là sức mạnh, động lực, nưhng mặt nào đó cũng là cái cản trở, hạn chế sự phát triển hiện nay.

d] Quan hệ cộng đồng của làng bon hình thành trên cơ sở một nền sản xuất nương rẫy còn ở trình độ lạc hậu trong môi trường tự nhiên là rừng núi hoang sơ, trên cơ sở xã hội mà công hữu về tư liệu sản xuất còn là quan hệ thống thị, xã hội đó chưa có sự phân hoá giai cấp, chưa có sự áp bức - bóc lột giữa người và người. Trong luật tục cũng như trong xã hội các tộc người Tây Nguyên thường nhắc tới một loại người là Dik. Một lần nữa xin nhắc lại rằng, Dik không phải là “nô lệ” như khái niệm của xã hội có giai cấp, mà đó chỉ là “con ở” trong một số gia đình khá giả, được người chủ đối xử khá tử tế như con cháu trong gia đình. Việc buôn bán Dik đã được luật tục ngăn cấm, coi như là một tội lỗi.

e] Trình độ sản xuất và sự phát triển xã hội như vậy đã quyết định trình độ tư duy của người Tây Nguyên. Đó là tư duy cụ thể, kinh nghiệm và mang màu sắc thần bí. Trong luật tục, các phạm trù cái thiện - ác, đúng - sai đều được quy về một cái gì đó rất cụ thể.

Mầu sắc thần bí trong tư duy là nét nổi trội đối với các tộc người còn ở trình độ phát triển thấp. Trong luật tục, mọi tội lỗi đều quy về việc xúc phạm với thần linh, khiến thần linh tức giận mà gây tai hoạ cho cộng đồng. Do vậy, trong việc xử kiện, từ hình thức nhẹ tới hình thức nặng đều có nghi lễ “rửa tội” để tẩy sạch tội lỗi, tạ lỗi với thần linh. Thậm chí, đối với một số lĩnh vực để phân biệt đúng sai, người ta phải mượn tới phương pháp thần bí, mê tín.

Luật tục còn cung cấp cho người đọc bức tranh văn hoá dân tộc người khá độc đáo và đa dạng. Hiếm có một luật tục hay tập quán pháp nào lại quy định tỉ mỉ những tập quán về làm rẫy, trồng trỉa, về chăn nuôi gia súc, săn bắn, đánh cá, tục lệ ăn uống, mặc, trang sức ... Đây là những tư liệu quý để nghiên cứu bản sắc và sắc thái văn hoá tộc người.

2. Luật tục là di sản văn hoá tộc người

Ngoài giá trị tư liệu để nghiên cứu xã hội tộc người, luật tục Tây Nguyên còn có giá trị về văn hoá. Có thể nói rằng, cùng với sử thi, luật tục là di sản văn hoá quý báu và độc đáo của các tộc người Tây Nguyên đóng góp vào di sản chung của văn hoá các dân tộc Việt Nam và thế giới.

Trước hết, luật tục thật sự là một tác phẩm văn học dân gian truyền miệng có giá trị về nội dung và nghệ thuật.

Với việc sưu tầm bước đầu hiện nay, luật tục M’nông ở Đắc Nông có 215 điều với khoảng 7.000 câu. Luật tục Êđê gồm 236 điều với khoảng trên dưới 8.000 câu. Xét riêng về khối lượng, đây là một tác phẩm thuộc loại lớn, nhất là với một tác phẩm truyền miệng dân gian. Đây mới chỉ là điều tra bước đầu, trong tương lai nếu có điều kiện bổ sung thì độ dài của luật tục chắc chắn sẽ tăng lên, nội dung sẽ phong phú hơn.

Luật tục diễn đạt theo thể văn vần, số chữ trong một câu không tuân theo quy luật nhất định. Cấu tạo vần theo kiểu vần cuối câu trước hợp vần với chữ đầu hay vần lưng của câu sau. Trong luật tục cũng như trong sử thi, người ta hay sử dụng hình thức lời nói vần có nét nào đó giống như thành ngữ và tục ngữ của người Việt. Nói cách khác, đó là thứ ngôn từ nằm giữa ngôn ngữ đời thường và ngôn ngữ thơ ca. Lời nói vần đã lưu tích được trong nó tri thức và trí tuệ của dân chúng.

Ngôn ngữ trong luật tục là ngôn ngữ giầu hình tượng. Họ mượn cái hình tượng của đời sống hàng ngày, của tự nhiên và của xã hội để diễn đạt các quan niệm mang tính luật pháp. Thí dụ, để nói tính khách quan của người xử kiện, luật tục M’nông mượn hình ảnh:

“Hai bên hòn đá, cá trê đứng giữa

Hai bên cây lúa, cây nêu đứng giữa,

 Bên gió, bên bão, chiếc diều đứng giữa”

Cho đến nay, chúng ta chưa có thể trả lời dứt khoát luật tục Tây Nguyên hình thành và định hình vào thời kỳ nào. Tuy nhiên, một tác phẩm văn học truyền miệng được phát hiện, trong đó chứa đựng nội dung và các tri thức đa dạng về đời sống xã hội tộc người, các hình thức tư duy và ngôn ngữ biểu đạt mang sắc thái độc đáo ..., xứng đáng là một di sản quý của nền văn hoá tộc người mà ngày nay chúng ta có nhiệm vụ bảo tồn và phát huy nhằm phục vụ cho sự nghiệp phát triển dân tộc theo hướng hiện đại hoá.

3. Luật tục là một kho tàng tri thức dân gian phong phú

Có thể nói, luật tục như bộ sách bách khoa về mọi mặt của đời sống tộc người, chứa đựng những tri thức dân gian vô cùng phong phú, đúc rút ra từ kinh nghiệm sống của nhiều thế hệ. Đó là những tri thức về môi trường tự nhiên, tri thức về sản xuất nương rẫy, hái lượm, săn bắt, đánh cá, tri thức về xã hội và ứng xử giữa người với người, tri thức về đời sống văn hoá, nghi lễ, phong tục về quản lý và sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên... Những tri thức này đã định hình và trở thành các nguyên tắc sống, lẽ sống của con người trong cộng đồng.

Trước nhất, luật tục là tri thức về quản lý cộng đồng của bon làng. Đó là tri thức về sự kết hợp giữa quản lý và tự quản, kết hợp giữa giáo dục và trừng phạt, kết hợp giữa ý thức cá nhân và dự luận xã hội, kết hợp giữa các nguyên tắc của tập quán pháp - một hình thức của luật pháp sơ khai - với các quan niệm về tâm linh, tín ngưỡng để giải quyết các xung đột xã hội... Đó là vốn tri thức quý báu của ông cha đã tích luỹ và truyền lại để ngày nay chúng ta có thể học hỏi, vận dụng.

Luật tục còn chứa đựng những tri thức về quản lý và sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên thông qua việc luật tục xác định các quan hệ sở hữu của cộng động và cá nhân đối với các tài nguyên thiên nhiên, thông qua việc “thiêng hoá” những tài nguyên, thông qua việc nêu ra các điều luật cụ thể ngăn chặn các hành động phá hoại tài nguyên ... 

Video liên quan

Chủ Đề