Khi nào nhà nước cần can thiệp để bình ổn giá trên thị trường

Giá cả là một trong những phạm trù quan trọng nhất trong mọi nền kinh tế, nhất là nền kinh tế thị trường. Về lý thuyết, giá cả do thị trường điều tiết theo các quy luật giá trị, cung - cầu và cạnh tranh. Tuy nhiên, trên thực tế cần có sự can thiệp của Chính phủ về giá cả, để khắc phục cái gọi là "khuyết tật thị trường" với mức độ và cách thức can thiệp khác nhau, tùy theo điều kiện phát triển của thị trường và xã hội.

Hạn chế và bất cập

Luật Quản lý giá 2012 quy định cụ thể danh mục hàng hóa, dịch vụ bình ổn giá. Tuy nhiên, do thiếu cơ sở có tính pháp lý cao quy định về căn cứ, tiêu chí và thẩm quyền xác định hàng hóa dịch vụ thiết yếu, quan trọng hay độc quyền nên các ngành, các cấp, các địa phương "đua nhau" bình ổn giá theo kiểu "thượng vàng hạ cám" mà không quan tâm đến mục đích, đối tượng và hiệu quả thật sự của những chương trình và biện pháp bình ổn giá đó. Nhìn chung, các biện pháp bình ổn giá tương đối đầy đủ và phù hợp với thông lệ quốc tế cũng như bản chất của các biện pháp Nhà nước can thiệp vào giá cả, song trong điều hành thực tế lại gặp phải không ít hạn chế và bất cập. Ðó là các biện pháp can thiệp vào cung - cầu hàng hóa thường chậm trễ và mang nặng tính hành chính trong khi ít chú ý đến các quy luật thị trường nên nặng về biện pháp chỉ đạo tăng cung giảm cầu. Vì vậy nhiều biện pháp can thiệp vào cung - cầu hiệu quả không cao. Ðiều hành xuất, nhập khẩu cũng thiếu linh hoạt, chưa "ăn khớp" với quy luật thị trường nên không ít trường hợp can thiệp để bình ổn giá chưa thấy hiệu quả thì tác động "bóp nghẹt" sản xuất trong nước gây thiệt hại cho nền kinh tế chung đã xảy ra.

Trên thực tế, Việt Nam vẫn chưa xây dựng được kho dự trữ chiến lược mà chỉ có hệ thống dự trữ quốc gia, song vai trò của hệ thống này trong việc can thiệp vào giá cả còn hạn chế. Một mặt do quy mô dự trữ hạn chế, mặt khác do cơ chế quản lý dự trữ quốc gia chưa thật sự hiệu quả. Nguyên nhân đó chính là tình trạng thông tin thiếu chính xác, công tác kiểm tra, giám sát sử dụng dự trữ quốc gia còn hạn chế, nên hệ thống này chỉ đóng vai trò cứu tế là chính chứ chưa có vai trò can thiệp vào giá cả thật sự. Ngoài ra, biện pháp kiểm soát hàng hóa tồn kho và kiểm soát các yếu tố hình thành giá cả còn mang tính hành chính, hình thức và chưa thoát khỏi tư duy kiểm tra, kiểm soát. Nhất là không ít trường hợp cơ quan chức năng chưa nắm được chính xác số liệu tồn kho. Thí dụ, trường hợp tồn kho gạo giữa năm 2008 làm cho công tác điều hành ổn định được thị trường và giá cả gạo gặp khó khăn. Biện pháp kiểm soát các yếu tố hình thành giá đi cùng với yêu cầu đăng ký giá, kê khai giá đã tỏ ra thất bại trong trường hợp cố gắng can thiệp vào bình ổn giá cả của sữa, gas, thuốc chữa bệnh... do không phù hợp với thị trường cạnh tranh tương đối hoàn hảo của những hàng hóa này vừa không giúp kiểm soát được yếu tố độc quyền đặc trưng và hệ thống phân phối của những hàng hóa.

Vấn đề của sự bất ổn trên thị trường sữa, gas, thuốc chữa bệnh... ở Việt Nam là do sự mất tác dụng của quy luật giá trị và quy luật cạnh tranh, chỉ còn lại quy luật cung - cầu. Ðến lượt quy luật cung - cầu lại chịu ảnh hưởng của yếu tố tâm lý, bất cập trong hệ thống phân phối và thiếu chủ động trong nguồn cung, trong khi thiếu công cụ hữu hiệu để chống chuyển giá. Có thể nói, biện pháp kiểm soát yếu tố giá, đăng ký giá, kê khai giá không phải là "thuốc chữa cho căn bệnh" trầm kha này. 

Nguyên tắc và linh hoạt

Quy định giá tối đa, tối thiểu và khung giá được áp dụng phổ biến đối với những hàng hóa dịch vụ do khu vực kinh tế nhà nước cung cấp là chủ yếu, nhất là đối với hàng hóa dịch vụ độc quyền hoặc có vị thế thống lĩnh thị trường như điện, nước sinh hoạt, xăng, dầu, than, vận tải hàng không... Song do chưa vận dụng phù hợp với quy luật thị trường nên hoặc giá cả quá thấp dẫn đến thua lỗ, "lỗ giả lãi thật" và giá cả luôn "kịch trần", thậm chí "phá trần" hay "phá khung". Thí dụ như biện pháp trợ giá nông sản được áp dụng cho sản xuất lúa, gạo nhưng lại không trợ giá trực tiếp cho người bán là nông dân mà lại trợ giá thông qua quy định giá sàn với nguyên tắc bảo đảm cho người nông dân có lãi ít nhất 30% và doanh nghiệp vay với lãi suất hỗ trợ để thu mua lúa với giá sàn cho nông dân... Ngoài ra, lợi ích thật sự của biện pháp trợ giá nông sản này phần lớn rơi vào các doanh nghiệp trong khi người nông dân không được hưởng lợi nhiều. Từ đó hiệu quả can thiệp vào giá cả của biện pháp trợ giá nông sản còn hạn chế.

Luật Quản lý giá quy định các loại tài sản, hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá nhưng vấn đề lớn nhất trong định giá của Nhà nước là chưa rõ căn cứ định giá cần được hiểu và áp dụng vào thực tế như thế nào? Ðịnh giá là hành động chủ quan chịu tác động của các yếu tố khách quan nên nếu không đánh giá đầy đủ các yếu tố khách quan, trước hết là đánh giá tác động của các quy luật thị trường và kiểm soát được các yếu tố chủ quan thuộc về bộ máy, con người thì Nhà nước vẫn không thể khắc phục được tình trạng trớ trêu là thường "mua đắt bán rẻ".

Trên cơ sở sự can thiệp của Nhà nước vào giá cả là tất yếu, nhưng phải là sự can thiệp có nguyên tắc, trong đó nguyên tắc quan trọng là tôn trọng các quy luật thị trường, nhất là giảm dần các biện pháp can thiệp trực tiếp, hành chính, mệnh lệnh, và thay vào đó là các biện pháp linh hoạt can thiệp gián tiếp, cân đối cung - cầu, và kiểm soát độc quyền, hạn chế cạnh tranh không lành mạnh. Ðặc biệt, can thiệp bằng các công cụ kinh tế vĩ mô trong bối cảnh ranh giới giữa các thị trường hàng hóa dịch vụ đang bị xóa nhòa từ thị trường theo địa phương, theo loại hàng hóa dịch vụ đến thị trường khu vực và toàn cầu. Tuy nhiên, sự can thiệp của Nhà nước vào giá cả không thể thoát khỏi khả năng quản lý nhà nước trong thực tế, và không thể vượt quá nguồn lực thật sự của Nhà nước, cả nguồn lực vật chất, tài chính tiền tệ lẫn nguồn lực con người, tổ chức bộ máy và nguồn lực quản lý.

* Bộ trưởng Tài chính Vương Ðình Huệ: Nếu làm tốt hơn công tác dự báo, dự đoán thì việc điều hành giá cả sẽ giúp giảm tổng mức tăng CPI cũng như mức tăng ở từng tháng đều đặn hơn. Bởi trước đó, CPI tháng 7 và 8-2012 âm, nhưng đến tháng 9-2012 lại tăng cao tới 2,2%. Ngoài ra, để công tác dự báo chính xác cần sự phối hợp điều hành "nhịp nhàng" giữa các bộ, ngành, cũng như giữa T.Ư với địa phương.

* Việc triển khai chương trình bình ổn giá của T.Ư và địa phương chưa đạt yêu cầu, do vẫn chưa rõ thế nào là bình ổn và bình ổn để làm gì? Phải chăng bình ổn là để giá không biến động quá mức hay là "bình thường hóa" mức giá bất thường để công nhận "mặt bằng giá mới"? Câu hỏi đặt ra: Căn cứ và tiêu chí xác định bình ổn hay không bình ổn là gì? Vấn đề bình ổn giá thuộc kinh tế vĩ mô hay kinh tế vi mô?...

TS VŨ ÐÌNH ÁNH

[TG] - Trên một khía cạnh nhất định, lịch sử phát triển nền kinh tế thị trường là lịch sử của quá trình giải quyết mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường. Quan hệ giữa nhà nước và thị trường là quan hệ tương hỗ, tùy thuộc nhau, tuy nhiên việc giải quyết mối quan hệ này trong mỗi giai đoạn phát triển kinh tế có sự khác nhau và không giống nhau giữa các nền kinh tế thị trường.

Ảnh minh hoạ

1.Trong nền kinh tế thị trường, nhà nước và thị trường đều có vai trò và chức năng riêng. Bản thân thị trường luôn vận hành theo các quy luật vốn có khách quan và trên thực tế cơ chế thị trường là cơ chế hiệu quả trong phân bổ và khai thác các nguồn lực. Song thị trường vận động tự do luôn có xu hướng đẩy nền kinh tế vào tình trạng không ổn định và khủng hoảng. Thị trường có những khiếm khuyết cố hữu, đòi hỏi phải có sự can thiệp của nhà nước vào nền kinh tế để khắc phục. Tuy nhiên, nhà nước cũng có hạn chế và cũng thất bại khi can thiệp quá mức. Chính sự khiếm khuyết của thị trường và hạn chế của nhà nước cho thấy:không thể phát triển khi thiếu vắng sự can thiệp của nhà nước, cũng như không thể phát triển nếu thiếu vắng thị trường, để phát triển đòi hỏi nhà nước và thị trường cần tương tác, hỗ trợ nhau, khắc phục các khiếm khuyết.

Mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường xuất phát từ chính nhu cầu của cả 2 bên, đó là mối quan hệ tất yếu, tương tác phụ thuộc nhau. Biểu hiện kết quả của sự tương tác giữa nhà nước và thị trường là sự phát triển của kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia. Việc xử lý mối quan hệ này được biểu hiện tập trung ở hệ thống thể chế phát triển.

Bản thân vai trò, chức năng của nhà nước và thị trường cũng có biến đổi, gắn liền với sự biến đổi của lực lượng sản xuất. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế, thị trường mang tính toàn cầu, nhà nước chú trọng hơn đến vai trò điều tiết, trong đó đối tượng điều tiết cũng mở rộng, gồm cả các tập đoàn kinh tế đa quốc gia, các tổ chức quốc tế... Và điều quan trọng hơn, trongmột thị trường ngày càng toàn cầu hóa đòi hỏi việc thiết lập các quy tắc, luật chơi mớiphải tính đến sự phù hợp với các đòi hỏi của các chủ thể của toàn cầu hóa, có nghĩa rằng những quy định này không thể chỉ là sản phẩm của riêng nhà nước, mà phải tính đến sự tương thích và phù hợp với chuẩn mực phổ biến chung trong nền kinh tế toàn cầu.

2.Với chức năng kinh tế, nhà nước không chỉ là người quản lý, người ban hành các quy định, các luật chơi trên thị trường, mà còn đóng vai trò chủ thể hoạt động sản xuất [nhất là các hàng hóa và dịch vụ công], là người mua và bán các hàng hóa, dịch vụ trên thị trường. Như vậy lúc nàychịu sự tương tác, giàng buộc của các quy luật kinh tế trên thị trường, cũng như sự quản lý điều hành của nhà nước thông qua hệ thống quy định luật pháp và các công cụ quản lý.

Xét về mục đích thực hiện các chức năng, dù xuất hiện với tư cách nào, thì. Đó là lợi ích của nhà nước và lợi ích của các chủ thể trên thị trường. Nhà nước thực hiện quản lý là hướng tới mục đích bảo đảm cho thị trường phát triển hiệu quả. Thị trường phát triển chính là cơ sở kinh tế, bảo đảm sự phát triển của nhà nước. Do vậy trong xử lý quan hệ giữa nhà nước và thị trường cần bảo đảm hài hòa lợi ích giữa các chủ thể trên thị trường. Điều cần khẳng định là, sự tương tác giữa nhà nước và thị trường đều hướng đến gia tăng lợi ích, tạo ra sự tăng trưởng nói chung của các chủ thể trên thị trường. Đây chính là mặt thống nhất trong mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường, thúc đẩy nhà nước và thị trường gắn bó, tương tác với nhau.

Về bản chất,. Mặt khác trong quá trình tương tác có sự cạnh tranh vai trò, lợi ích. Khi “phân vai” phù hợp, đúng với trình độ phát triển và năng lực xử lý thì lợi ích sẽ được thỏa mãn. Ngược lại, khi “phân vai” không đúng, nhà nước lấn át thị trường, hay thị trường lấn át nhà nước thì sẽ dẫn đến kết cục: sự quản lý của nhà nước kém hiệu quả và bản thân thị trường sẽ không thể phân bổ hợp lý, hiệu quả các nguồn lực. Đây chính là mặt mâu thuẫn trong quan hệ giữa nhà nước và thị trường.

3.Cho dù các nền kinh tế có những đặc thù khác nhau về trình độ phát triển, song đều phải giải quyết mối quan hệ nhà nước và thị trường. Việc xử lý mối quan hệ này xuất phát ngay từ chủ thuyết phát triển mà quốc gia đó lựa chọn. Đã từng có thời kỳ tồn tại mô hình kinh tế phi thị trường, nhà nước thực hiện quản lý, điều hành nền kinh tế theo chương trình, kế hoạch pháp lệnh. Và cũng từng có thời kỳ với chủ thuyết về nền kinh tế thị trường tự do, nhà nước không được khuyến khích can thiệp vào nền kinh tế.

Cho dù nhà nước hay thị trường được chú ý, thì trong thực tiễn các quốc gia đều phải xác định, phân định vai trò nhà nước và thị trường, và điều đó được thể chế hóa, làm cơ sở cho vận hành trong thực tiễn. Hệ thống pháp luật, nhất là luật kinh tế trong các nền kinh tế thị trường vì vậy đã có sự phát triển mạnh gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế thị trường thế giới. Kinh tế thị trường phát triển gắn liền sự phát triển của nhà nước pháp quyền.

4.Quan hệ nhà nước và thị trường là mối quan hệ cơ bản trong nền kinh tế thị trường.

Mối quan hệ nhà nước và thị trường còn được thể hiện ra là mối quan hệ giữa chủ thể với khách thể, khi nhà nước đóng vai trò là chủ thể quản lý nền kinh tế thị trường; hay đó là mối quan hệ giữa các chủ thể trong nền kinh tế, khi nhà nước xuất hiện với tư cách là một chủ thể trên thị trường, sẽ quan hệ bình đẳng với các chủ thể khác theo luật định. Quan hệ nhà nước và thị trường cũng phản ánh mối quan hệ giữa cái chủ quan với khách quan, bởi lẽ thị trường luôn vận động theo các quy luật khách quan và chịu sự điều tiết của nhà nước, lúc đó nhà nước xuất hiện là các quy định, luật lệ, và các công cụ điều tiết khác. Các công cụ này là sản phẩm chủ quan để định hướng thị trường, tạo luật chơi cho thị trường. Thị trường sẽ hiệu quả khi các công cụ này hợp lý, không làm méo mó thị trường.

5.Mối quan hệ nhà nước và thị trường là mối quan tâm xuyên suốt chiều dài phát triển của nền kinh tế thị trường ở các quốc gia. Giải quyết hợp lý mối quan hệ nhà nước và thị trường là chìa khóa thành công của các nền kinh tế. Tuy nhiên, không có khuôn mẫu chung cho việc xử lý mối quan hệ này, mà ở mỗi nền kinh tế mức độ tham gia của nhà nước hay mức độ quyết định của thị trường là rất đa dạng tùy thuộc vào trình độ phát triển, quan niệm về mô hình vận hành, tập quán truyền thốnglịch sử -văn hóa...

Thực tiễn lịch sử cho thấy, sự thất bại của không ít nền kinh tế là do tuyệt đối hóa nhà nước hay tuyệt đối hóa thị trường. Mô hình chung có tính phổ biến hiện nay là phát triển nền kinh tế hỗn hợp mà ở đó vai trò nhà nước và vai trò thị trường đều được phát huy, bổ khuyết cho nhau.

Trong các nền kinh tế thị trường phát triển phương Tây, nhà nước được chú ý nhiều hơn trong vai trò là người dẫn dắt, điều chỉnh. Vai trò này đặc biệt được chú ý trong các thời kỳ khủng hoảng. Nhiều quốc gia đã đẩy mạnh quá trình tư nhân hóa, hoặc chuyển giao công - tư, nhà nước hầu như không triển khai đầu tư kinh doanh trực tiếp, bản thân các dịch vụ công cũng được chuyển cho tư nhân tham gia cung cấp. Với các công cụ điều tiết, nhất là các chính sách tài chính - tiền tệ, thuế, ngân sách, xây dựng các chiến lược, quy hoạch dài hạn... để điều chỉnh, định hướng nền kinh tế.

Trong các nền kinh tế Đông Á, trong thời kỳ đầu nhà nước can thiệp khá mạnh vào nền kinh tế, thực sự là động lực thúc đẩy và định hướng phát triển. Tuy nhiên, trong những thập kỷ gần đây quá trình tư nhân hóa và phân quyền, giải điều tiết được đẩy mạnh. Vai trò nhà nước tuy vẫn được nhấn mạnh hơn so với các nền kinh tế Âu-Mỹ, song nhà nước và thị trường có sự kết hợp chặt chẽ, nhà nước chú ý hơn trong việc tạo lập hành lang pháp lý, xây dựng các quy tắc, tạo lập cơ sở hạ tầng, chú ý các chính sách an ninh quốc gia và an ninh con người. Đó là kinh nghiệm rất đáng tham khảo với Việt Nam.

Trong nền kinh tế thị trường XHCN Trung Quốc có những nét riêng trong xử lý mối quan hệ nhà nước và thị trường. Từ chú trọng vai trò nhà nước, Trung Quốc chuyển dần sang kết hợp nhà nước và thị trường, thừa nhận vai trò cơ bản thị trường, và thực tế phát triển của Trung Quốc đã đưa đến sự điều chỉnh, hay thừa nhận. Tuy nhiên, trong nền kinh tế Trung Quốc khu vực kinh tế quốc doanh. Cùng với phát triển có hiệu quả kinh tế nhà nước, nhà nước được chú trọng trong vai trò điều tiết vĩ mô, trong xây dựng các thể chế thị trường và môi trường cho doanh nghiệp phát triển.

6.Ở Việt Nam,Trước thời kỳ đổi mới dường như chúng ta chưa thực sự chú ý đến mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường. Đã có giai đoạn chúng ta nhấn mạnh đến vai trò nhà nước,nhà nước có vị trí tuyệt đối, thông quanhà nước để giải quyết các vấn đề liên quan đến xã hội, đến cuộc sống của người dân. Thị trường chỉ xem như nơi diễn ra các hoạt động mua bán theo mục tiêu và kế hoạch định sẵn [thậm chí không thừa nhận vai trò thị trường], dẫn đến hình thành các thị trường không chính thức [không được phép]. Với việc đổi mới, chuyển sang phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý củanhà nước, tuy chưa trực tiếp khẳng định mối quan hệgiữanhà nướcthị trường, nhưng trong đường lối, chủ trương phát triển kinh tế đều toát lên sự gắn bó giữa nhà nước và thị trường.

Qua hơn 30 năm đổi mới, nhận thứccủa Đảng, Nhà nước ta về mối quan hệ nhà nước và thị trường ngày một rõ hơn.

, xem quan hệnhà nướcthị trường là một trong những mối quan hệ lớn, quan trọng và cần xác định rõvà thực hiện đúng vị trí, vai trò, chức năng và mối quan hệ củanhà nước và thị trường phù hợp với kinh tế thị trường. Thị trường có khiếm khuyết, cần phải có sự can thiệp của Nhà nước, nhưng thị trường chính là đối tượng và nguồn thông tin chonhà nước hình thành các chính sách và thực hiện chức năng điều tiết để bảo đảm môi trường tăng trưởng.

, nhận thức ngày càng cụ thể chức năng củanhà nước trong quan hệ với thị trường.

Nhà nước Việt Nam đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; không can thiệp trực tiếp, mà sử dụng các công cụ, chính sách và các nguồn lực củanhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, không làm méo mó thị trường, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và bảo vệmôi trường.

, xác định rõ vai trò thị trường. Thống nhất khẳng định thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất. Việc vận dụng cơ chế thị trường phải đầy đủ, linh hoạt để phát huy mạnh mẽ và có hiệu quả mọi nguồn lực, nhằm phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế. Và để thị trường phát huy hiệu quả cần phải tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường.

, xác định rõ tăng trưởng kinh tế phải gắn chặt với giải quyết các vấn đề xã hội. Kết hợp chặt chẽ các mục tiêu chính sách kinh tế với các mục tiêu chính sách xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển phù hợp với điều kiện cụ thể, bảo đảm phát triển nhanh, bền vững.

Các vấn đề xã hội không phải là thụ động, đi sau kinh tế, mà giải quyết tốt các vấn đề xã hội cũng chính là điều kiện, là động lực cho tăng trưởng.

, để giải quyết tốt mối quan hệgiữanhà nướcthị trường, Đảng ta cũng chỉ rõ cần phải đẩy mạnh quá trình thể chế hóa vai trò, chức năng của các thành tố và mối quan hệ. Và không chỉ phải gắn bó giữa chính sách kinh tế với chính sách xã hội, mà cần phải giải quyết hài hòa các lợi ích nhà nước, doanh nghiệp và người dân, mới giải quyết tốt quan hệgiữanhà nướcthị trường. Tại Nghị quyết Trung ương 5 khóa XII, Đảng ta chỉ rõ không chỉ nhấn quan hệ nhà nước và thị trường mà còn nhấn đến thành tố xã hội trong quan hệ này và yêu cầu xác định rõvà thực hiện đúng vị trí, vai trò, chức năng và mối quan hệ của nhà nước, thị trường và xã hội phù hợp với kinh tế thị trường. Quan điểm này được tái khẳng định tại Đại hội XIII của Đảng.

7.Trong điều hành thực tiễn, mối quan hệ nhà nước và thị trường ở Việt Nam đã được quan tâm, vai trò nhà nước cũng như vai trò của thị trường đã thể hiện ngày một rõ và hiệu quả.

Nhà nước đã thực sự chú ý đến vai trò "bà đỡ" cho thị trường hình thành và phát triểnĐã thể chế hóa và tạo điều kiện cho quá trình hình thành và phát triển các loại thị trường, nên các thị trường có sự phát triển mạnh về quy mô và chất lượng, các thị trường mới được hình thành; đã thực sự chủ động và tích cực hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu và khu vực, quy mô giao dịch tăng cao. Đồng thời “xã hội hoá” một số nhiệm vụ của Nhà nước; “mở” ra nhiều ngành, lĩnh vực trước đây là độc quyền của Nhà nước; Nhà nước rút lui dần khỏi lĩnh vực kinh doanh không cần thiết và “nhường lại” cho khu vực kinh tế ngoài nhà nước và các doanh nghiệp xã hội nhằm đạt hiệu quả kinh tế - xã hội.

đã hình thành thể chế về chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước, bao gồm: 1] Phân biệt chức năng quản lýnhà nước với chức năng quản lý sản xuất kinh doanh của các đơn vị cơ sở; 2] Nhà nước “từ bỏ” hoạt động quản trị và can thiệptrực tiếpvào sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà tập trung thực hiện chức năng quản lý nhà nước về kinh tế; 3] Tách bạch chức năng quản lý kinh tế vĩ mô và chức năng chủ sở hữu của doanh nghiệp nhà nước, từng bước xoá bỏ “bộ chủ quản”.

trong điều hành quản lý vĩ mô,Nhà nước đã dần hạn chế tối đa mệnh lệnh hành chính để các hoạt động của thị trường diễn ra chủ yếu theo sự hướng dẫn của các quy luật thị trường, đảm bảo nguyên tắc thị trường “tự điều chỉnh”, đồng thời tăng cường quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa [XHCN]. Lấy thị trường làm cơ sở chủ yếu để phân bổ các nguồn lực kinh tế kết hợp với điều tiết vĩ mô của nhà nước bằng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và bằng các nguồn lực, các chính sách hướng quá trình phát triển kinh tế - xã hội và hệ thống kinh doanh vào những lĩnh vực và địa bàn cần thiết. Thể chế định giá, nhất là giá cả hàng hóa, dịch vụ, đã được tự do hóa.

vai trò, chức năng của thị trường cũng càng được coi trọng, thể hiện rõ nét ở những điểm sau: 1] Thị trường đã thực sự từng bước là căn cứ để Nhà nước định hướng phát triển kinh tế đất nước thông qua các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã hội. 2] Thị trường/doanh nghiệp ngoài nhà nước tham gia cung ứng các dịch vụ xã hội. 3] Thị trường là căn cứ để tạo một khung pháp lý đầy đủ, đồng bộ, nhất quán, minh bạch và vững chắc, không chỉ là một hệ thống luật lệ và quy định, mà còn bao hàm các định chế cần thiết để thực hiện và cưỡng chế việc thi hành pháp luật và giải quyết tranh chấp, bao gồm toà án và các cơ quan cưỡng chế thi hành luật. 4] Thị trườngtham gia kiểm tra, giám sát các hoạt động kinh tế, góp phầntạo ra sân chơi bình đẳng cho các thành phần kinh tế.

, cơ cấu lại, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước.Bản thân doanh nghiệp nhà nước cũng phải vận hành, hạch toán theo cơ chế thị trường. Đáng chú ý là việc tách chức năng đại diện chủ sở hữu với chức năng quản lý chung của Nhà nước thông qua thành lập Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp.Chính phủ cũng đã đẩy mạnh cải cách, cổ phần hóa, thoái vốn đầu tư ngoài ngành góp phần đưa các doanh nghiệp nhà nước được tập trung nhiều hơn vào những lĩnh vực then chốt, quốc phòng, an ninh, cung ứng hàng hóa và dịch vụ công thiết yếu.

, khu vực tư nhân có sự phát triển mạnh trong các lĩnh vực pháp luật không cấm, và tham gia cung ứng dịch vụ công. Đây là một trong những thành công của quá trình xử lý quan hệ nhànước và thị trường trong những năm vừa qua. Trên thực tế vai trò kinh tế tư nhân trong nền kinh tế ngày càng được thừa nhận và có đóng góp ngày càng lớn xét trên tỷ lệ nguồn vốn đầu tư vào nền kinh tế, đóng góp thu ngân sách, tạo việc làm… Số lượng doanh nghiệp tư nhân tăng mạnh với nhiều loại hình đa dạng, có những doanh nghiệp, tập đoàn lớn có khả năng cạnh tranh trên thị trường.

phát triển các doanh nghiệp xã hội và các hội tự quản.Phát triển doanh nghiệp xã hội [DNXH] là hoàn toàn phù hợp với mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam. Từ khi khái niệm DNXH được biết đến vào những năm 2008 đến nay, DNXH đã phát triển đa dạng, có sức ảnh hưởng đến chính sách của Nhà nước và lan tỏa sâu rộng trong cộng đồng. Bên cạnh các DNXH, với việc đẩy mạnh thực hiện dân chủ hóa cơ sở, trong những năm qua mô hình tự quản khu dân cư đã phát triển khá đa dạng ở nhiều địa phương như: tuyến đường tự quản, tự quản bảo vệ môi trường, tự quản an ninh trật tự… đã góp phần nâng cao đời sống người dân. Đây là hướng quan trọng góp phần nâng cao vai trò thành tố xã hội trong tạo lập môi trường tăng trưởng, giám sát, bổ sung cho những khuyến khuyết của thị trường trong những năm qua.

, trong quá trình xây dựng cũng như thực hiện chủ trương, chính sách đã chú ý gắn bó hơn chức năng, nhiệm vụ của Nhà nướcthị trường, tức là có sự “phân vai” ngay trong quá trình xây dựng chủ trương, chính sách, do vậy tính khả thi chính sách cũng cao hơn, có sự đồng thuận của người dân. Sự tham gia của doanh nghiệp và xã hội vào quá trình định hình chính sách ngày một rõ và hiệu quả.

8.Việc xử lý quan hệ nhà nước và thị trường ở nước ta trong thời gian qua đã có kết quả quan trọng, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả hoạt động kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng. Tuy nhiên trong quá trình đó cũng còn nhiều vấn đề đặt ra cần tiếp tục giải quyết. Cụ thể là:

duy trì khu vực doanh nghiệp nhà nước chiếm quy mô lớn, kém hiệu quả hoạt động, chưa xác định rõ, cụ thể những lĩnh vực và khâu then chốt Nhà nước cần nắm giữ. Khu vực sự nghiệp công chiếm quy mô lớn, chưa vận hành theo kinh tế thị trường, còn bao cấp lớn từ Nhà nước. Nguồn lực nhà nước nắm giữ, phân bổ, đầu tư chưa thực sự tuân theo quy luật của kinh tế thị trường.

Nhà nước còn hạn chế về năng lực kiến tạo phát triển, dẫn dắt thị trường, nhất là kiến tạo phát triển các yếu tố thị trường hoặc những thị trường đặc biệt mà tư nhân không hoặc chưa tham gia. Đầu tư công của Nhà nước chưa đủ sức “làm mồi”, “dẫn dắt” cho đầu tư của tư nhân trên thị trường. Chưa tách chức năng dịch vụ công khỏi quảnlý hành chính nhà nước, tình trạng quan liêu còn nặng nề. Hệ thống cung ứng dịch vụ công chưa thật sự trở thành khách hàng phục vụ doanh nghiệp và người dân.

công cụ pháp luật chưa ổn định, Nhà nước chưa thật sự trở thành “trọng tài” cho các chủ thể kinh tế. Chính sách tài khóa, tiền tệ, tỷ giá phối hợp thiếu linh hoạt; thiếu tính độc lập tương đối của Ngân hàng Nhà nước với hệ thống hành chính. Lực lượng vật chất của Nhà nước can thiệp vào thị trường còn phân tán, lãng phí, vừa chưa theo quy hoạch, kế hoạch, vừa chưa theo quy luật của thị trường. Hệ thống dịch vụ công chưa phân tách các trách nhiệm tổ chức cung ứng, chi trả phí và quản lý để tiến hành đổi mới hiệu quả, mở rộng cơ hội cho tư nhân tham gia.

chưa thật sự tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa khu vực công và khu vực tư, giữa các tổ chức kinh tế trong khu vực tư, trong tiếp cận các nguồn lực công [đất đai, tín dụng, tài nguyên khác…]. Chưa giải phóng triệt để tiềm lực, thế mạnh của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế, thiếu các doanh nghiệp tư nhân đủ mạnh để vươn ra hội nhập quốc tế. Hợp tác công - tư bị biến dạng, nhiều nguồn lực nhà nước rơi vào “sân sau” thông qua hợp tác công tư.

chưa thực sự đặt doanh nghiệp nhà nước với tư cách là nhà đầu tư bình đẳng trên thị trường. Nguồn lực nhà nước đầu tư theo quy hoạch, kế hoạch chưa hoàn toàn tôn trọng quy luật thị trường, bị lợi ích cục bộ, lợi ích nhóm chi phối, dẫn tới hiệu quả thấp. Nhìn tổng thể toàn xã hội nguồn lực được huy động, phân bổ chưa tôn trọng đầy đủ quy luật của kinh tế thị trường [giá trị, cung cầu, cạnh tranh].

phân phối lần đầu của thị trường và phân phối lại của Nhà nước chưa được thiết kế liên thông nhằm bảo đảm phát huy động lực của thị trường và bảo đảm phúc lợi cho người dân. Lồng ghép chính sách xã hội thông qua bao cấp giá dịch vụ và tổ chức hệ thống cung ứng dịch vụ sự nghiệp công cồng kềnh, kém hiệu quả, tạo gánh nặng bao cấp ngân sách và biên chế.

9.Để giải quyết tốt mối quan hệgiaNhà nước và thị trường trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, đòi hỏi phải được đặt trong tổng thể quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường và đây là quá trình thường xuyên, lâu dài, là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị. Quá trình này đòi hỏi phải tôn trọng các quy luật của kinh tế thị trường và đi liền với phát huy vai trò kiến tạo phát triển của Nhà nước. Và tất nhiên trong quá trình giải quyết mối quan hệ này phải gắn từng bước với các giai đoạn phát triển của nền kinh tế dân tộc, phù hợp với các chuẩn mực quốc tế, tối đa hóa lợi ích quốc gia dân tộc.

Trong quá trình xử lý quan hệ cần nâng cao hiệu quả quản trị nhà nước, Nhà nước chỉ làm những cái gì mà thị trường không làm hoặc chưa làm. Trên thực tế, Nhà nước và thị trường không đối lập mà bổ sung cho nhau, hiệu quả trên thực tế chính là thước đo tương tác phù hợp giữa Nhà nước và thị trường. Trong quá trình tương tác Nhà nước và thị trường không chỉ nâng cao năng lực quản trị nhà nước, tạo sự phát triển đầy đủ, động bộ của thị trường mà cần phải có sự tham gia củakhu vực thứ ba” - khu vực các tổ chức phi lợi nhuận, chúng vừa hỗ trợ, bổ sung cho Nhà nước và thị trường, đồng thời chúng cũng giám sát cả Nhà nước và thị trường.

Trong định hướng chính sách cần tập trung vào một số hướng cơ bản sau:

nâng cao hiệu quả sử dụng các công cụ kiến tạo phát triển củaNhà nước.

thực hiện cơ chế giá do thị trường quyết định, thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ nguồn lực, đồng thời Nhà nước phải đổi mới phương thức sử dụng các cộng cụ quản lý để điều tiết các nguồn lực theo các kế hoạch và quy hoạch phù hợp với có chế thị trường.

thúc đẩy hình thành sở hữu xã hội và hoàn thiện thể chế, cơ chế, bảo hộ quyền tài sản của công dân để tài sản giao dịch thông suốt trên thị thị trường. Thể chế hóa đầy đủ, cụ thể quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu đối với đất đai, tài nguyên, khóng sản... phù hợp với cơ chế thị trường. Tiếp tục đổi mới việc đăng ký, chứng nhận quyền sử dụng đất, bảo hộ quyền tài sản hình thành từ quyền sử dụng đất. Triển khai áp dụng mô hình quản lý vốn hiện đại, tách rời giữa quyền quản lý kinh doanh vốn nhà nước với quản lý hành chính nhà nước của các bộ, ngành.

xác lập quyền bình đẳng của các chủ thể trên thị trường, thúc đẩy tự do kinh doanh, chống độc quyền.

tiếp tục đẩy mạnh sự phát triển động bộ, vận hành thông suốt của các thị trường trên cơ sở tập trung vào hoàn thiện các phương thức giao dịch hàng hóa - dịch vụ hiện đại, đổi mới chính sách đất đai để thúc đẩy thị trường quyền sử dụng đất, lập sàn giao dịch đất đai. Đổi mới hệ thống ngân hành theo các chuẩn mực quản trị hiện đại trên thế giới. Hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực có kỹ năng, thúc đẩy phát triển thị trường lao động thông qua hình thành sàn giao dịch việc làm gắn liền với xóa bỏ cơ chế quản lý hộ khẩu để thúc đẩy dịch chuyển lao động.

bảo đảm công bằng trong phân phối nguồn lực phát triển để các chủ thể của kinh tế thị trường có điều kiện phát huy cao nhất năng lực làm giàu cho mình và đóng góp cho xã hội. Có cơ chế khuyến khích thúc đẩy kinh tế chia sẻ và trách nhiệm xã hội trong nội bộ các doanh nghiệp, bảo đảm phân phối lại ngay trong nội bộ doanh nghiệp gắn với xây dựng văn hóa kinh doanh trong nền kinh tế thị trường hiện đại.Hoàn thiện công cụ thuế tác động, điều tiết doanh nghiệp gia tăng trách nhiệm xã hội. Có chính sách khuyến khích phát triển DNXH hội hướng tới phân khúc thị trường lao động cho người nghèo, người yếu thế, người gặp hoàn cảnh rủi ro dựa vào sự vận dụng nguyên tắc của thị trường và đề cao giá trị nhân đạo, nhân văn.

phát huy vai trò của thành tố xã hội bổ sung cho giới hạn của Nhà nước, góp phần khắc phục khuyết tật của thị trường, kiểm soát các nhóm lợi ích tác động gây méo mó quy luật của nền kinh tế thị trường và trục lợi chính sách./.

PGS. TS. Vũ Văn Hà
Đại học Đại Nam

Video liên quan

Chủ Đề