Luật an ninh mạng có cấm người sử dụng internet truy cập facebook, google, youtube không?

Luật An ninh mạng (ANM) được thông qua tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XIV, gồm 7 chương, 43 điều, quy định những nội dung cơ bản về bảo vệ ANM đối với hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia; phòng ngừa, xử lý hành vi xâm phạm ANM; triển khai hoạt động bảo vệ ANM và quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

Hành lang pháp lý cho hoạt động mạng

Trao đổi với Thanh Niên, một thành viên Ban soạn thảo luật ANM cho biết có 3 nội dung nổi bật, đáng lưu ý. Cụ thể là quy định bảo vệ ANM đối với hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia; các quy định xử lý hành vi sử dụng không gian mạng xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội nhằm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân, đồng thời cũng là cơ sở pháp lý quan trọng, nền tảng để cơ quan chức năng có thể tiến hành các hoạt động phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, điều tra, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật diễn ra trên không gian mạng; việc triển khai hoạt động bảo vệ ANM trong hệ thống cơ quan nhà nước từ T.Ư đến địa phương.

Cũng theo thành viên Ban soạn thảo luật, để bảo vệ tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, luật ANM đã dành 1 chương quy định đầy đủ các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh, xử lý nhằm loại bỏ các nguy cơ đe dọa, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật, bao gồm: phòng ngừa, xử lý thông tin trên không gian mạng có nội dung tuyên truyền chống nhà nước; kích động gây bạo loạn, phá rối an ninh, gây rối trật tự công cộng; làm nhục, vu khống; xâm phạm trật tự quản lý kinh tế; phòng, chống gián điệp mạng, bảo vệ thông tin bí mật nhà nước, bí mật công tác, thông tin cá nhân trên không gian mạng; phòng ngừa, xử lý hành vi sử dụng không gian mạng, công nghệ thông tin, phương tiện điện tử để vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự; phòng, chống tấn công mạng; phòng, chống khủng bố mạng; phòng, chống chiến tranh mạng; phòng ngừa, xử lý tình huống nguy hiểm về ANM; đấu tranh bảo vệ ANM. Đây là hành lang pháp lý vững chắc để người dân có thể yên tâm buôn bán, kinh doanh hay hoạt động trên không gian mạng.

Những hành vi nào bị nghiêm cấm?

Luật ANM nêu rõ, nghiêm cấm các hành vi chống nhà nước, bao gồm sử dụng không gian mạng tổ chức, lôi kéo, xúi giục, đào tạo, huấn luyện người chống nhà nước (ví dụ như hành vi đăng tải, phát tán thông tin kích động biểu tình trái pháp luật, kích động gây rối an ninh, trật tự); xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xúc phạm tôn giáo, phân biệt đối xử về giới, phân biệt chủng tộc; phát tán thông tin gây hại cho tổ chức, cá nhân gồm thông tin sai sự thật gây hoang mang trong nhân dân, gây thiệt hại cho hoạt động KT-XH, gây khó khăn cho hoạt động của cơ quan nhà nước hoặc người thi hành công vụ, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác.

Luật cũng nghiêm cấm hành vi thông tin trên không gian mạng có nội dung làm nhục, vu khống, giả mạo; các hành vi xâm phạm trật tự an toàn xã hội như sử dụng không gian mạng để hoạt động mại dâm, tệ nạn xã hội, mua bán người; đăng tải thông tin dâm ô, đồi trụy, tội ác; phá hoại thuần phong, mỹ tục của dân tộc, đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng; xúi giục, lôi kéo, kích động người khác phạm tội; thực hiện tấn công mạng, gián điệp mạng, khủng bố mạng; sản xuất, sử dụng công cụ, phương tiện, phần mềm hoặc có hành vi cản trở, gây rối loạn hoạt động của mạng viễn thông, mạng internet, hệ thống thông tin hay hành vi phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng viễn thông, mạng internet, mạng máy tính, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin...

Hành vi chống lại hoặc cản trở hoạt động của lực lượng bảo vệ an ninh mạng; tấn công, vô hiệu hóa trái pháp luật làm mất tác dụng biện pháp bảo vệ an ninh mạng bị nghiêm cấm. Bên cạnh đó, để tránh tình trạng lạm quyền trong thi hành công vụ, luật cũng cấm việc lợi dụng hoặc lạm dụng hoạt động bảo vệ ANM để xâm phạm chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân hoặc để trục lợi...

Liên quan đến việc luật ANM có hiệu lực, một trong những vấn đề được người dân quan tâm nhất hiện nay là luật có kiểm soát, làm lộ thông tin cá nhân của người sử dụng và có cấm người sử dụng internet truy cập các trang MXH như Facebook, Google, YouTube... không?

Về vấn đề này, Bộ Công an khẳng định luật không kiểm soát và làm lộ thông tin của công dân. Chỉ khi phục vụ điều tra, xử lý hành vi vi phạm pháp luật về ANM, luật mới yêu cầu doanh nghiệp cung cấp thông tin cá nhân có liên quan tới hành vi vi phạm pháp luật đó. Lực lượng chuyên trách bảo vệ ANM chỉ được phép tiếp cận thông tin cá nhân của người sử dụng có hoạt động vi phạm pháp luật, với trình tự, thủ tục nghiêm ngặt (bằng văn bản), được các cấp có thẩm quyền phê duyệt.

Các quy định trong bộ luật Tố tụng hình sự và các văn bản có liên quan đã quy định rõ về việc quản lý, sử dụng thông tin được cung cấp để phục vụ điều tra, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật. Các cơ quan chức năng, doanh nghiệp và tổ chức, cá nhân có liên quan phải có trách nhiệm bảo vệ bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình và đời sống riêng tư trên không gian mạng. Các hành vi như chiếm đoạt, mua bán, thu giữ, cố ý làm lộ, xóa, làm hư hỏng, thất lạc, thay đổi, đưa lên không gian mạng những thông tin thuộc bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình và đời sống riêng tư của người khác mà chưa được phép của người sử dụng hoặc trái quy định của pháp luật sẽ bị xử lý. Lực lượng chuyên trách bảo vệ ANM nếu lạm dụng, làm lộ thông tin cá nhân của người sử dụng sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật.

Bộ Công an cũng khẳng định luật ANM không cấm người dân truy cập Facebook, Google, YouTube. Người dân VN vẫn được tự do truy cập vào các trang mạng này hay bất kỳ trang MXH nào khác ở trong và ngoài nước. Ngược lại, luật ANM quy định các biện pháp bảo vệ về ANM cho người dân khi tham gia hoạt động trên các trang MXH như Facebook, Google... Tuy nhiên, người nào sử dụng những MXH trên hoặc bất kỳ MXH nào khác để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật đều bị xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật.

Tin liên quan

Cảm ơn bạn đã gửi câu hỏi đến Vanbanluat.com, Ban tư vấn của Vanbanluat.com xin trả lời bạn như sau:   

Luật An ninh mạng số 24/2018/QH14 không ngăn cản, xâm phạm quyền tự do ngôn luận của công dân.

Các hoạt động liên lạc, trao đổi, đăng tải, chia sẻ thông tin, mua bán, kinh doanh, thương mại vẫn diễn ra bình thường trên không gian mạng, không hề bị ngăn cản, cấm đoán, miễn là những hoạt động đó không vi phạm pháp luật của Việt Nam.

Công dân có thể làm bất cứ điều gì trên không gian mạng mà pháp luật Việt Nam không cấm.

Ngược lại: Luật An ninh mạng bảo vệ cho các hoạt động tự do ngôn luận, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức cá nhân khi mua bán, kinh doanh, trao đổi, thương mại trên không gian mạng

Luật An ninh mạng số 24/2018/QH14 không cấm người dân truy cập Facebook, Google, Youtube.

Người dân Việt Nam vẫn được tự do truy cập vào các trang mạng của Facebook, Google, Youtube hay bất kỳ trang mạng xã hội nào khác ở trong và ngoài nước.

Ngược lại, Luật An ninh mạng quy định các biện pháp bảo vệ về an ninh mạng cho người dân khi tham gia hoạt động trên các trang mạng xã hội như Facebook, Google…

Tuy nhiên, người nào sử dụng những mạng xã hội trên hoặc bất kỳ mạng xã hội nào khác để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật đều bị xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật.

Bộ Công an vừa có trả lời thắc mắc của người dân liên quan đến Luật An ninh mạng. Theo đó, có ý kiến lo ngại luật này sẽ kiểm soát các hoạt động của công dân trên mạng xã hội, thậm chí làm lộ thông tin cá nhân…

Tuy nhiên, Bộ Công an khẳng định Luật An ninh mạng sẽ không dẫn tới các hệ quả nói trên.

Luật an ninh mạng có cấm người sử dụng internet truy cập facebook, google, youtube không?

 Bộ Công an khẳng định Luật An ninh mạng được ban hành không kiểm soát và làm lộ thông tin, không cấm người dân truy cập Facebook, Google hay Youtube-Ảnh minh họa

Kích động khủng bố, bạo loạn trên không gian mạng Theo Bộ Công an, Việt Nam đang phải đối phó với hàng chục nghìn cuộc tấn công mạng với quy mô lớn, cường độ cao mỗi năm, đe dọa trực tiếp đến an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội, gây tổn thất nặng nề về kinh tế. Không gian mạng và một số loại hình dịch vụ, ứng dụng trên không gian mạng còn bị các thế lực thù địch, phản động sử dụng để phát tán thông tin kêu gọi biểu tình, tụ tập trái phép phá rối an ninh trật tự, kích động bạo loạn, khủng bố, lật đổ chính quyền nhân dân, xâm phạm chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia. Tình trạng đăng tải thông tin xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc, xúc phạm tôn giáo; lan truyền thông sai sự thật, làm nhục, vu khống tổ chức, cá nhân… diễn ra tràn lan trên không gian mạng nhưng chưa có biện pháp quản lý hữu hiệu, dẫn tới nhiều hậu quả đáng tiếc về nhân mạng, tinh thần; hoạt động sử dụng không gian mạng để xâm phạm trật tự, an toàn xã hội ngày càng gia tăng và phức tạp như đánh bạc, lừa đảo, đánh cắp tài khoản ngân hàng, rửa tiền, mại dâm, ma túy… Năng lực, tiềm lực quốc gia về an ninh mạng chưa có chính sách điều chỉnh phù hợp, kịp thời; sự phụ thuộc vào thiết bị công nghệ thông tin có nguồn gốc nước ngoài… đặt yêu cầu bức thiết phải xây dựng, hình thành nền công nghiệp an ninh mạng. Bên cạnh đó, công tác quản lý nhà nước về an ninh thông tin, an ninh mạng tại các bộ, ban, ngành, địa phương còn tồn tại những bất cập, hạn chế, thiếu đồng bộ do chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào điều chỉnh vấn đề này cho đến khi Luật An ninh mạng được ban hành. Do vậy, việc ban hành Luật An ninh mạng là rất cần thiết để đáp ứng yêu cầu cấp thiết về bảo vệ an ninh mạng trong tình hình hiện nay.


Không kiểm soát, lộ lọt thông tin

Bộ Công an khẳng định Luật An ninh mạng được ban hành không kiểm soát và làm lộ thông tin của công dân. Cụ thể, luật quy định chỉ khi phục vụ điều tra, xử lý hành vi vi phạm pháp luật về an ninh mạng, Luật An ninh mạng mới yêu cầu doanh nghiệp cung cấp thông tin cá nhân có liên quan tới hành vi vi phạm pháp luật đó. Lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng chỉ được phép tiếp cận thông tin cá nhân của người sử dụng có hoạt động vi phạm pháp luật, với trình tự, thủ tục nghiêm ngặt (bằng văn bản), được các cấp có thẩm quyền phê duyệt. Các quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự và các văn bản có liên quan đã quy định rõ về việc quản lý, sử dụng thông tin được cung cấp để phục vụ điều tra, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật. Các cơ quan chức năng, doanh nghiệp và tổ chức, cá nhân có liên quan phải có trách nhiệm bảo vệ bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình và đời sống riêng tư trên không gian mạng. Các hành vi như chiếm đoạt, mua bán, thu giữ, cố ý làm lộ, xóa, làm hư hỏng, thất lạc, thay đổi, đưa lên không gian mạng những thông tin thuộc bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình và đời sống riêng tư của người khác mà chưa được phép của người sử dụng hoặc trái quy định của pháp luật sẽ bị xử lý. Bên cạnh đó, lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng nếu lạm dụng, làm lộ thông tin cá nhân của người sử dụng sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật.

Không cấm người dân dùng Facebook

Bộ Công an cũng cho rằng Luật An ninh mạng không cấm người dân truy cập Facebook, Google, Youtube. Người dân Việt Nam vẫn được tự do truy cập vào các trang mạng này hay bất kỳ trang mạng xã hội nào khác ở trong và ngoài nước. Ngược lại, Luật An ninh mạng quy định các biện pháp bảo vệ về an ninh mạng cho người dân khi tham gia hoạt động trên các trang mạng xã hội như Facebook, Google... Tuy nhiên, người nào sử dụng những mạng xã hội trên hoặc bất kỳ mạng xã hội nào khác để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật đều bị xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, khi được ban hành, Luật An ninh mạng có tính thống nhất cao với hệ thống pháp luật hiện hành của Việt Nam, bởi không gian mạng đã bao phủ toàn bộ các lĩnh vực của đời sống xã hội.

Luật An ninh mạng có phản ánh trực tiếp hoặc gián tiếp một số nội dung theo 29 điều của Bộ luật Hình sự; có liên quan tới các quy định về bảo vệ quyền con người trong Hiến pháp, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự và các văn bản khác có liên quan; đồng thời liên quan chặt chẽ tới Luật Xử lý vi phạm hành chính và các văn bản hướng dẫn thi hành.