Nguyên nhân không gây suy giảm đa dạng sinh học

  • Bộ Tài nguyên Môi trường
  • Tin ngành

Đa dạng sinh học không những cung cấp trực tiếp những phúc lợi cho xã hội như: lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, vật liệu xây dựng, năng lượng, mà còn có giá trị đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ sinh học, trong ứng dụng thực tiễn sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, công nghiệp, y tế, du lịch…nó còn là một cấu thành quan trọng trong chiến lược bảo đảm an ninh lương thực, xóa đói giảm nghèo của cả nước nói chung và của Bắc Ninh nói riêng. Tuy nhiên việc khai thác quá mức nguồn tài nguyên thiên nhiên và quy hoạch phát triển chưa hợp lý đã tác động lớn tới đa dạng sinh học, gây suy thoái đa dạng sinh học trên địa bàn.

Đa dạng sinh học không những cung cấp trực tiếp những phúc lợi cho xã hội như: lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, vật liệu xây dựng, năng lượng, mà còn có giá trị đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ sinh học, trong ứng dụng thực tiễn sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản, công nghiệp, y tế, du lịch…nó còn là một cấu thành quan trọng trong chiến lược bảo đảm an ninh lương thực, xóa đói giảm nghèo của cả nước nói chung và của Bắc Ninh nói riêng. Tuy nhiên việc khai thác quá mức nguồn tài nguyên thiên nhiên và quy hoạch phát triển chưa hợp lý đã tác động lớn tới đa dạng sinh học, gây suy thoái đa dạng sinh học trên địa bàn.

Việt Nam được biết đến như là một trung tâm đa dạng sinh học của thê giới, với các hệ sinh thái tự nhiên phong phú. Trong đó Bắc Ninh cũng đóng góp nhiều hệ sinh thái động, thực vật khá đa dạng. Tuy là một tỉnh có diện tích nhỏ của cả nước song Bắc Ninh cũng có một hệ sinh thái rừng, với tổng diện tích khoảng hơn 660 ha, phân bố chủ yếu ở các huyện Quế Võ, Tiên Du. Tổng trữ lượng gỗ khoảng hơn 3.200m3, bao gồm rừng phòng hộ hơn 360m3, rừng đặc dụng gần 2.920m3. Đặc biệt có nhiều khu vực có các hệ sinh thái tự nhiên như các hệ thống đầm, ao, hồ, sông ngòi khá dầy đặc có vai trò cung cấp nguồn nước cho sản xuất nông nghiệp, đồng thời còn tạo ra các mặt thoáng có tác dụng điều hòa không khí.

Ở Bắc Ninh cũng có các nguồn gen quý là gà Hồ, gà Đông Cảo, gà ri là những giống gà quý của miền Bắc và khu bảo tồn sinh thái vườn cò Đông Xuyên (Yên Phong). Song do tác động của phát triển công nghiệp, quy hoạch đô thị nên những hệ sinh thái tự nhiên này đang dần bị suy giảm. Diện tích các khu vực có các hệ sinh thái quan trọng dần bị thu hẹp. Nhiều vùng nước bị lấp đầy để lấy mặt bằng sản xuất, xây dựng nhà ở. Số loài và số lượng cá thể của các loại thực, động vật hoang dã có nguy cơ diệt vong, các nguồn gen hoang dã đang trên đà suy thoái nhanh.

Chẳng hạn như giống gà Hồ hiện chỉ còn khoảng 200 con tương đối thuần chủng đang được nuôi ở thôn Lạc Thổ (thị trấn Hồ, Thuận Thành). Còn giống gà Đông Cảo, gà ri hầu như không còn tồn tại. Vườn cò Đông Xuyên cũng đang bị suy giảm nghiêm trọng do tình trạng săn bắn bừa bãi…

Các xu hướng thay đổi của các hệ sinh thái, đa dạng loài và đa dạng di truyền cho thấy nguy cơ về một làn sóng tuyệt chủng của các loài sinh vật. Các giống bản địa bị mất dần do sự du nhập của các giống mới hay các động, thực vật ngoại lai. Những mất mát đó rất nghiêm trọng vì các giống bản địa có tính đa dạng di truyền hơn hẳn các giống ngoại lai, các giống mới năng suất cao, vì vậy có khả năng chống chịu với sâu hại và bệnh tật, đây chính là nguồn nguyên liệu quý để lai tạo và cải tiến các giống.

Suy thoái đa dạng sinh học dẫn đến mất cân bằng sinh thái, ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường sống của con người, đe dọa sự phát triển bền vững của trái đất. Mặt khác sinh vật và hệ sinh thái là nguồn cung cấp lương thực, thực phẩm, công cụ, nhiên liệu… Do vậy khi hệ sinh thái bị suy thoái sẽ ảnh hưởng đến an ninh lương thực làm cho con người phải đối mặt với nguy cơ đói nghèo, suy giảm nguồn gen và đặc biệt là biến đổi khí hậu dẫn đến hàng loạt các thảm họa thiên nhiên đe dọa cuộc sống của con người.

Tình hình hiện nay cho thấy việc khôi phục bảo vệ các hệ sinh thái, nguồn tài nguyên rừng, sự đa dạng loài và đa dạng di truyền để bảo tồn đa dạng sinh học, ngăn chặn sự diệt vong của các loài quý hiếm là một việc làm cấp bách.

Thái Uyên

Việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất, mặt nước không phù hợp, tình trạng khai thác quá mức, ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, nhất là nạn buôn bán động, thực vật trái phép… đang là những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng suy giảm đa dạng sinh học ngày một gia tăng ở nước ta thời gian qua.

Nguyên nhân không gây suy giảm đa dạng sinh học
Cá thể gấu sau khi được cứu đang sinh sống tại Trung tâm Cứu hộ gấu Việt Nam

Theo số liệu thống kê, đa dạng sinh học cung cấp thu nhập chính hoặc một phần cho khoảng 20 triệu người dân Việt Nam từ tài nguyên thủy sinh; mang lại thu nhập từ 20 đến 50% cho khoảng 25 triệu người sống trong hoặc gần rừng từ khai thác lâm sản ngoài gỗ. Rừng ngập mặn dọc bờ biển còn đóng vai trò là những “lá chắn xanh” làm giảm từ 20% đến 70% sức mạnh của sóng biển, đồng thời giúp bảo đảm an toàn đê biển, tiết kiệm hàng nghìn tỷ đồng chi phí đê điều hằng năm. Đa dạng sinh học và các cảnh quan trên cạn và ven biển, đảo là nền tảng cho du lịch biển bền vững.

Nhận thức được tầm quan trọng của nguồn tài nguyên đa dạng sinh học mang lại, Chính phủ Việt Nam đã tham gia và thực hiện nhiều cam kết quốc tế liên quan đến đa dạng sinh học như: Công ước Đa dạng sinh học (năm 1994); Công ước về chống sa mạc hóa (năm 1994); Công ước về kiểm soát buôn bán các loài hoang dã nguy cấp (năm 1994); Nghị định thư Nagoya về tiếp cận nguồn gen và chia sẻ lợi ích phát sinh từ việc sử dụng nguồn gen (năm 2004)… Tuy nhiên, với áp lực phát triển kinh tế-xã hội, trong đó có việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất, mặt nước chưa phù hợp, khai thác quá mức và buôn bán trái phép động thực vật hoang dã; ô nhiễm môi trường; biến đổi khí hậu; sinh vật ngoại lai xâm hại có xu hướng gia tăng, ảnh hưởng ngày càng lớn đến đa dạng sinh học.

Mặt khác, hệ thống chính sách, pháp luật của nước ta chưa đồng bộ, tính hiệu lực, hiệu quả chưa cao; nguồn tài chính đầu tư cho đa dạng sinh học hạn hẹp, nhận thức về bảo tồn đa dạng sinh học của người dân còn nhiều hạn chế… đang là những nguyên nhân chính dẫn đến sự suy giảm đa dạng sinh học thời gian qua. Điển hình như trong 20 năm vừa qua, diện tích thảm cỏ biển ở Việt Nam đã giảm 45,4% và tỷ lệ giảm trung bình mỗi năm trên cả nước là 4,4%. Đáng lo ngại, một số nơi tại vùng biển Quảng Ninh và Hải Phòng thảm cỏ biển đã biến mất hoàn toàn. Khi thảm cỏ biển bị suy thoái, nguồn lợi thủy sản cũng bị suy giảm theo dẫn đến nhiều loài sinh vật biển quý hiếm sẽ bị mất đi nguồn dinh dưỡng và môi trường sống.

Các kết quả nghiên cứu và công bố của Viện Hải dương học Nha Trang về hiện trạng, xu thế biến động rạn san hô trong khu bảo tồn biển vịnh Nha Trang vào các năm 2015, 2017, 2019 và 2020 cho thấy: Độ bao phủ trung bình của san hô cứng đạt 22% và đang có chiều hướng suy giảm. Đặc biệt, san hô cứng tại khu vực đảo Hòn Mun có tỷ lệ độ phủ trung bình đã suy giảm nghiêm trọng (năm 2016 là 51,095% đến năm 2020 còn 16,88%). Với điều kiện môi trường hiện nay ở vịnh Nha Trang, rất khó có khả năng phục hồi rạn san hô trong tương lai gần.

Trong sách Đỏ Việt Nam năm 2007, tổng số các loài động, thực vật hoang dã tự nhiên đang bị đe dọa là 882 loài, trong đó có tới tám loài được xem đã tuyệt chủng ngoài tự nhiên, gồm: Tê giác hai sừng, bò xám, heo vòi, cầy dái cá, cá chép gốc, cá lợ thân thấp, hươu sao, cá sấu hoa cà. Các nhà khoa học Việt Nam đã đề xuất đưa vào Sách đỏ Việt Nam giai đoạn tới 1.211 loài, gồm 600 loài thực vật và 611 loài động vật. Trong đó, nhiều loài động vật trước đây chỉ ở mức sắp nguy cấp thì nay bị xếp ở mức rất nguy cấp như hoàng đàn, bách vàng, sâm vũ điệp, tam thất hoang…

Giáo sư, Tiến sĩ khoa học Trương Quang Học (Viện Tài nguyên và Môi trường, Đại học Quốc gia Hà Nội) cho rằng: Để ngăn chặn suy giảm đa dạng sinh học; từng bước nâng cao hiệu quả quản lý bền vững hệ thống di sản thiên nhiên, khu bảo tồn thiên nhiên và hành lang đa dạng sinh học, Việt Nam cần tập trung thực hiện hiệu quả các chiến lược, quy hoạch bảo tồn đa dạng sinh học quốc gia; tiếp tục củng cố và mở rộng hệ thống di sản thiên nhiên, khu bảo tồn thiên nhiên và thúc đẩy thành lập các khu bảo tồn đất ngập nước và biển. Ngoài ra, Chính phủ cần tiếp tục đầu tư kinh phí cho công tác bảo tồn đa dạng sinh học, trong đó tập trung nghiên cứu, áp dụng các cơ chế tài chính mới để huy động nguồn lực cho bảo tồn và sử dụng bền vững đa dạng sinh học phù hợp các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết…

Các chuyên gia môi trường, đa dạng sinh học đề nghị Bộ Tài nguyên và Môi trường phối hợp các bộ, ngành, địa phương kiểm soát chặt chẽ hoạt động chuyển mục đích sử dụng đất, rừng, mặt nước; đồng thời thực hiện hiệu quả các giải pháp kiềm chế tình trạng ô nhiễm môi trường tác động tiêu cực đến đa dạng sinh học; tiếp tục thúc đẩy các mô hình sản xuất và tiêu dùng bền vững, nhất là phát triển, nhân rộng các mô hình kinh tế chia sẻ, tuần hoàn, các-bon thấp, sinh thái, thân thiện với môi trường.

Các cơ quan quản lý nhà nước cần kiểm soát chặt chẽ nạn khai thác, nuôi nhốt, buôn bán và tiêu thụ động vật, thực vật hoang dã trái pháp luật; kiểm soát việc khai thác tận diệt các loài hoang dã, đặc biệt là các loài chim trong các mùa di cư, các loài thủy sinh trong mùa sinh sản; tăng cường tuyên truyền, vận động người tiêu dùng không tiêu thụ, sử dụng các sản phẩm từ động vật hoang dã; đồng thời tiếp tục củng cố mạng lưới thực thi pháp luật về bảo tồn động vật, thực vật, nhất là tại tuyến cơ sở trên cả nước…

(Theo nhandan.com.vn)