Những áp lực của đô thị hóa là gì năm 2024

Theo bà Carolyn Turk, Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, đô thị hóa sẽ tiếp tục là một chương trình nghị sự quan trọng của chính phủ Việt Nam nói riêng và chính phủ các quốc gia trong khu vực châu Á nói chung.

Tác động của đô thị hoá đến tăng trưởng…

Trong hơn 20 năm qua, Việt Nam đã đạt được những bước tiến đáng kể về kinh tế, với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm đạt mức trên 6%. Tốc độ tăng trưởng này chủ yếu được thúc đẩy bởi tăng năng suất và hiệu ứng quần tụ do quá trình đô thị hóa nhanh chóng mang lại, tuy nhiên quá trình này cũng đi kèm với một số thách thức mới. Tỷ lệ dân số sống ở thành thị tăng nhanh. Theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019, dân số thành thị là 33.122.548 người, chiếm 34,4% tổng dân số cả nước. Tỷ lệ tăng dân số bình quân năm khu vực thành thị giai đoạn 2009 – 2019 là 2,64%/năm, gấp hơn 2 lần tỷ lệ tăng dân số bình quân năm của cả nước và gấp 6 lần so với tỷ lệ tăng dân số bình quân năm khu vực nông thôn cùng giai đoạn.

Hiện nay, các đô thị đóng góp trên 50% GDP quốc gia. Trong quá trình đô thị hóa, Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ một chiến lược đô thị hóa mà tận dụng hiệu quả của nền kinh tế quần tụ để tăng trưởng, thông qua việc nâng cao hiệu quả trong việc sử dụng tài khóa, đất đai, lao động và các nguồn lực khác. Đồng thời, các đô thị nên đầu tư vào kế hoạch tăng cường khả năng chống chịu để giảm thiểu những thách thức mới như biến đổi khí hậu và để giảm thiểu thiệt hại của các sự kiện có tác động tiêu cực và bảo vệ thành quả phát triển.

Mặc dù đã đạt được những thành tựu ấn tượng, quá trình đô thị hóa của Việt Nam hiện đang ở thời điểm mang tính chất bước ngoặt khi phương pháp tiếp cận phát triển đô thị hiện tại đang dần chạm đến giới hạn của nó. Các nhà hoạch định chính sách có thể chọn lộ trình “dễ đi” hơn, bằng cách tiếp tục các chính sách không gian hiện tại mà đã mang lại kết quả tốt trong những thập kỷ gần đây nhưng có thể sẽ làm tăng chi phí đối với các triển vọng phát triển dài hạn do ngày càng dẫn đến nhiều thách thức. Hoặc Việt Nam cũng có thể chọn lộ trình “khó đi” hơn, định hình lại phương pháp tiếp cận và áp dụng một chiến lược mà đặt việc nâng cao hiệu quả và tính bền vững làm trọng tâm, để đảm bảo quá trình đô thị hóa của Việt Nam luôn thành công trong một thế giới đang thay đổi nhanh chóng.

Áp lực cung cấp dịch vụ đối với chính quyền các thành phố đang ngày càng tăng. Để nhanh chóng đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng, chính quyền các thành phố thường tập trung vào nhanh chóng xây dựng và mở rộng cơ sở hạ tầng và dịch vụ mà không tính đến rủi ro khí hậu hoặc tính bền vững. Ngoài ra còn có nhiều điểm bất cập về chính sách, cơ chế và năng lực để lồng ghép hiệu quả các cân nhắc về khí hậu và khả năng chống chịu vào quy hoạch đầu tư vốn. Kết quả là các khoản đầu tư được ưu tiên đi chệch hướng so với lộ trình bền vững và các-bon thấp, đồng thời không tận dụng được các cơ hội tiềm năng để thu được lợi ích tài chính thông qua tăng hiệu quả.

Và một số bài học kinh nghiệm

Bà Carolyn Turk cũng bày tỏ sự ủng hộ việc Bộ Chính trị thông qua Nghị quyết số 6 về quy hoạch, xây dựng và quản lý phát triển đô thị bền vững Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Theo bà, Nghị quyết quan trọng này sẽ là công cụ xác định tầm nhìn, nền tảng và định hướng cho những năm tới, định hướng đất nước phát triển đô thị thông minh, xanh và bền vững giai đoạn 2030-2045. Nghị quyết sẽ cho phép các nhà hoạch định chính sách ở tất cả các cấp xây dựng một phương pháp tiếp cận quốc gia tổng thể - kết hợp các chính sách, quy định phối hợp sắp xếp thể chế và các chương trình đầu tư - để giải quyết các thách thức đô thị ngày càng phức tạp và phối hợp hiệu quả các giải pháp đa ngành. Thực hiện hiệu quả nghị quyết quan trọng này sẽ là chìa khóa thành công; đồng thời, cũng nên tham khảo một số bài học được đúc rút từ kinh nghiệm quốc tế sau:

Thứ nhất, cần củng cố thể chế và nâng cao năng lực để tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển đổi cách tiếp cận đối với phát triển đô thị bền vững và có khả năng chống chịu. Sự thay đổi này đòi hỏi quy hoạch không gian tích hợp phải có cân nhắc đến vấn đề khí hậu và cho phép các bộ, ban, ngành phối hợp với nhau trên nền tảng số để phát triển các quy hoạch tổng thể. Sau khi các quy hoạch tổng thể được xác định, việc thực thi là vô cùng quan trọng; nên tập trung vào việc hạn chế chuyển đổi đất từ mục đích sử dụng nông nghiệp sang phi nông nghiệp, mà hiện có xu hướng tăng nhanh trong thập kỷ qua. Theo dữ liệu ánh sáng ban đêm, khu vực “đô thị” của Việt Nam đã mở rộng gấp bốn lần trong 7 năm, từ 2010 đến 2017 so với giai đoạn 14 năm, từ 1996 đến 2010. Từ năm 2000 đến 2015, mật độ dân số đô thị của Việt Nam duy trì ở mức 1.890 người/km2, thấp so với khu vực.

Thứ hai, để cải thiện năng lực cạnh tranh và hiệu quả của các đô thị tại Việt Nam, việc tăng cường đầu tư vào cơ sở hạ tầng đô thị là rất quan trọng, đặc biệt là đầu tư vào quản lý rủi ro lũ lụt và hệ thống giao thông công cộng công suất cao. Điều này đòi hỏi phải phân bổ thêm nguồn lực đầu tư cho các thành phố, đồng thời cần xem xét các biện pháp khác để tăng cường đầu tư. Nên tìm hiểu các cơ chế nắm bắt giá trị đất đai khác nhau, chẳng hạn như thuế tài sản để chống tích trữ và đầu cơ đất đai, người sử dụng đất cùng phát triển ở quy mô nhỏ, điều chỉnh lại đất đai dựa trên sự đồng thuận của người sử dụng đất, và di dời hoặc tái phát triển các hoạt động công nghiệp hoặc các hoạt động có giá trị gia tăng thấp khác.

Thứ ba, song song với việc cải thiện năng lực cạnh tranh, cần phải đối phó với biến đổi khí hậu, bởi lẽ lũ lụt đô thị là một thách thức nghiêm trọng và có xu hướng ngày càng tăng. Việt Nam là một trong năm quốc gia dễ bị tổn thương nhất trước biến đổi khí hậu trên thế giới và hơn 35% khu dân cư hiện đang nằm ở các khu vực ven biển. Đảm bảo rằng việc phát triển có cân nhắc đến các vấn đề khí hậu là đặc biệt quan trọng, điều này sẽ đòi hỏi một phương pháp tiếp cận có cấu trúc để đảm bảo rằng vừa đảm bảo tính cạnh tranh và tính bền vững. Một cân nhắc quan trọng đối với việc phát triển cơ sở hạ tầng mới là lồng ghép tư duy và biện pháp tăng cường khả năng chống chịu vào quy hoạch, kỹ thuật và thiết kế và vận hành cơ sở hạ tầng, dù là bất kể loại cơ sở hạ tầng nào.

Để hỗ trợ phát triển đô thị bền vững, rủi ro khí hậu cần được hiểu một cách có hệ thống. Điều này sẽ cho phép các nhà hoạch định và các nhà lãnh đạo tránh tạo ra các rủi ro khí hậu mới nhiều nhất có thể, điều này có thể đạt được bằng cách cung cấp kiến thức về môi trường xây dựng nhân tạo [con người và cơ sở hạ tầng] với môi trường tự nhiên [các mối nguy hại]. Trong quá trình đó, các nhà quy hoạch có thể hiểu được tác động của rủi ro khí hậu đối với việc thúc đẩy các quỹ đạo phát triển không gian khác nhau và “lèo lái” quá trình phát triển để hướng tới một lộ trình có khả năng chống chịu cao hơn. Ví dụ, ở cả Colombia và Philippines, các nền tảng dữ liệu không gian cung cấp kiến thức về môi trường tự nhiên và xây dựng nhân tạo, đồng thời một số chính sách cũng đã được đưa ra để hoàn thành đánh giá rủi ro khí hậu trong khuôn khổ của tất cả quá trình phát triển cơ sở hạ tầng mới.

Thứ tư, để làm chậm tác động của biến đổi khí hậu, đạt được các cam kết phát thải ròng bằng không ở COP-26, sẽ đòi hỏi cả sự lãnh đạo tập trung do chính phủ lãnh đạo và các nỗ lực phối hợp trong khu vực. Các yêu cầu tài chính lớn để phục vụ quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế các-bon thấp cũng đòi hỏi tối đa hóa khả năng tiếp cận các nguồn tài chính ưu đãi cao. Cũng nên tìm hiểu các nguồn tài chính bổ sung, chẳng hạn như việc bán các khoản tín chỉ các-bon vào thị trường tư nhân quốc tế. Cơ sở hạ tầng của thị trường này đã có sẵn và đang vận hành trơn tru, bao gồm cả cơ quan đăng ký và hệ thống Đo lường, báo cáo và xác minh [MRV]. Thị trường này đã tăng gấp 4 lần về quy mô vào năm ngoái, sau khi tăng gấp đôi vào năm trước và xu hướng tăng trưởng này dự kiến sẽ tiếp tục trong thời gian tới.

Các thành phố có thể và sẽ có đóng góp quan trọng vào phát thải ròng bằng không. Điều này có thể đạt được bằng cách thực hiện một số lượng lớn các khoản đầu tư nhỏ vào sản xuất năng lượng tái tạo và hiệu quả năng lượng, đóng gói các tác động giảm phát thải của các khoản đầu tư này và bán các khoản tín chỉ ra thị trường.

Để hỗ trợ Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh của các đô thị và ứng phó với biến đổi khí hậu, Ngân hàng Thế giới cam kết hỗ trợ Chính phủ, Bộ Xây dựng và các bộ, ngành liên quan xây dựng chương trình thành phố bền vững và có khả năng chống chịu quốc gia. Ngân hàng Thế giới cũng cam kết hợp tác với chính quyền trung ương và địa phương để thiết lập một khuôn khổ hoạt động và phân tích trên toàn quốc, nhằm hỗ trợ Việt Nam đối phó với những thách thức mới nổi và ngày càng tăng trong quá trình phát triển đô thị.

“Yếu tố quan trọng góp phần tạo nên thành công là kết nối chính quyền trung ương và địa phương, tận dụng sức mạnh tập thể của các cán bộ quốc gia, tỉnh và thành phố, cùng với các chuyên gia kỹ thuật. Điều này cho phép các bên liên quan nắm được và thống nhất về các ưu tiên và cùng tạo ra các hành động tiềm năng để lồng ghép khả năng chống chịu vào quá trình phát triển cơ sở hạ tầng chiến lược”. - theo bà Carolyn Turk.

“Chúng tôi cam kết không ngừng hỗ trợ cho quá trình đô thị hóa của Việt Nam, nhằm đạt được mục tiêu trở thành quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045. Chúng tôi đã thử nghiệm các công cụ và áp dụng kiến thức chuyên môn sâu rộng nhằm giúp các thành phố của Việt Nam đi đúng hướng trên lộ trình “khó đi” để có khả năng chống chịu và ứng phó với biến đổi khí hậu cũng như những bất ổn khác, nhằm đạt được sự phát triển thực sự bền vững. Điều này là vô cùng quan trọng. Ngân hàng Thế giới sẵn sàng hành động để hỗ trợ tất cả các bên liên quan hướng tới phát triển các thành phố thích ứng tốt với biến đổi khí hậu, xanh và bền vững, nhằm đạt được tầm nhìn của Chính phủ về phát triển đô thị bền vững theo hướng thông minh và thích ứng với biến đổi khí hậu” - bà Carolyn Turk nhấn mạnh.

Chủ Đề