Những địa đánh Him Lam Độc Lập Bản Kéo Mường Thanh gọi đến chiến dịch nào

Nối giữa đôi bờ dòng sông Nậm Rốm, cây cầu Mường Thanh vẫn hằng ngày nhộn nhịp bước chân người dân Điện Biên và du khách qua lại. Cũng chính tại cây cầu này, chiều 07/5/1954 đã đón những bước chân Chiến sĩ Điện Biên xông vào hầm chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp, bắt sống tướng De Castries cùng toàn bộ Bộ tham mưu, kết thúc “56 ngày đêm bão lửa” của chiến dịch Điện Biên Phủ đồng thời kết thúc oanh liệt cuộc kháng chiến chống Thực dân Pháp trường kỳ, gian khổ của Quân và dân Việt Nam.

Di tích cầu Mường Thanh

    Cây cầu nối giữa quá khứ với hiện tại như đưa mỗi chúng ta trở về những năm tháng hào hùng của trận Điện Biên Phủ năm xưa. Vào ngày 20/11/1953, Thực dân Pháp đã chọn Điện Biên Phủ để xây dựng Tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương lúc bấy giờ với 49 cứ điểm chia thành 3 phân khu: Phân khu Bắc gồm cứ điểm Him Lam, Độc Lập và Bản Kéo. Phân khu Nam hay còn gọi là phân khu Hồng Cúm. Phân khu Trung tâm là phân khu quan trọng nhất bao gồm 5 cụm cứ điểm: Huguette, Claudine, Eliane, Dominique, Beatrice và cơ quan Sở chỉ huy Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Thực dân Pháp  đã bố trí hai phần ba quân số với hỏa lực mạnh tại phân khu trung tâm.
 

 Để thuận tiện cho quá trình di chuyển Quân Pháp cho xây dựng một cây cầu sắt bắc qua dòng sông Nậm Rốm và gọi đó là cầu “Prenley” - một công trình quân sự nằm trong phân khu trung tâm nối giữa các cứ điểm ở phía Tây sông Nậm Rốm với các cao điểm phía Đông của Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, là đường vận chuyển thực phẩm, nguyên vật liệu, đạn dược, dây thép gai... phục vụ cho việc xây dựng các cứ điểm phòng ngự ở khu vực phía Đông. Đây là cây cầu dã chiến được làm sẵn và vận chuyển từ Pháp sang, lắp ghép tại Điện Biên Phủ. Cầu dài 40m, rộng 5m, hai bên thành cầu là những thanh sắt chống đỡ đơn giản không có trục giữa, sàn cầu lát bằng gỗ, dưới là những thanh dầm bằng sắt được liên kết với nhau rất chắc chắn đảm bảo trọng tải từ 15 đến 18 tấn.

  Để bảo vệ cây cầu huyết mạch này, quân Pháp bố trí các cứ điểm: 507, 508 và 509 được mệnh danh là những “thiên thần gác cửa” với nhiệm vụ bảo vệ cây cầu, chi viện cho các cao điểm phía Đông và Đông Bắc Tập đoàn cứ điểm, bảo vệ Sở chỉ huy GONO. Ngay đầu cầu phía Tây quân Pháp bố trí 2 khẩu trọng liên 4 nòng – đó là loại hỏa lực mạnh để bảo vệ.

Đúng 8 giờ  sáng ngày 07/5/1954, các chiến sĩ Đại đội 360 thuộc Trung đoàn 209, Đại đoàn 312 bắt đầu đánh chiếm cầu Mường Thanh, hỏa lực của khẩu trọng liên 4 nòng liên tục xoay càng nhả đạn, cuộc chiến diễn ra vô cùng ác liệt nhưng các chiến sĩ Đại đội 360 vẫn chưa thể chiếm được cầu Mường Thanh. Đến 14 giờ ngày 07/5/1954, Trung đoàn 209 tiếp tục mở cuộc tấn công vào cứ điểm 507 ở gần cầu Mường Thanh, hỏa lực hai bên bắn ra dữ dội, tạo thành những làn đạn cài răng lược, lúc này cả hai bên bị thương vong lớn, hàng trăm chiến sỹ của ta đã nằm xuống bên kia đầu cầu Mường Thanh. Sau khi chiếm được cứ điểm 507 Đại đoàn 312 tiếp tục tiêu diệt hai cứ điểm còn lại 508, 509 ở tả ngạn sông Nậm Rốm. 16 giờ  ngày 07/5/1954 các pháo thủ của Đại đội 360, Tiểu đoàn 130, Trung đoàn 209, Đại đoàn 312 và pháo của Đại đoàn công pháo 351 đã tiêu diệt khẩu trọng liên 4 nòng này. Đúng 17 giờ chiều ngày 7/5/1954, Đại đội trưởng Tạ Quốc Luật cùng các chiến sĩ trong tổ xung kích vượt qua cầu Mường Thanh tiến thẳng vào Sở chỉ huy của tướng De Castries, bắt sống ông ta cùng toàn bộ Bộ tham mưu của Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.

Chiến thắng Điện Biên Phủ đã đi vào lịch sử của dân tộc như một mốc son chói lọi. Cây cầu Mường Thanh cùng với những di tích khác thuộc Di tích Quốc gia đặc biệt Chiến trường Điện Biên Phủ đã trở thành những minh chứng hào hùng cho chiến thắng vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Cây cầu Mường Thanh - cây cầu lịch sử nối giữa quá khứ với hiện tại, nối giữa chiến tranh và hòa bình vẫn từng ngày chứng kiến sự thay da đổi thịt của mảnh đất Điện Biên Phủ anh hùng./.
 

Tác giả bài viết: Linh Hồng

Nguồn tin: svhttdldienbien.gov.vn

Sau Cách mạng tháng Tám, thực dân Pháp được sự hỗ trợ của các thế lực đế quốc quay trở lại xâm lược nước ta. Ngày 19/12/1946, đáp lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã nhất tề bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ chống kẻ thù xâm lược.

Thực hiện đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính, với vũ khí thô sơ và tinh thần “cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh”, quân và dân ta đã lần lượt đánh bại các chiến lược quân sự của thực dân Pháp. Quân ta càng đánh, càng mạnh, càng thắng, quân viễn chinh Pháp ngày càng lún sâu vào thế bị động, lúng túng. Vùng giải phóng mở rộng, chính quyền nhân dân được củng cố. Đến năm 1953, nhân dân và quân đội ta đã làm chủ trên chiến trường. Để cứu vãn tình thế, bước vào Thu - Đông năm 1953, thực dân Pháp và bọn can thiệp Mỹ đã cho ra đời Kế hoạch Na-va tăng viện lớn về binh lực và chi phí chiến tranh, mưu toan trong vòng 18 tháng sẽ tiêu diệt phần lớn bộ đội chủ lực của ta, kiểm soát lãnh thổ Việt Nam và bình định cả Nam Đông Dương. Kế hoạch Na-va là kế hoạch chung, là nỗ lực cuối cùng của thực dân Pháp và can thiệp Mỹ nhằm giành lại thế chủ động có tính quyết định về quân sự trên chiến trường, làm cơ sở cho một giải pháp chính trị có lợi cho chúng. Pháp và Mỹ đã lập 07 sư đoàn cơ động chiến lược với 27 binh đoàn làm nắm đấm thép.

Tháng 9/1953, Bộ Chính trị họp bàn và quyết định mở cuộc tiến công chiến lược Đông - Xuân với phương châm: tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt, tiêu diệt sinh lực địch, bồi dưỡng lực lượng ta, chọn nơi địch sơ hở và nơi tương đối yếu mà đánh, chọn những hướng địch có thể đánh sâu vào vùng tự do, đẩy mạnh chiến tranh du kích, giữ vững thế chủ động, kiên quyết buộc địch phải phân tán lực lượng. Quân và dân ta đã phối hợp với quân và dân các nước Lào, Campuchia liên tiếp mở chiến dịch và giành thắng lợi ở Lai Châu, Trung Lào, Hạ Lào, Đông Campuchia, Tây Nguyên và Thượng Lào, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, mở rộng vùng giải phóng, làm phá sản âm mưu tập trung lực lượng của địch, buộc quân Pháp phải phân tán lực lượng để đối phó trên khắp chiến trường Đông Dương, đẩy chúng vào tình thế bị động chiến lược. Khi phát hiện hướng tiến công chiến lược của ta vào Tây Bắc, Lai Châu và Thượng Lào, Bộ chỉ huy quân viễn chinh Pháp đã cho quân nhảy dù chiếm Điện Biên Phủ, đây là cứ điểm có ý nghĩa chiến lược khống chế cả một vùng rộng lớn của Tây Bắc và Thượng Lào. Pháp và Mỹ đã liên tiếp cho tăng cường lực lượng, xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương, với 16.200 quân gồm 21 tiểu đoàn trong đó có 17 tiểu đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội xe tăng, 1 phi đội không quân, 1 đại đội vận tải cơ giới, được bố trí thành 3 phân khu Bắc, Trung, Nam với 49 cứ điểm; hệ thống hỏa lực mặt đất có 2 tiểu đoàn pháo 105mm, 1 đại đội pháo 155mm, 1 đại đội súng cối 120mm được bố trí ở Mường Thanh và Hồng Cúm; hai sân bay Mường Thanh và Hồng Cúm với gần 100 lần máy bay lên, xuống mỗi ngày có thể vận chuyển khoảng 200 đến 300 tấn hàng và thả dù từ 100 đến 150 tên địch. Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ được tướng Na-va coi như “một pháo đài không thể công phá”, là nơi thu hút để tiêu diệt bộ đội chủ lực của ta. Điện Biên Phủ đã trở thành quyết chiến điểm của Kế hoạch Na-va.

Trước tình hình đó, ngày 06/12/1953, Bộ Chính trị họp bàn, quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ và thông qua phương án tác chiến, thành lập Bộ Chỉ huy chiến dịch, Đảng ủy mặt trận do Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Tư lệnh kiêm Bí thư Đảng ủy chiến dịch. Chính phủ quyết định thành lập Hội đồng cung cấp mặt trận do đồng chí Phạm Văn Đồng làm Chủ tịch. Với ý nghĩa đặc biệt quan trọng của chiến dịch, Bộ Chính trị và Tổng Quân ủy đã quyết định tập trung 4 đại đoàn bộ binh, 1 đại đoàn công pháo với tổng quân số trên 40.000 người. Cả nước đã tập trung sức mạnh cho mặt trận Điện Biên Phủ với khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”, các đơn vị bộ đội chủ lực nhanh chóng tập kết, ngày đêm bạt rừng, xẻ núi mở đường, kéo pháo, xây dựng trận địa, sẵn sàng tiến công địch; 261.451 dân công, thanh niên xung phong bất chấp bom đạn hướng về Điện Biên để bảo đảm hậu cần phục vụ chiến dịch.

Ngày 25/01/1954, các đơn vị bộ đội ta đã ở vị trí tập kết sẵn sàng nổ súng theo phương châm tác chiến “đánh nhanh, giải quyết nhanh”. Nhưng nhận thấy địch đã tăng cường lực lượng phòng ngự vững chắc, Bộ Chỉ huy và Đảng ủy chiến dịch đã đưa ra quyết định đúng đắn: giữ vững quyết tâm tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, thay đổi phương châm tác chiến sang “đánh chắc, tiến chắc”. Đây là quyết định đúng đắn nhưng thời gian tác chiến dài hơn, cách đánh cũng khác hơn nên có những việc ta phải chuẩn bị lại từ đầu, như là việc tổ chức, bố trí hệ thống hỏa lực chiến dịch. Với địa hình hiểm trở, pháo của ta kéo vào tập trung tại trận địa, nay lại phải kéo pháo phân tán ra các trận địa mới trên các điểm cao tạo thành vòng cung bao vây tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, để bắn trực tiếp vào các mục tiêu dưới lòng chảo. Với tinh thần quả cảm, không quản ngại gian khổ, hy sinh, quân và dân ta đã vượt qua thử thách hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.   

Trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ đã diễn ra 3 đợt:

Đợt 1: Từ ngày 13 đến 17/3/1954, quân ta đã mưu trí dũng cảm tiêu diệt gọn cụm cứ điểm Him Lam và Độc Lập, bức hàng cứ điểm Bản Kéo, phá vỡ cửa ngõ phía Bắc của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ; diệt và bắt sống trên 2.000 tên địch, phá hủy 25 máy bay, xóa sổ 01 trung đoàn, uy hiếp sân bay Mường Thanh; đại tá Pirốt, Tư lệnh pháo binh Pháp ở Điện Biên Phủ, bất lực trước pháo binh của ta đã dùng lựu đạn tự sát.

Đợt 2: Từ ngày 30/3 đến ngày 30/4/1954, quân ta đồng loạt tiến công các cứ điểm phía Đông phân khu trung tâm thắt chặt vòng vây, chia cắt và liên tục tiến công, kiểm soát sân bay Mường Thanh, hạn chế tiếp viện của địch cho tập đoàn cứ điểm. Địch hết sức ngoan cố, muốn kéo dài thời gian. Na-va hy vọng đến mùa mưa ta phải cởi vòng vây. Đây là đợt tấn công dai dẳng, dài ngày nhất, quyết liệt nhất, gay go nhất, ta và địch giành giật nhau từng tấc đất, từng đoạn giao thông hào. Đặc biệt, tại đồi C1 ta và địch giằng co nhau tới 20 ngày, đồi A1 giằng co tới 30 ngày. Sau đợt tấn công thứ 2, khu trung tâm Điện Biên Phủ đã nằm trong tầm bắn các loại súng của ta, quân địch rơi vào tình trạng bị động, mất tinh thần cao độ.

Đợt 3: Từ ngày 01/5 đến ngày 07/5/1954, quân ta đánh chiếm các cứ điểm phía Đông và mở đợt tổng công kích tiêu diệt toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Đêm ngày 06/5/1954, tại đồi A1 trận chiến đấu giữa ta và địch diễn ra quyết liệt, quân ta ào ạt xông lên tiêu diệt các lô cốt và dùng thuốc nổ phá các hầm ngầm. Tên chỉ huy đồi A1 và khoảng 400 tên địch còn sống sót đã phải xin đầu hàng. 17 giờ 30 phút ngày 07/5/1954, ta chiếm sở chỉ huy của địch, tướng Đờ Cát cùng toàn bộ Bộ Tham mưu và binh lính tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ phải ra hàng. Lá cờ “quyết chiến, quyết thắng” của quân ta tung bay trên nóc hầm chỉ huy của địch. Ngay trong đêm đó, quân ta tiếp tục tiến công phân khu Nam, đánh địch tháo chạy về Thượng Lào, đến 24 giờ toàn bộ quân địch đã bị bắt làm tù binh.

Sau 56 ngày đêm chiến đấu dũng cảm, mưu trí, sáng tạo quân và dân ta đã đập tan toàn bộ tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, tiêu diệt và bắt sống 16.200 tên địch, bắn rơi 62 máy bay, thu 64 ô tô và toàn bộ vũ khí, đạn dược, quân trang quân dụng của địch.

Cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954 mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ là một trận quyết chiến chiến lược, là trận đánh lừng lẫy năm châu “chấn động địa cầu”, trực tiếp đưa đến việc ký Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Đông Dương; tạo cơ sở và điều kiện để nhân dân ta tiếp tục giành thắng lợi vĩ đại trong cuộc kháng chiến bảo vệ và xây dựng Tổ quốc sau này.

Sỹ Thành  

Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy  

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề