Ô nhiễm dầu có thể gây hại cho môi trường biển như thế nào
1. Mở đầu Ô nhiễm dầu trên biển là một vấn đề được thế giới quan tâm từ lâu. Việc giám sát ô nhiễm dầu trên biển đối với quốc gia ven bờ như Việt Nam có ý nghĩa quan trọng trên nhiều góc độ môi trường và kinh tế xã hội. Biển Việt Nam và kế cận là nơi có các đường giao thông biển quan trọng đi qua, tiềm năng dầu khí tại đây cũng rất lớn và hiện nay việc thăm dò khai thác dầu khí đã được triển khai không chỉ ở những vùng nước nông ven bờ mà còn bắt đầu được đẩy mạnh cả ở những vùng nước sâu. Khoảng 200 triệu tấn dầu được vận chuyển hàng năm qua các vùng biển ngoài khơi Việt Nam từ Trung Đông tới Nhật Bản và Triều Tiên. Các hoạt động thông thường kèm theo việc khai thác và vận chuyển dầu gây ra tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng do dầu. Ví dụ các tầu chở dầu làm thoát ra biển tới 0,7% tải trọng của chúng trong quá trình vận chuyển thông thường. Sóng biển và gió đều có chiều hướng đưa lượng dầu thoát ra tấp vào bờ biển Việt Nam. Các vụ rò rỉ và tràn dầu đã được Cục Môi trường thống kê bằng tài liệu kể từ năm 1989. Vụ nghiêm trọng nhất cho tới nay xảy ra hồi tháng 10 năm 1994. Tàu chở dầu của Singapore đã đâm vào cầu tầu ở cảng Cát Lái trên sông Sài Gòn gần thành phố Hồ Chí Minh làm tràn ra hơn 1.700 tấn dầu gasoil. Đợt ô nhiễm dầu trên biển Việt Nam nghiêm trọng nhất từ trước đến nay đã xảy ra vào các tháng đầu năm 2007 gây nhiều bức xúc trong đời sống xã hội Việt Nam. Ô nhiễm môi trường do dầu tràn gây ra với diễn biến phức tạp trên phạm vi rộng, đã ảnh hưởng đến 20 tỉnh, thành phố ven biển. Các vụ tràn dầu xẩy ra vì nhiều nguyên nhân, trong đó có gia tăng mật độ đi lại, thiếu sự kiểm soát giao thông và các biện pháp an toàn không phù hợp trên một số tầu chở dầu. Các vụ tràn dầu cũng có thể xảy ra do việc vệ sinh tầu chở dầu bằng nước biển. Thêm vào đó, còn có lượng dầu tràn nhất định xẩy ra trong quá trình khai thác và chế biến dầu tại các dàn khoan và cơ sở ven biển. Trong bài báo này các tác giả trình bày tóm tắt một số kết quả đã đạt được, trong đó trọng tâm của bài báo giới thiệu về việc xây dựng bản đồ Phân bố nguy cơ ô nhiễm dầu trên vùng biển Việt Nam và kế cận. 2. Tư liệu – Các sự cố ô nhiễm dầu trong quá khứ: thu thập từ bản đồ mật độ ô nhiễm dầu trên biển Việt Nam và kế cận xây dựng từ ảnh vệ tinh thời gian từ 9/1995-5/1998 do Trung tâm CRISP, Trường tổng hợp quốc gia Singapore thực hiện.
Hình 1. Mặt cắt tán xạ vuông góc với tuyến bay trước chuẩn hóa (trái) và sau chuẩn hóa (phải) Quy trình nhận dạng và phân tích vết dầu trênbiển bằng tư liệu viễn thám siêu cao tần được chia thành 2 bước chính: (1) Phát hiện các vết đen trên ảnh SAR, (2) Phân biệt vết dầu và vết nhiễu. Khi quan sát bề mặt biển thì các yếu tố như gió và bản thân sự dao động sóng của bề mặt biển sẽ ảnh hưởng đến năng lượng phản xạ và tán xạ của tín hiệu siêu cao tần thu nhận được tại bộ cảm. Chính những yếu tố này tạo ra những yếu tố nhiễu khi quan trắc vết dầu trên biển bằng tư liệu viễn thám siêu cao tần. Yếu tố thứ hai ảnh hưởng đến quan trắc vết dầu trên biển là chính là các hiện tượng thiên nhiên. Các hiện tượng thiên nhiên trên biển cũng có tác động làm giảm dao động của sóng biển và tạo ra các vết đen trên ảnh SAR. Những vết đen nhiễu trên ảnh SAR có thể là vùng lặng gió, vùng tảo biển, các vùng khuất bởi đất liền, bởi
(a) (b) (c) (d) Hình 2. Kết quả tự động tìm kiếm ngưỡng của vết đen bằng các thuật toán phân ngưỡng như Mean, Moments và Percentile (d) Kết quả phân ngưỡng bằng thuật toán Meanvới ngưỡng = 41. 4. Xây dựng bản đồ phân bố nguy cơ ô nhiễm dầu trên vùng biển Việt Nam và kế cận Mục tiêu của xác định vùng nguy cơ ô nhiễm dầu trên vùng biển Việt Nam và kế cận trước tiên phục vụ công tác giám sát và cảnh báo sớm ô nhiễm dầu trên biển. Việc xác định vùng hợp lý sẽ giúp cho công tác ứng phó sự cố tràn dầu hợp lý hơn về mặt tổ chức. Trước tiên để có được kết quả đánh giá tổng hợp, cần phải xác định trọng số cho từng hợp phần. Việc đánh giá cho điểm hoàn toàn dựa trên nhận thức và suy luận của tác giả như trên bảng 2. Tuy nhiên, kết quả đã được xác định sau khi thử nghiệm nhiều phương án. Mô hình đánh giá nguy cơ ô nhiễm dầu là mô hình tuyến tính có dạng F = ∑ Ai*Ki Hình 3. Bản đồ phân bố nguy cơ ô nhiễm
Khu vực có nguy cơ ô nhiễm cao có diện tích 15057 km2 và chiếm tỷ lệ 0,43 % diện tích biển trong khu vực nghiên cứu (bảng 2). Việc đánh giá nguy cơ ô nhiễm dầu đã được thực hiện cho 9 vùng biển Việt Nam và kế cận. Vùng có nguy cơ ô nhiễm cao nhất nằm trên thềm lục địa tại khu vực thăm dò và khai thác dầu khí của Việt Nam.
Vùng biển bắc vịnh Bắc Bộ là khu vực có các hoạt động giao thông biển rất phát triển tại khu vực cảng Hải Phòng. Xét về nguồn gây ô nhiễm ta thấy ở đây chủ yếu là hoạt động giao thông vận tải biển. Khai thác dầu khí có chủ yếu tại khu vực bắc vịnh Bắc Bộ trong vùng lãnh hải của Trung Quốc. Trong quá khứ các sự cố tràn dầu cũng đã xảy ra tương đối nhiều. Các vết dầu không rõ nguồn gốc phân bố dọc theo các tuyến giao thông biển. Nguy cơ ô nhiễm dầu tổng hợp cho vùng bắc vịnh Bắc Bộ được xếp vào hạng ít ô nhiễm. Vùng biển nam vịnh Bắc Bộ không có nhiều nguồn ô nhiễm dầu lớn. Khu vực này chủ yếu chỉ có các tuyến hàng hải nội địa và quốc tế đi qua. Khu vực nam vịnh Bắc Bộ được đánh giá là khu vực ít có nguy cơ ô nhiễm dầu. Bên cạnh các nguồn ô nhiễm dầu từ các tuyến vận tải biển, ở đây có một số tàu chở dầu bị đắm trong chiến tranh thế giới thứ II. Mặc dù chưa có minh chứng nào về ô nhiễm dầu từ nguồn này nhưng theo đánh giá chung thì đây cũng là một nguy cơ tiềm ẩn. Khu vực biển từ Bình Định đến Ninh Thuận về cơ bản không có các cơ sở khai thác chế biến dầu khí, trừ một số sự cố tràn dầu vùng ven bờ cũng không có gì quá đặc biệt. Do giao thông vận tải biển trong khu vực nên đã xuất hiện nhiều vết dầu không rõ nguồn gốc trên biển. Đặc biệt trên vùng biển này có 6 tàu chở dầu bị đắm trong chiến tranh thế giới thứ II. Đây là nguồn ô nhiễm dầu tiềm năng cần được nghiên cứu thỏa đáng trong tương lai. Nhìn chung ô nhiễm dầu trên toàn bộ vùng biển này được phân loại là ít, tuy nhiên có một vùng nhỏ phía tây nam được phân hạng mức trung bình. Vùng biển từ Bình Thuận đến Cà Mau là khu vực có nguy cơ ô nhiễm dầu cao nhất trong tất cả các vùng biển Việt Nam và kế cận. Tại đây các hoạt động khai thác dầu khí diễn ra vô cùng tích cực. Mặc dù các tuyến hàng hải quốc tế đi qua không chỉ riêng vùng biển này mà rất nhiều khu vực trên vùng biển Việt Nam và kế cận nhưng mật độ các vết dầu không rõ nguồn gốc xuất hiện tại khu vực này là rất lớn. Đây là vùng có nhiều mỏ dầu đang được thăm dò và khai thác trên thềm lục TÀI LIỆU DẪN [1] Tran Van Dien, Do Thu Huong, 2006: Integrated numerical and spatial models for oil pollution risk zoning in Ha Long Bay. Procceedings of CoastGIS 2006, GIS for the Coastal Zone: Spatial Data, Modelling and Management. Nguồn: Tạp chí CÁC KHOA HỌC VỀ TRÁI ĐẤT NGUYỄN ĐÌNH DƯƠNG, HỒ LỆ THU, LÊ VÂN ANH, NGUYỄN KIM ANH Viện Địa lý, Viện Hàn lâm và Khoa học Công nghệ Việt Nam (Visited 1.402 times, 1 visits today) |