Quy định về chính sách dân số mới nhất

Theo quy định tại Điều 27 Quy định 102 năm 2017, Đảng viên bị coi là vi phạm quy định về chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

STT

Hành vi

Mức xử lý

1

Gây hậu quả ít nghiêm trọng:

- Cản trở, cưỡng bức thực hiện kế hoạch hóa gia đình;

- Tham gia các hoạt động xét nghiệm, chuẩn đoán để xác định giới tính thai nhi trái quy định.

- Khai báo hoặc xin xác nhận, giám định không trung thực về tình trạng sức khỏe của vợ [chồng], con để thực hiện không đúng quy định hoặc để trốn tránh không bị xử lý do vi phạm chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình.

Khiển trách

2

Sinh con thứ ba [trừ trường hợp pháp luật có quy định khác].

3

Vi phạm các điều nêu trên, đã bị xử lý kỷ luật mà tái phạm

- Cảnh cáo;

- Cách chức [nếu có chức vụ].

4

Vi phạm lần đầu mục 1 và mục 2 nhưng gây hậu quả nghiêm trọng

5

Sinh con thứ tư [trừ những trường hợp pháp luật có quy định khác]

6

Vi phạm quy định tại mục 1 và mục 2 nêu trên và gây hậu quả rất nghiêm trọng

Khai trừ

7

Sinh con thứ năm trở lên

8

Gian dối trong việc cho con đẻ hoặc nhận nuôi con nuôi mà thực chất là con đẻ nhằm cố tình sinh thêm con ngoài quy định

Trong đó, các trường hợp pháp luật có quy định khác nêu trên được quy định cụ thể tại Điều 27 Hướng dẫn 04-HD/UBKTTW năm 2018. Do đó, các trường hợp sau đây không bị coi là vi phạm về chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình:

- Cặp vợ chồng sinh con thứ ba, nếu cả hai hoặc một trong hai người thuộc dân tộc có số dân dưới 10.000 người hoặc thuộc dân tộc có nguy cơ suy giảm số dân [tỷ lệ sinh nhỏ hơn hoặc bằng tỷ lệ chết] theo công bố chính thức của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

- Cặp vợ chồng sinh lần thứ nhất mà sinh ba con trở lên.

- Cặp vợ chồng đã có một con đẻ, sinh lần thứ hai mà sinh hai con trở lên.

- Cặp vợ chồng sinh lần thứ ba trở lên, nếu tại thời điểm sinh chỉ có một con đẻ còn sống, kể cả con đẻ đã cho làm con nuôi.

- Cặp vợ chồng sinh con lần thứ ba, nếu đã có hai con đẻ nhưng một hoặc cả hai con bị dị tật hoặc mắc bệnh hiểm nghèo không mang tính di truyền, đã được Hội đồng giám định y khoa cấp tỉnh hoặc cấp Trung ương xác nhận.

- Cặp vợ chồng đã có con riêng [con đẻ]:

  • Sinh một con hoặc hai con, nếu một trong hai người đã có con riêng [con đẻ];
  • Sinh một hoặc hai con trở lên trong cùng một lần sinh, nếu cả hai người đã có con riêng [con đẻ].

Lưu ý: Quy định này không áp dụng cho trường hợp hai người đã từng có hai con chung trở lên và các con hiện đang còn sống.

Riêng trường hợp sinh con thứ ba do mang thai ngoài ý muốn, nếu thực hiện các biện pháp kế hoạch hóa gia đình gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ người mẹ [có xác nhận của bệnh viện cấp huyện và tương đương trở lên] thì thôi không xem xét, xử lý kỷ luật.

Trên đây là quy định về các trường hợp Đảng viên vi phạm chính sách dân số và các hình thức xử lý kỷ luật. Nếu còn thắc mắc, độc giả vui lòng liên hệ 1900.6192 để được giải đáp, hỗ trợ.

>> Đảng viên sinh con thứ 3: Toàn bộ quy định mới nhất

TĐKT – Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII  [Nghị quyết số 21-NQ/TW] khẳng định: dân số là yếu tố quan trọng hàng đầu của sự phát triển đất nước. Công tác dân số là nhiệm vụ có tính chiến lược, vừa cấp thiết, vừa lâu dài, là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân. Một trong những quan điểm chỉ đạo quan trọng được Nghị quyết đưa ra là tiếp tục chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hóa gia đình [KHHGĐ] sang dân số và phát triển. Việc chuyển trọng tâm này nhằm giải quyết toàn diện các vấn đề dân số với các nội dung cụ thể: duy trì mức sinh thay thế; giảm mất cân bằng giới tính khi sinh; tận dụng cơ cấu dân số vàng; thích ứng với quá trình già hóa dân số; điều chỉnh phân bố dân số hợp lý và nâng cao chất lượng dân số.

Khống chế thành công tốc độ gia tăng dân số

Ông Nguyễn Văn Tân, Phó tổng Cục trưởng Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình, Bộ Y tế cho biết: 25 năm qua, công tác DS - KHHGĐ đã thu được những kết quả đáng kể. Tốc độ gia tăng dân số đã được khống chế thành công, đạt mức sinh thay thế sớm 10 năm so với mục tiêu Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII năm 1993 đề ra và tiếp tục duy trì cho đến nay. Quy mô dân số năm 2016 gần 93 triệu người, hạn chế tăng thêm hàng chục triệu người. Cơ cấu dân số chuyển dịch tích cực, từ năm 2007, nước ta bước vào thời kỳ dân số vàng.

Chất lượng dân số được cải thiện về nhiều mặt. Tuổi thọ trung bình tăng nhanh, đạt 73,4 tuổi năm 2016, cao hơn nhiều nước có cùng mức thu nhập bình quân đầu người. Tình trạng suy dinh dưỡng, tử vong bà mẹ, trẻ em giảm mạnh. Tầm vóc, thể lực người Việt Nam có bước cải thiện. Dân số đã có sự phân bố hợp lý hơn.

Công tác tuyên truyền, giáo dục có bước đột phá. Việc mỗi cặp vợ chồng có 2 con đã trở thành chuẩn mực, lan tỏa, thấm sâu trong toàn xã hội. Dịch vụ DS - KHHGĐ được mở rộng, chất lượng ngày càng cao.

Tuy nhiên, mức sinh giữa các vùng còn chênh lệch đáng kể. Mất cân bằng giới tính khi sinh tăng nhanh, đã ở mức nghiêm trọng. Chưa có giải pháp đồng bộ phát huy lợi thế của thời kỳ dân số vàng và thích ứng với già hóa dân số. Suy dinh dưỡng, tử vong bà mẹ, trẻ em còn cao. Chỉ số phát triển con người còn thấp [HDI]. Năm 2014, HDI của Việt Nam là 0,666 xếp thứ 116 trong 188 nước so sánh.

Những vấn đề dân số nổi bật, mới phát sinh: “cơ cấu dân số vàng”, “dân số già”, “mất cân bằng giới tính khi sinh”, “di cư và tích tụ dân số”, “chất lượng dân số chưa cao”... đang đòi hỏi được giải quyết nhằm nắm bắt cơ hội, vượt qua thách thức, góp phần phát triển bền vững đất nước.

Bước ngoặt quan trọng trong chính sách dân số

Nghị quyết số 21-NQ/TW chỉ đạo tiếp tục chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hóa gia đình sang dân số và phát triển. Công tác dân số phải chú trọng toàn diện các mặt quy mô, cơ cấu, phân bố, đặc biệt là chất lượng dân số và đặt trong mối quan hệ hữu cơ với các yếu tố kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh bảo đảm phát triển nhanh và bền vững.

Chính sách dân số phải bảo đảm cân bằng, hài hoà giữa quyền và nghĩa vụ của mọi người dân; giữa việc tuyên truyền vận động, nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi với thực thi nghiêm kỷ cương pháp luật; giữa việc mở rộng, ứng dụng các kỹ thuật mới với việc nâng cao chất lượng dịch vụ, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân.

Trung ương Đảng cho rằng, đầu tư cho công tác dân số là đầu tư cho phát triển. Nhà nước ưu tiên bố trí ngân sách, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa; tranh thủ sự hỗ trợ của quốc tế bảo đảm nguồn lực cho công tác dân số.

Nghị quyết đề ra những mục tiêu cơ bản của công tác dân số đến năm 2030: duy trì vững chắc mức sinh thay thế, giảm 50% chênh lệch mức sinh giữa nông thôn và thành thị, miền núi và đồng bằng, 50% số tỉnh đạt mức sinh thay thế. Mọi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ đều được tiếp cận thuận tiện với các biện pháp tránh thai hiện đại. Giảm 2/3 số vị thành niên và thanh niên có thai ngoài ý muốn. Bảo vệ và phát triển dân số các dân tộc có dưới 10.000 người, đặc biệt là những dân tộc có rất ít người. Tỷ số giới tính khi sinh dưới 109 bé trai/100 bé gái. Tuổi thọ bình quân đạt 75 tuổi, trong đó, thời gian sống khỏe mạnh đạt tối thiểu 68 năm. Chiều cao người Việt Nam 18 tuổi đối với nam đạt 168,5 cm, nữ đạt 157,5 cm. Chỉ số HDI nằm trong nhóm 4 nước hàng đầu khu vực Đông Nam Á. Tỷ lệ dân số đô thị đạt trên 45%. Bố trí, sắp xếp dân cư hợp lý ở vùng biên giới, hải đảo, vùng đặc biệt khó khăn. Bảo đảm người di cư được tiếp cận đầy đủ và công bằng các dịch vụ xã hội cơ bản. 100% dân số được đăng ký, quản lý trong hệ thống cơ sở dữ liệu dân cư thống nhất trên quy mô toàn quốc…

Để làm được điều này, giải pháp trước mắt được đưa ra là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, thống nhất nhận thức của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân về tiếp tục chuyển trọng tâm chính sách từ tập trung vào KHHGĐ sang giải quyết toàn diện các vấn đề quy mô, cơ cấu, chất lượng, phân bố dân số, trong mối quan hệ với phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng. Đưa công tác dân số thành một nội dung trọng tâm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền.

Cùng với đó, đổi mới, nâng cao hiệu quả tuyên truyền, giáo dục, tiếp tục thực hiện cuộc vận động mỗi cặp vợ chồng nên có 2 con, chú trọng nuôi dạy con tốt. Tập trung vận động sinh ít con hơn ở vùng, đối tượng có mức sinh cao; duy trì kết quả ở những nơi đã đạt mức sinh thay thế; sinh đủ 2 con ở những nơi có mức sinh thấp.  

Hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách; phát triển mạng lưới và nâng cao chất lượng dịch vụ về dân số. Kiện toàn tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ dân số, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới.

Minh Phương

Video liên quan

Chủ Đề