Tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng bằng những vật liệu mượn ở thực tại nội dung chính

Nhà thơ Tố Hữu từng nói: “Cuộc đời là nơi xuất phát cũng là nơi đi tới của văn học”. Nghĩa là nghệ thuật phải bám sát thực tế đười sống, lấy đời sống làm chất liệu. Bàn về điều đó, trong Tiếng nói văn nghệ, nhà thơ Nguyễn Đình Thi cũng khẳng định: “Tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng bằng những vật liệu mượn ở thực tại. Nhưng nghệ sĩ không những ghi lại cái đã có rồi mà còn muốn nói một điều gì mới mẻ.”

Tác phẩm nghệ thuật nào cũng được xây dựng bằng những vật liệu mượn ở thực tại. Chính điều đó làm nên nét đặc trưng riêng của tác phẩm nghệ thuật trong phương thức phản ánh đời sống. Người nghệ sĩ nào khi sáng tác cũng cũng lấy vật liệu mượn ở thực tại – hiện thực khách quan về cuộc sống, con người, xã hội, để xây dựng nên tác phẩm của mình. Có như vậy, tác phẩm của họ mới được công chúng đón nhận, mới đi vào cuộc sống.

Nhưng nghệ sĩ không những ghi lại cái đã có rồi mà còn muốn nói một điều gì mới mẻ: tác phầm không chỉ phản ánh cuộc sống thực tại khách quan [ghi lại cái đã có rồi] mà còn là nơi thể hiện những suy nghĩ chủ quan, hay nói cách khác là tâm tư tình cảm, là tư tưởng của người nghệ sĩ. Đây chính là một điều gì mới mẻ luôn xuất hiện trong sáng tác của họ.

Ý kiến của Nguyễn Đình Thi đề cập đến nội dung phản ánh, thể hiện của văn nghệ: tác phẩm nghệ thuật bao giờ cũng phản ánh thực tại và là nơi nhà văn nhắn gửi, thể hiện thế giới tình cảm cũng như tư tưởng, quan điểm nhân sinh của mình. Đây cũng là đặc trưng của các tác phẩm văn chương, tạo nên sức cuốn hút, sự lay động tâm hồn, là Tiếng nói của văn nghệ.

Tác phẩm văn học phản ánh sâu sắc thực tại đời sống, ghi lại cái đã có rồi. Hiện thực cuộc sống luôn được thể hiện rõ nét trong tác phẩm văn học. Chẳng hạn như xã hội phong kiến Việt Nam thế kỷ XVIII hiện lên với những mặt trái của nó – xã hội vô nhân đạo với những thế lực tàn ác chà đạp chà đạp con người, số phận bi thảm của người phụ nữ… trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du; cuộc sống đói nghèo, bị dồn vào bước đường cùng của người nông dân trong “Lão Hạc” của Nam Cao; không khí sôi nổi, hào hứng trong lao động xây dựng cuộc sống mới trong “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận; cuộc sống chiến đấu gian khổ ác liệt nhưng tràn đầy lạc quan trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật…

Thế nhưng, văn học phản ánh hiện thực nhưng không phải là chụp ảnh sao chép hiện thực một cách hời hợt nông cạn. Nhà văn không bê nguyên si các sự kiện, con người vào trong sách một cách thụ động, giản đơn. Tác phẩm nghệ thuật là kết quả của một quá trình nuôi dưỡng cảm hứng. thai nghén sáng tạo ra một thế giới hấp dẫn, sinh động… Qua nhân vật ta thấy cả một tầng lớp, một giai cấp, một thời đại, thậm chí có nhân vật vượt lên khỏi thời đại, có ý nghĩa nhân loại, vĩnh cửu sống mãi với thời gian.”

Tác phẩm văn học là nơi nhà văn nhắn gửi, thể hiện tình cảm cũng như tư tưởng, quan điểm nhân sinh của mình [muốn nói một điều gì mới mẻ]. “Truyện Kiều” của Nguyễn Du thể hiện rõ nét sự bất bình, căm ghét đối với xã hội phong kiến, thái độ xót thương vô hạn của nhà văn đối với những người phụ nữ; qua “Lão Hạc”, Nam Cao nói lên niềm yêu mến, cảm phục đối với những người nông dân nghèo khổ mà giữ được phẩm chất tốt đẹp; “Làng” của Kim Lân chẳng những thể hiện cái nhìn yêu mến, trân trọng mà còn nói lên được sự biến chuyển trong nhận thức và tình cảm của người nông dân trong bổi đầu chống Pháp; “Bến quê” của Nguyễn Minh Châu gửi gắm suy nghĩ, bài học nhân sinh về cuộc đời của mỗi con người.

Viết nên tác phẩm Lão Hạc, nhà văn Nan Cao đã lấy gần như nguyên si thực tại của cuộc sống người nông dân Việt Nam trước cách mạng tháng Tám và hình ảnh nhân vật Lão Hạc cũng được mô ta dựa trên một con người có thật. Trước cách mạng tháng Tám, người nông dân Việt Nam đang ở trong tình trạng cùng khổ, càng về sau càng khó. Đó là một cuộc sống chìm ngập trong cô đơn, đói khát, bị kìm kẹp đến nghẹt thở. Cái đói và cái chết như những bóng ma cứ lỡn quỡn xung quanh và có thể vồ chụp lấy con người bất cứ lúc nào. lão Hạc dù đã kháng cự đến cùng nhưng cuối cùng cũng thất bại, phải nhận lấy cái chết thảm thương. Nam Cao giống như một thư kí trung thành, có bổn phận ghi lại chân thực hiện thực ấy.

Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo, vì vậy nó đòi hỏi người sáng tác phải có phong cách nổi bật, tức là có nét gì đó rất riêng, mới lạ thể hiện trong tác phẩm của mình. Bởi thế, dù có trung thành với hiện thực, nhưng nhà văn không những ghi lại cái đã có rồi mà còn muốn nói một điều gì mới mẻ. Truyện ngắn Lão Hạc không chỉ phản ánh cuộc sống thực tại khách quan vốn có mà còn là nơi thể hiện những suy nghĩ chủ quan, hay nói cách khác là tâm tư tình cảm, là tư tưởng của nhà văn Nam Cao. Lão Hạc dù phải chết nhưng cũng quyết giữ lấy nhân phẩm cao đẹp, giữ lấy mảnh vườn cho con trai lão dù lão chưa hẳn đã tin tưởng nó sẽ trở về. Tất cả những gì còn lại tỏng cuộc đời, Lão Hạc chỉ dùng để bảo vệ hai thứ quý giá ấy: danh dự và đức hì sinh cho con. Đây chính là một điều gì mới mẻ mà nam Cao đã tinh tế phát hiện và phản ánh.

Giá trị của một tác phẩm nghệ thuật trước hết là ở giá trị tư tưởng của nó. Nhưng là tư tưởng đã được rung lên ở các bậc tình cảm, chứ không phải là cái tư tưởng nằm thẳng đơ trên trang giấy. Có thể nói, tình cảm của người viết là khâu đầu tiên cũng là khâu sau cùng trong quá trình xây dựng tác phẩm lớn.

Tư tưởng trong truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao là cái tư tưởng được biểu lộ thầm kín. Nam Cao muốn tác phẩm văn học phải là cái sự thực ở đời, người nghệ sĩ không được né tránh điều đó dù có thể làm cho người khác đau lòng vì sự tàn nhẫn của nó. Với ông, phản ánh hiện thực không phải để khinh chê mà là để cảm thông, nâng đỡ, đồng cảm, sẻ chia và tìm kiếm con đường giải thoát cho con người. Với nhân vật lão Hạc, Nam Cao đã dành cho lớp người cùng khổ trong xã hội một tình yêu thương tha thiết, quý trọng nhân phẩm cao đẹp và không ngừng tôn vinh nó.

Ý kiến của Nguyễn Đình Thi đề cập đến nội dung có tính chất đặc trưng của tác phẩm văn nghệ nói chung, tác phẩm văn học nói riêng, gợi cho người đọc có phương pháp tiếp cận tác phẩm đúng đắn và sâu sắc. Để có một nội dung sâu sắc, hấp dẫn, nhà văn chẳng những phải có vốn sống phong phú mà còn phải có tài năng nghệ thuật, và quan trọng nhất là tình cảm chân thành, tư tưởng đúng đắn.

Mỗi tác phẩm nghệ thuật là một phát minh về một hình thức, một khám phá mới về nội dung. Thơ trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật [Belinski]. Tất cả mọi nghệ thuật đều phục vụ cho một nghệ thuật vĩ đại nhất là nghệ thuật sống trên Trái Đất. Văn nghệ phải vì con người mà nảy sinh và cũng vì con người mà phục vụ. Không có tác phẩm nào có thể trở nên vĩ đại nếu không phản ánh và phục vụ đời sống của con người. Cái phi thực hay siêu thực không thể nào trở nên có giá trị nếu nó không phải là hình bóng của hiện thực. Thế nhưng, cũng không nên là cái hiện thực quá trần trụi và thô tục mà phải được soi chiếu qua lăng kính tâm hồn người nghệ sĩ. Người nghệ sĩ phải biết sáng tạo. Chỉ có những cái mới mẻ mới có thể tồn tại mãi mãi.

Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây

Dưới đây là một vài câu hỏi có thể liên quan tới câu hỏi mà bạn gửi lên. Có thể trong đó có câu trả lời mà bạn cần!

Giải chi tiết:

1. Giải thích

-Tác phẩm văn nghệ nào cũng xây dựng bằng những vật liệu mượn ở thực tại: Văn học luôn soi bóng thời đại mà nó ra đời, văn học phản ánh hiện thực, nhà văn không thể ngồi trong tháp ngà nghệ thuật mà luôn luôn phải va chạm với cuộc đời, sống cùng cuộc đời để có những chất liệu sáng tác.

- Nhưng hiện thực trong tác phẩm văn học không ngồn ngộn như trong cuộc đời thật, nhà văn sẽ như côn trùng dùng cái râu của mình để thăm dò không khí thời đại như ý kiến của nhà văn Nguyễn Minh Châu nên sẽ phản ánh hiện thực ở lát cắt bản chất nhất, từ đó nêu lên những trăn trở, suy tư của mình về con người và cuộc đời.

- Nhà văn luôn ghi lại một điều gì mới mẻ: đó là tư tưởng, tình cảm của người nghệ sĩ.

- Ý kiến cho thấy bản chất của văn học là phản ánh cuộc sống nhưng để đem đến những ý nghĩa, những tiếng nói cá nhân của tác giả. Từ đó tác động vào tâm hồn người đọc, tạo ra cái nhìn đối thoại.

2. Phân tích, chứng minh

a.Văn học phản ánh hiện thực cuộc đời

-Chuyện người con gái Nam Xương là hiện thực xã hội phong kiến Việt Nam thế kỉ XVI.

- Làng là hiện thực xã hội nông thôn Việt Nam trong những năm kháng chiến chống Pháp.

b. Nhà văn đem đến những điều mới mẻ.

*Chuyện người con gái Nam Xương là tiếng nói về thân phận, cuộc đời của người phụ nữ trong xã hội xưa và thái độ của nhà văn trước những cuộc đời bất hạnh, số phận oan nghiệt ấy.

 Phẩm chất tốt đẹp của Vũ Nương

- Thùy mị, nết na:

+ Dù bị phòng ngừa quá mức nhưng vẫn biết giữ gìn khuôn phép để gia đình yên ấm

-Thủy chung:

+ Không mong chồng trở về mang ấn phong  hầu. quan to chức lớn mà chỉ mong hai chữ bình yên.  Thời gian xa chồng, luôn nhớ về chồng da diết, thương chồng thiếu thốn nơi chến trận ác liệt.

+ Một lòng một dạ đợi chờ chồng, nuôi con. Nơi ngõ liễu tường hoa, chưa hề bén gót, việc tô son điểm phấn, đã từng nguôi lòng.

+ Những đêm côi cút một mình càng mong nhớ, chỉ biết tâm sự với con : Chỉ bóng mình trên vách, nói với con đó là cha Đản.

-         Đảm đang hiếu thảo:

+ Nuôi con nhỏ. chăm sóc mẹ già khi ốm đau [ Lễ bái thần phật, lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn, thuốc thang lễ bái, khi mẹ chồng chết lo tang lễ bái chu đáo như cha mẹ đẻ]

Đó là cử chỉ dịu dàng, đáng mến, xuất phát từ cái tâm trong sáng, hiền lành, từ lương tâm, trách nhiệm mỗi người có hiếu và biết đạo làm con.

-         Giàu lòng vị tha:

+ Bị Trương Sinh đẩy đến đường cùng phải chết oan ức mà không hề oán trách, hận thù.

+ Thấy Phan Lang kể về gia đình, vẫn thương nhớ chồng con và muốn tìm về gặp mặt.

+ Khi Trương Sinh lập đàn giải oan ở bến sông thì vẫn hiện về ơ lời nói “ Đa tạ tình chàng”..

    Tuy chỉ là chi tiết kì ảo, hoang đường nhuốm màu sắc thần thoại nhưng tác giả đã xây dựng một kết thúc có hậu để ca ngơin Vũ Nương- một người phụ nữ thật là đức hạnh, nhân từ, biết hi sinh bản thân mình cho người khác mà không hề đòi quyền lợi.

b.    Vũ Nương là người phụ nữ có số phận bất hạnh

-         Chôn vùi tuổi xuân trong cuộc hôn nhân không có tình yêu:

+ Xinh đẹp, nết na, tư dung tốt đẹp nhưng chỉ vì nghèo khó mà cha mẹ gả cho con nhà hào phú lắm tiền nhưng thiếu tình yêu.

+ Luôn bị chồng phòng ngừa quá mức, vẫn phải nhịn nhục để không bất hòa.

-         Luôn phải chịu gánh nặng gia đình:

+ Một mình nuôi con nhỏ, chăm sóc mẹ già đau ốm.

+ Một mình lo tang, ma chay khi mẹ mất không có ai san sẻ, động viên.

-         Bị nghi oan và đối xử tệ bạc:

+ Thời gian xa chồng, một mình nuôi con, nàng những mong muốn chồng về sẽ vỗ về, an ủi động viên nhưng chồng nghe lười đứa trẻ mà sinh ra nghi ngờ, đối xử tàn nhẫn, chửi mắng, đánh đập nàng, mặc cho hàng xóm khuyên can.

+ Mặc cho Vũ Nương can ngăn thanh minh [ là con kẻ khó được nương tựa nhà giàu] thế nhưng Trương Sinh vẫn bỏ ngoài tai những lời hết sức chân tình của nàng.

-  Phải chịu cái chết oan nghiệt:

+ Vũ Nương để biện minh cho mình đành phải tự vẫn ở sông Hoàng Giang để chứng minh danh tiết, trở thành nạn nhân của thói quen ghen tuông mù quáng.

+ Cái chết cho thấy Vũ Nương bị đẩy đến bước đương cùng không còn lối thoát, do sự thô bạo của kẻ hào phú, ít học mà đồng tiến làm đen thói đời.

+ Cái chết của Vũ Nương khiến bé Đản thành đứa bé mồ côi, Trương Sinh là kẻ góa vợ day dứt trong nỗi ân hận, dày vò lương tâm.

+ Phản ánh quan niệm trọng nam khinh nữ trong xã hội phong kiến đầy bất công ngang trái.

+ Số phận của Vũ Nương cũng là số phận của biết bao người phụ nữ lúc bấy giờ thấp cổ bé họng, luôn chịu oan ức và khổ hạnh.

-Tình cảm nhân đạo của tác giả

*Điều mới mẻ trong tác phẩm Làng của Kim Lân là cách nhìn về người nông dân có tình yêu làng hòa hợp với tình yêu nước, thủy chung với cách mạng

Tình huống tâm trạng

- Khi kháng chiến chống Pháp nổ ra: ông Hai muốn ở lại làng để tham gia kháng chiến nhưng vì hoàn cảnh gia đình buộc ông phải rời làng đi tản cư, lòng ông luôn day dứt nỗi nhớ làng.

- Nhà văn đã đặt nhân vật vào tình huống có ý nghĩa: là một nông dân suốt đời sống ở quê hương, gắn bó máu thịt với từng con đường, nếp nhà, thửa ruộng và biết bao nhiêu người ruột thịt, xóm giềng. Vậy mà vì giặc ngoại xâm, ông phải rời xa quê hương, sống nhờ nơi đất khách. Do đó, lòng ông luôn đau đáu nỗi nhớ quê. Ban ngày lo sản xuất, ổn định cuộc sống, nhưng buổi tối lại sang hang xóm giãi bày nỗi nhớ quê của mình. Nỗi nhớ của ông đều bắt nguồn từ những kỉ niệm trong cuộc sống hang ngày.

=>Tình cảm của ông Hai thuần phác, trong sáng.

b. Tình yêu làng hòa nhập, thống nhất với lòng yêu nước, kiên trung với cách mạng.

- Ông Hai đột ngột nghe tin dữ, làng Dầu theo giặc lập tề.

- Tin ấy đến với ông vào buổi trưa, giữa lúc tâm trạng phấn chấn vì nghe những tin thắng trận => Tâm trạng đau đớn, nặng nề, tủi hổ tràn ngập lòng ông. Trước ông Hai hãnh diện, tự hào về làng bao nhiêu thì nay lại đau đớn, nhục nhã bấy nhiêu.

+ Nơm nớp tưởng người ta bàn chuyện làng Dầu.

+ Nhiều lúc, ông đã khóc.

=>Tác giả đã diễn tả rất sâu sắc, cụ thể tâm trạng nặng nề đến nỗi trở thành một nỗi ám ảnh trong lòng ông Hai.

- Tác giả tiếp tục đặt nhân vật vào thử thách mới. Đó là khi nghe tin có lệnh cấm không cho những người làng Dầu ở nơi tản cư vì làng Dầu Việt gian theo Tây. Chính trong tình thế tưởng chừng như tuyệt vọng ấy lại càng bộc lộ tình yêu làng hòa hợp sâu sắc với tình yêu nước, kiên trung với cách mạng. Trở về làng là cam chịu kiếp sống nô lệ, nhục nhã. Bởi thế, ông đã quyết định một cách đau đớn nhưng dứt khoát “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất  rồi thì phải thù”

- Cao trào tâm trạng của nhân vật là lúc bộc lộ một cách sâu sắc, cảm động nhất tình cảm chân thành, thiêng liêng của ông Hai đối với quê hương, đất nước, cách mạng. Đó là cảnh ông Hai trò chuyện với đứa con. Ông vẫn nhắc nhở con về quê hương của nó là làng Dầu, thủ thỉ với con như để ngỏ lòng mình, như để minh oan “Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ soi xét cho bố con ông”.

- Nghe tin cải chính, làng Dàu không theo giặc: Vui sướng, tự hào, mặc dù nhà bị đốt nhưng ông không buồn. Ông coi đó là bằng chứng cho lòng trung thành của ông, của làng Dầu đối với cách mạng.

3. Tổng kết

- Những điều mới mẻ là sức hấp dẫn của văn chương. Nhà văn lớn trước hết phải là nhà tư tưởng lớn.

- Bài học sáng tạo: nhà văn phải đi vào cuộc đời thực, phải sống rồi mới viết.

- Bài học tiếp nhận: nâng tầm đón nhận lên để hiểu tư tưởng, tình cảm của tác giả.

Video liên quan

Chủ Đề