The chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có tác dụng

Hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) luôn được Ðảng ta quan tâm đặc biệt. Kể từ Ðại hội IX của Ðảng tháng 4-2001, Ðảng ta đã khẳng định: Kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta và kể từ đó đến nay vấn đề hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN được đặt ra cấp bách trong các Ðại hội X, XI, XII, XIII của Ðảng. Ban Chấp hành Trung ương đã ra hai nghị quyết chuyên đề về vấn đề này: Nghị quyết Trung ương 6 khóa X về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN và Nghị quyết Trung ương 5 khóa XII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN (trên cơ sở tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 khóa X).

Ðại hội XIII của Ðảng nâng lên tầm cao mới về chủ trương, quan điểm hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Báo cáo chính trị được Ðại hội XIII của Ðảng thông qua có 15 mục lớn, thì mục lớn thứ 4 là: “IV – Hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” với ba nội dung quan trọng:

Thứ nhất, thống nhất và nâng cao nhận thức về phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, Ðại hội XIII khẳng định: Kinh tế thị trường định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Ðó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội.

Thứ hai, tiếp tục hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn, có ba điểm nổi bật: Một là, xây dựng và thực thi pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch nâng cao chất lượng, hiệu quả quản trị quốc gia. Xây dựng khung khổ pháp luật, môi trường thuận lợi thúc đẩy phát triển, khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển kinh tế số; hỗ trợ, khuyến khích sự ra đời, hoạt động của những lĩnh vực mới, mô hình kinh doanh mới. Tập trung sửa đổi những quy định mâu thuẫn, chồng chéo, cản trở phát triển kinh tế. Ðẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, phân cấp, phân quyền, ủy quyền gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương, trách nhiệm cá nhân và nâng cao trách nhiệm phối hợp giữa các cấp, các ngành. Hai là, tiếp tục hoàn thiện thể chế, phát triển đầy đủ, đồng bộ các yếu tố thị trường, các loại thị trường. Thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường đối với hàng hóa, dịch vụ, kể cả các dịch vụ công cơ bản. Phát triển thị trường các yếu tố sản xuất để thị trường đóng vai trò quyết định trong huy động, phân bổ, sử dụng các nguồn lực. Phát triển thị trường hàng hóa, dịch vụ theo các phương thức tổ chức, giao dịch văn minh, hiện đại, thương mại điện tử. Phát triển đồng bộ, nâng cao hiệu quả hoạt động của các thị trường tài chính, tiền tệ, thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm… trên nền tảng công nghệ số với kết cấu hạ tầng, công nghệ và phương thức giao dịch hiện đại. Ba là, tiếp tục hoàn thiện thể chế, thúc đẩy phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Ðẩy nhanh việc xử lý nợ, thoái vốn, cổ phần hóa, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước; thúc đẩy đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ, áp dụng chế độ quản trị doanh nghiệp hiện đại để nâng cao hiệu quả, đồng thời kiểm tra, giám sát chặt chẽ hoạt động của doanh nghiệp, không để thất thoát, lãng phí vốn, tài sản nhà nước. Nhà nước có chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển các mô hình kinh tế hợp tác, các hợp tác xã, doanh nghiệp nhỏ và vừa, kinh tế hộ, trang trại trong nông nghiệp. Hoàn thiện thể chế thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân, khuyến khích doanh nghiệp tư nhân đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ, phát triển nguồn nhân lực, mở rộng thị trường…

Thứ ba, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế, Ðại hội XIII chỉ rõ: “Giữ vững độc lập, tự chủ trong việc xác định chủ trương, đường lối, chiến lược phát triển kinh tế đất nước. Phát triển doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh trở thành nòng cốt của kinh tế đất nước; giữ vững các cân đối lớn, chú trọng bảo đảm an ninh kinh tế; không ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế quốc gia. Ða phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế, tránh lệ thuộc vào một thị trường, một đối tác. Nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế trước tác động tiêu cực từ những biến động của bên ngoài; chủ động hoàn thiện hệ thống phòng vệ để bảo vệ nền kinh tế, doanh nghiệp, thị trường trong nước phù hợp với các cam kết quốc tế. Thực hiện nhiều hình thức hội nhập kinh tế quốc tế với các lộ trình linh hoạt, phù hợp với điều kiện, mục tiêu của đất nước trong từng giai đoạn. Hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với những điều ước quốc tế và cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ am hiểu sâu về luật pháp quốc tế, thương mại, đầu tư quốc tế, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế, trước hết là cán bộ trực tiếp làm công tác hội nhập kinh tế quốc tế, giải quyết tranh chấp quốc tế” (2).

Trong Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm 2021 – 2030, phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế – xã hội đầu tiên là: “Tập trung hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giải quyết tốt hơn quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội”. Tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng thể chế, pháp luật đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, hội nhập, ổn định, cụ thể, minh bạch. Tăng cường hiệu lực, hiệu quả các thiết chế thi hành pháp luật, bảo đảm chấp hành pháp luật nghiêm minh. Phát triển đầy đủ và đồng bộ thị trường các yếu tố sản xuất, nhất là các thị trường quyền sử dụng đất, khoa học, công nghệ… Nhà nước thực hiện tốt chức năng xây dựng và quản lý thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, cơ chế, chính sách, phân bổ nguồn lực phát triển theo cơ chế thị trường. Bảo vệ quyền sở hữu tài sản hợp pháp và quyền tự do kinh doanh, thực thi hợp đồng của người dân, doanh nghiệp theo quy định của pháp luật. Phát huy vai trò của người dân, doanh nghiệp, các tổ chức chính trị – xã hội, nghề nghiệp và cộng đồng trong tham gia xây dựng, phản biện và giám sát thực hiện pháp luật, cơ chế, chính sách của Nhà nước. Cải cách thủ tục hành chính một cách quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả, bãi bỏ các rào cản hạn chế quyền tự do kinh doanh, cải thiện và nâng cao chất lượng môi trường kinh doanh, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, minh bạch. Xây dựng nhanh nền hành chính hiện đại, dựa trên đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có tính chuyên nghiệp cao, có năng lực sáng tạo, phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh chính trị, phục vụ người dân, doanh nghiệp; thực hiện phương thức, công cụ quản lý nhà nước chủ yếu bằng điều tiết gián tiếp, tăng cường hậu kiểm; giảm đến mức thấp nhất rủi ro pháp lý và chi phí tuân thủ đối với người dân và doanh nghiệp. Ðẩy mạnh xây dựng chính phủ điện tử, tiến tới chính phủ số, trong đó tập trung phát triển hạ tầng số phục vụ các cơ quan nhà nước một cách tập trung, thông suốt. Ðổi mới mạnh mẽ phân cấp, phân quyền, ủy quyền và nâng cao hiệu quả phối hợp trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành. Củng cố, hoàn thiện hệ thống chính quyền địa phương; phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn giữa Trung ương và địa phương. Kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế địa phương và kinh tế vùng trên cơ sở phát huy hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, địa phương…

Như vậy, có thể khẳng định Ðại hội XIII của Ðảng, trên cơ sở tổng kết 35 năm đổi mới đất nước, nhất là từ Ðại hội IX (2001) đến nay; 10 năm (2011 – 2020) thực hiện chiến lược phát triển kinh tế – xã hội và hơn ba năm thực hiện Nghị quyết số 11 – NQ/TW ngày 3-6-2017 Hội nghị Trung ương 5 khóa XII, đã bổ sung, nâng tầm chủ trương, quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp hoàn thiện và nâng cao chất lượng thể chế phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, hội nhập… Ðể những chủ trương, quan điểm, nhiệm vụ, giải pháp này đi vào cuộc sống, trên cơ sở quán triệt sâu sắc, nắm chắc nội dung, thống nhất nhận thức và hành động trong toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân, cả hệ thống chính trị vào cuộc với quyết tâm chính trị cao, quyết liệt, Ðảng đoàn Quốc hội chỉ đạo xây dựng, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật và giám sát việc thực hiện; Ban cán sự Ðảng Chính phủ chỉ đạo xây dựng và tổ chức thực hiện thắng lợi chương trình hành động, các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, bảo đảm phát huy lợi thế và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực để đất nước phát triển nhanh và bền vững, đạt được mục tiêu Ðại hội XIII đề ra; phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị – xã hội và của nhân dân trong việc kiểm tra, giám sát thực hiện Nghị quyết Ðại hội XIII của Ðảng.

PGS, TS Vũ Văn Phúc

(Phó Chủ tịch Hội đồng Khoa học các cơ quan Ðảng Trung ương,

nguyên Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản)

(1) Ðảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập II, Nxb CTQG ST, H.,2021. tr 337-338.

(2) Ðảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb CTQG ST, H.,2021. tr 135 – 136.

Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - sự đột phá về lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Ngày phát hành: 05/01/2022 Lượt xem 8330

The chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có tác dụng


Xây dựng chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân Việt Nam, là mục tiêu, lý tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam và là sự lựa chọn phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử và điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam[1]. Thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, nhất là sau 35 năm thực hiện đường lối đổi mới (từ năm 1986) đã khẳng định tính đúng đắn của sự lựa chọn này. Việt Nam đã ra khỏi tình trạng kém phát triển và trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình (từ năm 2008) với định hướng xã hội chủ nghĩa được giữ vững. Bộ mặt của đất nước có nhiều thay đổi. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Vai trò, vị thế và uy tín quốc tế của quốc gia từng bước được nâng cao[2]. Quốc phòng, an ninh được đảm bảo vững chắc.

Một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự thành công kể trên là việc chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây cũng chính là kết quả của việc từng bước hiện thực hoá lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - Sự đột phá về lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Bài viết phân tích và làm rõ sự đột phá về lý luận này dựa trên các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, được thể hiện trong các Văn kiện của Đảng qua các kỳ đại hội, đặc biệt là trong bài viết của tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”.

Thứ nhất, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam đang xây dựng chưa từng có tiền lệ trong lịch sử. Đó là “một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường”[3]; là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam; tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới.

Lịch sử kinh tế thế giới đã chỉ ra rằng sự phát triển của kinh tế thị trường trong mấy trăm năm qua, nhất là kinh tế thị trường hiện đại, luôn gắn liền với chủ nghĩa tư bản. Tuy nhiên, kinh tế thị trường không phải là sản phẩm của chủ nghĩa tư bản mà là sản phẩm của văn minh nhân loại và không đối lập với chủ nghĩa xã hội[4]. Kinh tế thị trường không phát triển theo một mô hình duy nhất mà được thực hiện dưới nhiều mô hình khác nhau: Kinh tế thị trường tự do, kinh tế thị trường xã hội, kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đặc sắc Trung Quốc… Nói cách khác, thực tiễn đã xác nhận những mô hình phát triển kinh tế thị trường mang tính đặc thù, phụ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh phát triển cụ thể của từng quốc gia - dân tộc. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một dạng thức của kinh tế thị trường trên thế giới.

Kinh tế thị trường là phương thức huy động và phân bổ nguồn lực tối ưu nhất hiện nay; giúp giải phóng sức sản xuất; phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ; thúc đẩy đổi mới sáng tạo, qua đó giúp tăng năng suất lao động. Chính vì vậy, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được coi là mô hình kinh tế tổng quát của Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội[5]; là một trong những phương thức để đạt được mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Việt Nam xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện một nền kinh tế kém phát triển, lại bị tác động nặng nề do hậu quả của chiến tranh để lại. Trong điều kiện đó, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam đang xây dựng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đầy đủ, xét trên cả hai khía cạnh, tính thị trường và tính xã hội chủ nghĩa, như mức độ hoàn thiện và hiện đại của các thể chế cho phát triển thị trường; khả năng kiến tạo của Nhà nước; trình độ phát triển của thị trường các nhân tố sản xuất; năng suất lao động; hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, nhất là của doanh nghiệp nhà nước; mức độ hợp tác và cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế; thu nhập của nhân dân, sự bình đẳng trong phát triển giữa các vùng, miền, giữa thành thị với nông thôn; sự phát triển hài hoà với tự nhiên và năng lực thích ứng với biến đổi khí hậu... Chính vì vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định đây là một quá trình lâu dài với nhiều khó khăn, phức tạp, đòi hỏi sự bền bỉ, kiên trì, linh hoạt và sáng tạo.

The chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có tác dụng

Thứ hai, trên cơ sở tổng kết thực tiễn 35 năm đổi mới, lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, nhất là về nội hàm của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã từng bước được hoàn thiện và phát triển. Đó chính là sự gắn kết hữu cơ và biện chứng giữa tính thị trường với tính xã hội chủ nghĩa; giữa tính nhân loại, hiện đại với đặc thù phát triển riêng có của Việt Nam trong nền kinh tế thông qua:

(i) Mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” và không để ai bị bỏ lại phía sau.

(ii) Phương thức lãnh đạo và quản lý, theo đó có sự kết hợp hữu cơ giữa cơ chế thị trường với quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; sự tham gia và giám sát của nhân dân và xã hội. Trong đó sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định, đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước.

(iii) Cơ chế phân bổ nguồn lực và phân phối kết quả được tạo ra, theo đó nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật khách quan của kinh tế thị trường với đa dạng các hình thức sở hữu, đa dạng hình thức tổ chức sản xuất và kinh doanh, đa dạng các loại thị trường; gắn kết với thị trường quốc tế. Các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác, cạnh tranh cùng phát triển theo pháp luật. Kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là quan trọng.

(iv) Phương thức phát triển của nền kinh tế, theo đó những tác động tiêu cực của thị trường và can thiệp của nhà nước[6] được hạn chế ở mức thấp nhất, đồng thời những tác động tích cực của thị trường và vai trò kiến tạo của Nhà nước được phát huy ở mức cao nhất, phù hợp với từng giai đoạn phát triển; nền kinh tế có sự gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển; là nền kinh tế phát triển hài hoà với tự nhiên và coi bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu là một trong những nhiệm vụ mang tính sống còn. “Không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần”[7] cũng như không đánh đổi giữa tăng trưởng kinh tế với môi trường.

Thứ ba, những thành công trong phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam sau 35 năm đổi mới đã và đang cho thấy lý luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang từng bước được hiện thực hoá.

(i) Kể từ khi đổi mới (1986-2020), nền kinh tế liên tục tăng trưởng, đạt bình quân khoảng 6,5%/năm, cao hơn mức trung bình của thế giới và khu vực kinh tế năng động là Đông Á và Thái Bình Dương[8]; quy mô nền kinh tế được mở rộng, năm 2020 đạt khoảng 271,1 tỷ USD, tăng gấp 10 lần so với năm 1986[9]; chất lượng tăng trưởng được cải thiện với năng suất lao động tăng gấp 5 lần so với năm 2006[10]. Lạm phát được duy trì ở mức có thể kiểm soát được và thấp trong những năm gần đây[11]; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng hiện đại với tỷ trọng công nghiệp, xây dựng và dịch vụ trong GDP chiếm trên 75%[12]. Xuất khẩu, đầu tư nước ngoài và dự trữ ngoại hối tăng mạnh[13]. Các khu vực kinh tế phát triển nhanh và ngày càng đa dạng[14].

(ii) Thể chế kinh tế thị trường từng bước được hoàn thiện. Môi trường đầu tư và kinh doanh ngày càng được cải thiện[15]; năng lực cạnh tranh quốc gia từng bước được nâng lên; chỉ số sáng tạo liên tục tăng đã giúp cho nền kinh tế vươn lên nhóm nửa trên bảng xếp hạng toàn cầu[16].

(iii) Các chỉ tiêu về xã hội liên tục được cải thiện, đời sống nhân dân được nâng cao, tiến bộ và công bằng xã hội được đảm bảo với việc thực hiện thành công “sớm” các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (từ năm 2015). Từ một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới, năm 2008 Việt Nam đã trở thành nước có thu nhập trung bình. Đến năm 2020 đạt gần 3.000 USD[17]. Chỉ trong hai thập kỷ, đã có khoảng 30 triệu người Việt Nam thoát nghèo. Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm được giữ ở mức thấp và có xu hướng giảm dần[18]. Tuổi thọ trung bình của dân cư tăng từ 62 tuổi năm 1990 lên 73,7 tuổi năm 2020. Mức độ bất bình đẳng[19] có xu hướng giảm, ở mức thấp hơn so với một số nước trong khu vực Đông Nam Á; bình đẳng giới ngày càng tiến bộ. Tỷ lệ tốt nghiệp trung học phổ thông[20] và chỉ số phát triển con người có nhiều cải thiện[21].

(iv) Hệ thống các thị trường, đặc biệt là thị trường các nhân tố sản xuất được hình thành và từng bước phát triển theo hướng đồng bộ hơn và gắn kết hơn với thị trường quốc tế.

(v) Việt Nam ngày càng hội nhập sâu và rộng vào nền kinh tế khu vực và toàn cầu; đã ký hết 15 hiệp định thương mại tự do (tính đến tháng 12 năm 2021)[22], kết nối nền kinh tế với phần lớn các thị trường trọng điểm trên thế giới[23], trong đó có những hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.

Thứ tư, lý luận về xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nói riêng và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam nói chung từng bước được hoàn thiện cùng với những thành công trong hiện thực hoá lý luận này trong 35 năm đổi mới đã tạo nền tảng cho việc đưa ra chiến lược phát triển của đất nước trong 10 năm tới (2021-2025), mở ra một giai đoạn mới cho phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Đây là giai đoạn phát triển với thế và lực mới, với tầm nhìn và mục tiêu đặt ra cụ thể hơn và khát vọng hơn về phát triển đất nước phồn vinh và hạnh phúc[24]; là giai đoạn phát triển mang tính bền vững hơn, bao trùm hơn, dựa nhiều hơn vào nâng cao hiệu quả các nguồn lực và đổi mới sáng tạo trong bối cảnh quốc tế và khu vực có nhiều thay đổi nhanh, mạnh và khó lường[25].

Từ những phân tích ở trên, có thể khẳng định rằng, xây dựng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự đột phá về lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Sự đột phá đó được tạo nên bởi sự đổi mới và sáng tạo liên tục trong tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở kiên định, vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu có chọn lọc những thành tựu mới nhất về lý luận của thế giới và không ngừng tổng kết thực tiễn.

PGS.TS. Nguyễn Hồng Sơn

Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương.




[1] Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011). http://www.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/NuocCHXHCNVietNam/ThongTinTongHop/noidungvankiendaihoidang?categoryId=10000716&articleId=10038370.

[2] “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngay nay”. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập 1. NXB Chính trị Quốc gia sự thật. Hà Nội - 2021. Tr. 104.

[3] Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”. https://www.moha.gov.vn/tin-noi-bat/bai-viet-cua-tong-bi-thu-nguyen-phu-trong-ve-con-duong-di-len-cnxh-46173.html.

[4] GS.TS. Nguyễn Xuân Thắng. Tư tưởng, lý luận với đổi mới và phát triển đất nước. NXB Chính trị Quốc gia sự thật. Hà Nội - 2021. Tr. 593.

[5] Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập 1. NXB Chính trị Quốc gia sự thật. Hà Nội - 2021. Tr. 128.

[6] Sự can thiệp quá mức, sự buông lỏng trong quản lý nhà nước đối với thị trường hay sự câu kết giữa nhà nước với thị trường dưới hình thức “chủ nghĩa tư bản thân hữu”.

[7] Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”. https://www.moha.gov.vn/tin-noi-bat/bai-viet-cua-tong-bi-thu-nguyen-phu-trong-ve-con-duong-di-len-cnxh-46173.html.

[8] Theo số liệu của Ngân hàng thế giới (2021), trong giai đoạn 1986-2020, tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam đạt bình quân 6,44%, cao hơn mức trung bình của thế giới (2,92%) và của khu vực kinh tế năng động là Đông Á và Thái Bình Dương (4,82%).

[9] Theo số liệu của Ngân hàng thế giới, năm 2020 quy mô GDP Việt Nam là 271,1 tỷ USD, tương đương với số liệu được đưa ra trong Báo cáo Chính trị Đại hội XIII là 271,2 tỷ; năm 1986 khoảng 26,3 tỷ USD. Còn theo kết quả đánh giá lại GDP của Tổng Cục Thống kê, quy mô GDP của Việt Nam năm 2020 đạt 343 tỷ USD, trở thành quốc gia có GDP đứng thứ tư trong ASEAN. Nguồn: https://vnexpress.net/5-nam-mot-lan-se-danh-gia-lai-quy-mo-gdp-4385051.html.

[10] Năng suất lao động đạt 119,7 triệu đồng/lao động vào năm 2020 so với 24,1 triệu đồng/lao động năm 2006 với tốc độ tăng được duy trì ổn định, trung bình 4,51% giai đoạn 2006-2020; đạt mức cao nhất là 6,2% vào năm 2019 (Tổng cục Thống kê, 2021).

[11] Dưới 4% trong vòng 5 năm gần đây, kể từ 2014 đến nay.

[12] Theo Báo cáo Tình hình Kinh tế Xã hội năm 2020 của Tổng cục Thống kê năm 2020, nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 14,85%; công nghiệp và xây dựng chiếm 33,72% GDP; dịch vụ chiếm 41,63%; và thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 9,8% (Tổng Cục Thống kê, 2021).

[13] Cán cân thương mại đã có chuyển biến tích cực từ thâm hụt cho đến thặng dư từ năm 2016 đến nay, đạt mức xuất khẩu ròng dương 20 tỷ đô la Mỹ vào năm 2020. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa ngày càng tăng, lũy kế 11 tháng đầu năm 2021 đạt 569 tỉ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt hơn 284 tỉ USD. Tổng vốn đầu tư nước ngoài đăng ký giai đoạn 2016-2020 đạt gần 168 tỉ USD; ngay cả trong đại dịch, năm 2020, tổng vốn FDI đăng ký đạt 31 tỷ USD, và giải ngân đạt 20 tỷ USD (Tổng Cục Thống kê, 2021). Dự trữ ngoại hối đạt hơn 100 tỉ USD vào năm 2021.

[14] Trong đó tỷ trọng của khu vực kinh tế nhà nước trong GDP chiếm khoảng 27%; kinh tế tập thể khoảng 4%, kinh tế hộ khoảng 30%, kinh tế tư nhân trong nước khoảng 10% và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài khoảng 20%.

[15] Năm 2020, Việt Nam xếp hạng 70/190 quốc gia trên thế giới, xếp thứ 7/47 nước có thu nhập trung bình thấp, và xếp thứ 8/25 nước Đông Á và Thái Bình Dương (Ngân hàng thế giới, 2021).

[16] Chỉ số sáng tạo tăng từ 34,82 vào năm 2013 lên 37,12 vào năm 2020. Nếu xét về thứ hạng, nền kinh tế đã vươn lên từ vị trí thuộc nhóm nửa dưới (65/107) của năm 2007 lên nhóm nửa trên bảng xếp hạng (42/124) vào năm 2020, và đứng ở vị trí xếp hạng cao nhất trong nhóm 29 nền kinh tế thuộc nhóm thu nhập trung bình thấp, còn cao hơn vị trí xếp thứ 3 của Ấn Độ (Báo cáo Chỉ số sáng tạo toàn cầu, 2020).

https://dangcongsan.vn/khoa-hoc/viet-nam-xep-thu-44-ve-chi-so-doi-moi-sang-tao-toan-cau-2021-591653.html

[17] Năm 1998 GDP/người của Việt Nam chỉ đạt mức 86 USD.

[18] Tỷ lệ thất nghiệp giảm dần từ mức 2,88% vào 2010 xuống 2% vào 2018, và tăng nhẹ lên 2,28% vào năm 2020 trong đại dịch Covid-19; tỷ lệ thiếu việc làm còn giảm mạnh hơn, từ 3,57% vào 2010 xuống chỉ còn 1,46% vào 2018, và tăng nhẹ lên 2,51% vào năm 2020 (Tổng Cục Thống kê, 2021).

[19] Tính theo hệ số Gini dựa trên chi tiêu.

[20] Thước đo của trình độ phát triển vốn con người, tăng gần 9%, từ mức 89% của năm 2002 (Ngân hàng thế giới, 2018) lên mức 98,34% của năm 2020 (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2021).

[21] Trong giai đoạn 1990-2019 chỉ số phát triển con người của Việt Nam (HDI) đã có sự cải thiện khá khả quan, tăng từ mức 0,5 năm 1990 lên 0,704 năm 2019.

[22] Trung tâm WTO, VCCI.

[23] Như Nhật Bản (2009), Hàn Quốc (2015); các nước khu vực châu Á - Thái Bình Dương như Canada, Chile, Úc, theo hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP); hiệp định thương mại với 28 nước châu Âu (EVFTA); 3 hiệp định FTA đang trong quá trình đàm phán với các đối tác thương mại hàng đầu như Thuỵ Sĩ, Na Uy, Israel.

[24] Đến năm 2025, Việt Nam là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến năm 2030, là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII. Tập 1. NXB Chính trị Quốc gia sự thật. Hà Nội - 2021. Tr. 112.

[25] Dưới tác động của cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư; biến đổi khí hậu; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn; dịch bệnh, đặc biệt là đại dịch Covid 19; hội nhập quốc tế và khu vực ngày càng sâu và rộng…