Thị trường năng lượng mặt trời Việt Nam

Tấm năng lượng mặt trời tại một nhà máy điện ở Mojave, California, Mỹ, ngày 18/6/2021. [Ảnh: AFP/TTXVN]

Theo những gì mà truyền thông đại chúng đang đưa tin, nhiều có thể nghĩ rằng năng lượng tái tạo đang bị ‘thất thế” trên thị trường năng lượng toàn cầu, do hậu quả của cuộc khủng hoảng năng lượng gây chấn động thế giới kể từ cuối năm ngoái. Song thực tế dường như đang chứng minh điều ngược lại.

Thuế nhiên liệu vận tải đã được cắt giảm để giảm bớt gánh nặng của giá dầu thô cao ở Liên minh châu Âu [EU], Ấn Độ, Vương quốc Anh, Mỹ, cùng các quốc gia khác.

Vào đầu tháng Ba, các nhà máy điện của châu Âu đã đốt nhiều than đá hơn 51% so với một năm trước đó.

Việc Trung Quốc sử dụng nhiều than đá hơn sau khi trải qua giai đoạn khủng hoảng điện năng vào năm ngoái thậm chí còn đáng quan ngại hơn.

Nước này đã khai thác 687 triệu tấn than đá trong tháng Một và tháng Hai năm nay, tương đương với gần hai năm tiêu thụ than đá của cả châu Âu và nhiều hơn 30% so với cùng kỳ năm 2019.

Điều này thực sự là mối đe dọa lớn, khi xem xét cảnh báo của Ủy ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu [IPCC] vào tuần trước rằng ô nhiễm khí thải carbon phải đạt mức “đỉnh” vào năm 2025 nếu thế giới muốn tránh hiện tượng Trái Đất ấm lên nghiêm trọng.

[Khủng hoảng năng lượng bao trùm thế giới trong năm 2021]

Tuy nhiên, bức tranh thực sự khá trái ngược. Quá trình chuyển đổi năng lượng tái tạo có nhiều dấu hiệu đang tăng tốc.

Vào tháng trước, BloombergNEF ước tính thế giới sẽ xây dựng khoảng 245 GW công suất điện từ năng lượng Mặt Trời, nhiều hơn 30% so với công suất điện Mặt Trời được lắp đặt vào năm 2021 và tăng 7,5% so với ước tính trước đó, khi cuộc khủng hoảng năng lượng bắt đầu diễn ra vào mùa Thu năm ngoái.

Các con số trên là khá đáng kinh ngạc, bởi 245GW tương đương với khoảng 2/3 tổng công suất điện hạt nhân được lắp đặt của thế giới.

Vào đầu năm 2020, thế giới đã lắp đặt các tấm pin Mặt Trời với tổng công suất điện lên tới 651GW. Tới giữa năm 2023, thế giới có khả năng tăng gấp đôi con số đó.

Ngày 31/3 vừa qua, Ủy viên châu Âu phụ trách năng lượng, bà Kadri Simson cho biết Ủy ban châu Âu [EC] sẽ làm “mọi điều cần thiết” để xây dựng lại ngành công nghiệp sản xuất thiết bị năng lượng Mặt Trời của châu Âu. Đây là một phần trong kế hoạch của EU nhằm nhanh chóng giảm sự phụ thuộc vào khí đốt của Nga.

Phát biểu tại Hội nghị Năng lượng Mặt Trời tại Brussels [Bỉ], bà Simson nhấn mạnh: “Chúng ta cần đưa hoạt động sản xuất trở lại châu Âu và EC sẵn sàng làm bất cứ việc gì cần thiết để thực hiện điều này, bao gồm cả hỗ trợ tài chính cho các dự án.”

Nhà máy điện Mặt Trời nổi tại Singapore. [Ảnh: AFP/TTXVN]

Bà cũng nói rằng chiến lược cụ thể về sản xuất năng lượng Mặt Trời sẽ được đề ra nhằm đẩy nhanh việc lắp đặt các hệ thống, hỗ trợ thêm nhiều thỏa thuận mua điện Mặt Trời và xây dựng năng lực sản xuất điện Mặt Trời của khu vực.

Hiện Nga - nhà cung cấp khí đốt hàng đầu của châu Âu - đang đáp ứng 40% nhu cầu khí đốt của khu vực.

Do chiến dịch đặc biệt của Nga tại Ukraine, EU đang hướng đến mục tiêu giảm 2/3 lượng khí đốt nhập khẩu của Nga trong năm nay và chấm dứt hoàn toàn nhập khẩu nhiên liệu hóa thạch từ nước này vào năm 2027.

EC đang soạn thảo kế hoạch chi tiết để 27 nước thành viên EU có thể thực hiện mục tiêu, trong đó có biện pháp đẩy nhanh quá trình chuyển sang sử dụng năng lượng tái tạo.

Mới đây, EC cho biết 480GW điện gió và 420GW điện Mặt Trời có thể thay thế cho 170 tỷ m3 khí đốt của Nga vào năm 2030.

Theo Hiệp hội SolarPower Europe, với chính sách hỗ trợ đúng đắn, EU có thể đạt sản lượng 1.000GW năng lượng tái tạo vào năm 2030, so với mức 165GW hiện nay, nhưng trước hết phải vượt qua những rào cản ngắn hạn.

Chủ tịch hiệp hội trên, ông Aristotelis Chantavas nêu một số rào cản như tình trạng thiếu nhân công lắp đặt, vấn đề cấp phép, thiết bị...

Ông hối thúc EU cam kết sản xuất 45% sản lượng điện từ năng lượng tái tạo vào năm 2030, tăng so với mục tiêu 40% mà các nhà hoạch định chính sách của EU đang đề xuất trong các cuộc đàm phán.

Trước đó, Hiệp hội Năng lượng Mặt Trời Brazil [Absolar] cho biết tổng công suất lắp đặt để sản xuất quang điện của quốc gia Nam Mỹ này trong tháng Hai đã vượt mức 14 GW, công suất của nhà máy thủy điện Itaipu- đập thủy điện lớn thứ hai thế giới sau đập Tam Hiệp của Trung Quốc.

Mức công suất quang điện nói trên bao gồm công suất thiết kế của cả các nhà máy năng lượng Mặt Trời lớn và hệ thống phát quang điện tư nhân được lắp đặt trong các khu dân cư, khu công nghiệp và cơ sở thương mại.

Theo tính toán của Absolar, các nhà máy sản xuất năng lượng Mặt Trời lớn của Brazil có tổng công suất lắp đặt là 4,7GW, trong khi các hệ thống phát điện tư nhân với các tấm pin Mặt Trời có tổng công suất là 9,3 GW.

Như vậy, năng lượng Mặt Trời đã trở thành là nguồn cung lớn thứ sáu trong hệ thống năng lượng của Brazil, vượt qua nhiệt điện dầu khí và các nhiên liệu hóa thạch khác.

Công suất 4,7GW của các nhà máy năng lượng Mặt Trời lớn tương đương 2,4% tổng công suất của Brazil [196GW], chủ yếu từ các nguồn thủy điện [65%], nhiệt điện [21% bao gồm các nhà máy khí đốt tự nhiên] và phong điện [10%].

Dự kiến tỷ lệ quang điện trong lưới điện quốc gia Brazil sẽ tăng vọt trong những năm tới, trong bối cảnh cơ quan quản lý đã cấp giấy phép cho nhiều dự án với tổng công suất thiết kế 31,6GW.

Theo Absolar, sự gia tăng mạnh mẽ số lượng các nhà máy năng lượng Mặt Trời đi vào hoạt động trong những năm tới sẽ giúp Brazil dần thoát khỏi cuộc khủng hoảng khi mực nước tại các đập thủy điện của quốc gia Nam Mỹ này giảm xuống mức tối thiểu vào năm ngoái.

Ngoài việc tăng tỷ trọng năng lượng tái tạo trong lưới điện quốc gia, năng lượng Mặt Trời cũng giúp ngăn chặn việc phát thải 18 triệu tấn carbon dioxide [CO2] trong mười năm qua ở Brazil và góp phần giảm thiểu tình trạng nóng lên toàn cầu.

Những “người chơi” trong ngành năng lượng Mặt Trời đang đặt cược vào sự tăng trưởng của lĩnh vực này, sau khi tình trạng thiếu hụt nguyên liệu polysilicon khiến giá tăng vào năm ngoái.

Sự tắc nghẽn trong chuỗi cung ứng đang gây khó cho việc mua các tấm silicon, nhưng ngay cả điều đó cũng đủ để tạo ra khoảng 431GW điện Mặt Trời mỗi năm.

Chuỗi cung ứng năng lượng Mặt Trời trên thế giới hiện đủ lớn để kết nối khoảng 5.300GW tấm pin vào năm 2030, giúp thế giới đi đúng hướng để tiến tới mục tiêu đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.

Nếu tốc độ tăng trưởng của ngành năng lượng Mặt Trời giảm khoảng 10 điểm phần trăm so với mức trung bình 25% trong 5 năm qua, thế giới vẫn đạt được mục tiêu đó.

Tất cả điều đó nghe có vẻ khá lạc quan. Tuy vậy, trái ngược với sự bùng nổ không ngừng của năng lượng Mặt Trời, năng lượng gió như đang chững lại. Hội đồng Năng lượng Gió Toàn cầu cho biết, công suất các tuốcbin gió được lắp đặt thực tế đã giảm nhẹ vào năm ngoái, từ mức kỷ lục của năm 2020, xuống 94GW.

Theo giới chuyên gia, công suất năng lượng gió toàn cầu sẽ trì trệ ở mức không cao hơn nhiều so với mức hiện tại cho đến giữa thập kỷ tới, khiến thế giới chỉ có khoảng 64% công suất năng lượng gió cần thiết vào năm 2030.

Điều này không phải do bất kỳ lỗi nào về công nghệ. Thay vào đó, đó là kết quả của những thách thức trong quy định cần thiết để thiết lập và vận hành trang trại điện gió, đặc biệt là trên đất liền.

Ở Italy, trung bình phải mất 5 năm để có được các giấy phép cần thiết cho một trang trại điện gió mới. EU sẽ công bố kế hoạch vào tháng tới nhằm xóa bỏ những rào cản này, nhưng phần lớn các quy định liên quan đều được đưa ra ở cấp quốc gia và cấp thành phố, do đó sẽ khó có thể bị loại bỏ.

Một trong những khía cạnh đáng mừng về cách điện gió và điện Mặt Trời phát triển song song trong thập kỷ qua là chúng bổ sung tốt cho nhau. Năng lượng Mặt Trời có xu hướng yếu hơn vào mùa Đông và không tồn tại vào ban đêm.

Mặt khác, điện gió phát huy tốt hơn vào những thời điểm đó. Việc đẩy lượng phát thải trên lưới điện của thế giới về 0 sẽ đòi hỏi nhiều hơn là chỉ phụ thuộc vào hai công nghệ này, với năng lượng thủy điện, hạt nhân, địa nhiệt, sinh khối và thậm chí là năng lượng hóa thạch đã được đi qua các chu trình nhằm giảm phát thải cũng có thể đóng một vai trò nào đó.

Tuy nhiên, kỳ vọng rằng tất cả các mục tiêu đều được hoàn thành cùng một lúc có vẻ hơi “ngoài tầm với”./.

Minh Trang [TTXVN/Vietnam+]

Để đạt được mục tiêu phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, Việt Nam cần phải gia tăng mạnh mẽ công suất năng lượng tái tạo, đặc biệt là năng lượng mặt trời và gió. Điều này sẽ đòi hỏi nguồn đầu tư đáng kể: Trong Kế hoạch phát triển Điện 8 của Việt Nam gần đây đã ước tính nhu cầu tài chính hàng năm là hơn 11 tỷ đô la, phần lớn trong số đó sẽ được dành cho năng lượng tái tạo. Từ trước đến nay, hầu hết tất cả các khoản đầu tư vào năng lượng tái tạo ở Việt Nam đều đến từ các nguồn trong nước và trong khu vực. Tuy nhiên, để duy trì mức độ mở rộng nhanh chóng cho năng lượng tái tạo phụ thuộc vào khả năng của Việt Nam trong việc mở rộng đầu tư quốc tế.

Việt Nam đã đạt được thành tựu đầy ấn tượng trong việc thu hút đầu tư từ khối tư nhân ở trong nước để nhanh chóng mở rộng quy mô năng lượng mặt trời từ mức gần như không có gì vào năm 2017 lên đến hơn 16.000 MW vào năm 2022, vượt xa các mục tiêu của Chính phủ. Mặc dù vẫn chưa rõ chính xác trong tương lai sẽ có bao nhiêu năng lượng mặt trời và gió được đưa vào trong Kế hoạch phát triển điện 8, nhưng có thế thấy rõ là hệ thống năng lượng này được phát triển nhằm gia tăng quy mô năng lượng.

Xem các mục tiêu năng lượng tái tạo ở Việt Nam tại đây: //datawrapper.dwcdn.net/8fHoA/2/

Câu hỏi đặt ra là làm thế nào để đầu tư phát triển một lượng lớn năng lượng tái tạo để đạt được mức phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050. Hầu hết các dự án năng lượng tái tạo ở Việt Nam đều do các công ty trong nước phát triển. Theo dữ liệu từ Mekong Infrastructure Tracker [tạm dịch: Cơ quan Theo dõi Cơ sở hạ tầng Mekong] cho thấy 58% các dự án năng lượng tái tạo ở Việt Nam được phát triển hoàn toàn bởi các công ty Việt Nam. 27% dự án khác được phát triển dựa trên hợp tác giữa một công ty Việt Nam với một đối tác quốc tế. Chỉ có 12% [tương ứng 13 dự án] dự án được phát triển hoàn toàn do công ty nước ngoài.

Cũng theo thống kê của Mekong Infrastructure Tracker thì hầu hết các công ty nước ngoài tài trợ cho các dự án năng lượng tái tạo tại Việt Nam đến từ các quốc gia ở châu Á đặc biệt là Thái Lan, Nhật Bản và Philippines. Các công ty của Trung Quốc hầu như không phải là đối tác phát triển hoặc nhà tài trợ dự án tại Việt Nam mà liên quan nhiều hơn đến các nước láng giềng như Campuchia và CHDCND Lào.

Thông tin về các công ty nước ngoài tham gia vào các dự án năng lượng tái tạo ở Việt Nam xem tại đây: //datawrapper.dwcdn.net/ssMb9/1/

Vấn đề ở chỗ các ngân hàng và các công ty của Việt Nam không có đủ năng lực tài chính để đầu tư, đáp ứng nhu cầu năng lượng trong tương lai. Việt Nam chỉ có thể đạt được giảm phát thải ròng bằng “0” nếu huy động được nguồn tài trợ quốc tế. Điều này đòi hỏi cần có những cải cách trong chính sách đầu tư. Để nhận được sự hỗ trợ quốc tế, Việt Nam cần giải quyết những trở ngại về quy định sau:

Các điều khoản của Hợp đồng mua bán điện [PPA]. Kể từ năm 2017, Việt Nam đã đưa ra biểu giá bán điện [FIT] cho các dự án năng lượng mặt trời nhưng qui định Thỏa thuận mua bán điện của Tập đoàn Điện lực Việt Nam [EVN] đối với các dự án năng lượng mặt trời mang lại quá nhiều rủi ro cho các nhà đầu tư dự án. Theo đó, EVN có thể cắt giảm việc mua điện vào bất kỳ thời điểm nào trong một khoảng thời gian không xác định. Việc không có sự bảo đảm mua điện là không phù hợp với thông lệ toàn cầu và làm cho nhiều nhà đầu tư quốc tế e ngại do rủi ro. Trong khi các công ty Việt Nam có thể giảm thiểu rủi ro bằng cách thu hút các bên liên quan chính trong hệ thống chính trị theo những phương cách mà các công ty quốc tế không thể làm được.

Sự không đảm bảo về giá. Biểu giá bán điện 2017 của Việt Nam đã cung cấp một mức giá đảm bảo cho các dự án tại thời điểm bắt đầu vận hành và trong một khung thời gian cụ thể. Nhưng có 2 vấn đề: Biểu giá bán điện được điều chỉnh nhiều lần, điều này dẫn đến việc các nhà đầu tư thường có quá ít thời gian để đáp ứng đủ điều kiện nêu trong biểu giá mới, và đôi khi có những khoảng thời gian dài mà không có biểu giá chính thức. Cho dù việc sửa đổi giá định kỳ là điều dễ hiểu do thị trường năng lượng mặt trời của Việt Nam phát triển nhanh, nhưng sự không đảm bảo về việc biểu giá nào sẽ được áp dụng khi dự án bắt đầu vận hành là một rủi ro lớn.

Thủ tục cấp phép rườm rà. Đăng ký một dự án mới thường liên quan đến nhiều cơ quan, ban ngành từ giai đoạn phê duyệt dự án ban đầu đến lúc tích hợp vào quy hoạch cấp tỉnh, cho đến cấp phép đất đai, v.v. Quá trình này có thể gây khó định hướng đối với các nhà đầu tư quốc tế nếu không có các kết nối địa phương.

Hợp đồng mua bán trực tiếp giữa người bán và người mua khối tư nhân chậm được thực hiện. Vào năm 2020, Chính phủ đã làm rõ các chính sách về năng lượng mặt trời lắp đặt trên mái nhà, cho phép các công ty đầu tư vào năng lượng mặt trời để cắt giảm chi phí và đáp ứng các mục tiêu phát thải của doanh nghiệp. Đây là một bước quan trọng đầu tiên. Nhưng chỉ riêng năng lượng mặt trời trên mái nhà là chưa đủ để đáp ứng các mục tiêu giảm carbon dài hạn, và nhiều công ty muốn mua năng lượng tái tạo trực tiếp từ các nhà sản xuất bên ngoài. Mặc dù Bộ Công Thương đã công bố kế hoạch thí điểm Đề án Hợp đồng mua bán điện trực tiếp vào năm 2019, nhưng việc thực hiện vẫn còn chậm.

Việt Nam đã thực hiện các bước để giải quyết những vấn đề này: vào tháng 1 năm 2022, Quốc hội đã thông qua Luật số 3 cho phép các công ty tư nhân có quyền đầu tư và vận hành đường dây tải điện. Điều này sẽ giảm bớt một số điểm thiếu đảm bảo và rủi ro liên quan đến việc kết nối năng lượng tái tạo với mạng lưới truyền tải. Bộ Công Thương đã công bố Đề án thí điểm kéo dài 2 năm về Hợp đồng mua bán điện trực tiếp và đề án này bắt đầu từ năm 2022.

Tuy nhiên sẽ còn nhiều việc cần phải thực hiện. Ưu tiên hàng đầu là Chính phủ cần ban hành Hợp đồng mua bán điện sửa đổi để hấp dẫn các khoản đầu tư quốc tế. Cũng cần phải đảm bảo rằng các chính sách về cấp phép và định giá trong tương lai phải minh bạch, rõ ràng và khoảng thời gian dài hơi hơn để tránh sự không chắc chắn.

Khi nhu cầu điện tiếp tục tăng, các Hợp đồng mua bán điện có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc giảm thiểu carbon trong lĩnh vực công nghiệp của Việt Nam. Ngành công nghiệp là nguồn phát thải khí nhà kính lớn và nhiều công ty quốc tế muốn “xanh hóa” chuỗi cung ứng của họ và đáp ứng các mục tiêu phát thải carbon, và thường có nhiều tham vọng hơn so với mục tiêu chính thức của Việt Nam. Các Hợp đồng mua bán điện trực tiếp sẽ khuyến khích các công ty này đầu tư vào sản xuất năng lượng tái tạo của riêng họ và đồng thời giảm nhu cầu trên lưới điện quốc gia.

Đây là thời điểm quan trọng để Việt Nam áp dụng các quy định nhằm thu hút nguồn tài chính quốc tế lớn hơn nhiều. Chiến lược Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương của Chính quyền Tổng thống Joe Biden là ưu tiên năng lượng sạch, nhưng Tập đoàn Phát triển Tài chính Hoa Kỳ vẫn chưa xác định được một dự án năng lượng tái tạo hàng đầu ở Đông Nam Á. Sau COP26, Ngân hàng Hợp tác Quốc tế Nhật Bản đã công bố sáng kiến ​​khử carbon cho các nền kinh tế mới nổi ở Đông Nam Á hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng “0”. Ngay cả Trung Quốc, trước đây là nhà tài trợ lớn cho các nhà máy điện than, vào tháng 3 năm 2022 đã ban hành hướng dẫn về việc xanh hóa Sáng kiến ​​Vành đai và Con đường bằng cách hỗ trợ các dự án carbon thấp bao gồm năng lượng tái tạo và lưu trữ năng lượng. Nếu thực hiện đúng các quy định của mình, Việt Nam có thể nhận được nguồn vốn đáng kể để thúc đẩy quá trình chuyển đổi năng lượng tái tạo của mình.

Đây là bài viết thứ ba trong loạt bài do IUCN và Trung tâm Stimson sản xuất thuộc khuôn khổ dự án BRIDGE [Nâng cao năng lực Quản trị và Đối thoại các Dòng sông] do Cơ quan Hợp tác Phát triền Thụy sỹ tài trợ. Đây là dự án toàn cầu về ngoại giao nguồn nước do IUCN điều phối thực hiện tại 15 lưu vực sông xuyên biên giới bao gồm sông Mê-Công.

Video liên quan

Chủ Đề