Trạng lường là gì

Ý nghĩa của từ Trạng Lường là gì:

Trạng Lường nghĩa là gì? Dưới đây bạn tìm thấy một ý nghĩa cho từ Trạng Lường Bạn cũng có thể thêm một định nghĩa Trạng Lường mình


1

1

  1

Lương Thế Vinh [chữ Hán: 梁世榮,; 1441–1496 ], còn gọi là Trạng Lường, tên tự là Cảnh Nghị, tên hiệu là Thụy Hiên, là một nhà toán học, Phật học, nhà th [..]

Nguồn: vi.wikipedia.org

Trạng Lường Lương Thế Vinh nổi tiếng với nhiều giai thoại cho thấy ông tài trí hơn người như câu đố cân voi, đo độ dày của một tờ giấy.

  • Trạng Lường Lương Thế Vinh và câu chuyện đo độ dày 1 tờ giấy
  • Giai thoại vị Trạng nguyên 13 tuổi nước Việt và 2 lần đánh giặc bằng bút
  • Tài đức hơn người, “Trạng Tỏi” đất Việt khiến cả triều đình nhà Minh kính nể

Lương Thế Vinh sinh ngày 1 tháng 8 năm Tân Dậu [tức ngày 17/8/1441] tại làng Cao Hương, huyện Thiên Bản, Trấn Sơn Nam [nay thuộc Vụ Bản, Nam Định]. Ông vẫn được người đời gọi là “Trạng Lường”, lý do là vì từ nhỏ ông đã rất giỏi đo lường, tính toán.

Chưa đầy 20 tuổi, tài học của ông đã nổi tiếng khắp vùng Sơn Nam. Năm 1463, Lương Thế Vinh đỗ trạng nguyên khoa Quý Mùi niên hiệu Quang Thuận thứ 4, đời Lê Thánh Tông.

Truyền thuyết về sự ra đời của Lương Thế Vinh

Dân gian xứ Sơn Nam còn lưu truyền hai giai thoại về sự ra đời của Lương Thế Vinh. Tương truyền, Quang Thục thái hậu Ngô Thị Ngọc Dao lúc mang thai vua Lê Thánh Tông nằm mơ được lên thiên đình. Bà thấy Thượng đế sai tiên đồng giáng xuống làm vua nước Nam, tiên đồng xin thêm một bề tôi giỏi để phù giúp. Thượng đế chỉ định một viên tướng nhưng vị tướng đó từ chối, Thượng đế nổi giận ấn mạnh vào vai và bắt phải nhận lệnh.

Sau khi Lê Thánh Tông lên ngôi, Thái hậu kể lại cho vua giấc mộng lạ. Đến khoa thi Quý Mùi [1463] Lương Thế Vinh đỗ trạng nguyên, lúc vào yết kiến, vua thấy vai ông bị lệch, bèn đem chuyện này kể với Thái hậu.

Thái hậu cho gọi Lương Thế Vinh vào xem mặt thì thấy đúng là người đã gặp trong mộng. Bà vui mừng nói với vua, đây chính là vị bề tôi mà Thượng đế cử xuống. Từ đó, Lê Thánh Tông rất mực tin dùng, coi trọng tài năng của Lương Thế Vinh.

Câu chuyện thứ hai được ghi lại trong cuốn Kiến Văn Tiểu Lục của Lê Quý Đôn còn ly kỳ hơn, cho rằng Lương Thế Vinh là sao Văn Khúc từ trên trời giáng xuống nước Nam.

Chân dung Lương Thế Vinh

Vị trạng nguyên đa tài

Sau khi đỗ đạt, Lương Thế Vinh ra làm quan 32 năm, nổi tiếng thanh liêm, chính trực. Ông làm ở Viện hàn lâm, thăng đến chức Hàn lâm thị đứng đầu Viện hàn lâm.

Khi làm quan, Lương Thế Vinh đã nhận định về tình hình quan chức và nhấn mạnh: Việc yên hay loạn là do các quan. Ông cũng đề xuất với nhà vua, cần khảo tích xem rõ đúng sai, nắm chắc các quan, đã nắm chắc các quan thì chính sự không thể sai lầm, tệ xấu bỏ được, tất dân được nhờ.

Lương Thế Vinh nổi tiếng với tài năng toán học. Ông đã biên soạn cuốn sách Đại thành Toán pháp, được xem là cuốn sách giáo khoa toán đầu tiên ở nước ta. Thời Lương Thế Vinh, các công cụ tính toán ở Việt Nam rất nghèo nàn, thô sơ. Thời đó, mọi người chủ yếu tính toán bằng cách “bấm đốt ngón tay”, hoặc dùng sợi dây với những nút thắt làm công cụ đếm. Ông đã sáng chế ra bàn tính gẩy cho người Việt, lúc đầu làm bằng đất rồi bằng trúc, bằng gỗ, sơn màu khác nhau, đẹp và dễ tính, dễ nhớ.

Thú vị hơn là, nhà toán học Alexei Volko đã sử dụng ngôn ngữ toán học hiện đại để diễn giải các phép toán trong Đại thành toán pháp. Theo đó, Đại thành toán pháp có bao gồm các phép toán, thuật giải và kết quả số. Nội dung các bài toán bao gồm, bình phân và sai phân, tính diện tích thể tích, tam giác đồng dạng…

Ngoài việc nổi danh là nhà toán học, ông cũng nổi tiếng là nhà nghiên cứu tôn giáo, nghệ thuật với nhiều tác phẩm giá trị như Hý phường phả lục [nghiên cứu về Chèo], Thiền môn khoa giáo [còn gọi là Thích điển Giáo khoa].

Trạng nguyên Lương Thế Vinh mất tại quê nhà ngày 26/8 năm Bính Thìn [1496], thọ 55 tuổi. Khi ông qua đời, vua Lê Thánh Tông rất thương tiếc và đã viết một bài thơ khóc Trạng:

Chiếu thư thượng đế xuống đêm qua
Gióng khách chương đài kiếp tại nhà
Cẩm tú mấy hàng về động ngọc
Thánh hiền ba chén ướt hồn hoa
Khí thiên đã lại thu sơn nhạc
Danh lạ còn truyền để quốc gia
Khuất ngón tay than tài cái thế
Lấy ai làm Trạng nước Nam ta

Những giai thoại thú vị về Lương Thế Vinh

Thần đồng nước Nam

Thời niên thiếu, Lương Thế Vinh đã nổi tiếng là thần đồng, thông minh, nhanh trí. Trong việc học tập hàng ngày, ông rất khéo kết hợp giữa chơi và học. Khi đã học thì tập trung tư tưởng rất cao, trong khi vui chơi, ông luôn muốn áp dụng những điều đã học. Lúc thả diều, ông rung dây diều để ước lượng chiều dài, chiều cao. Khi câu cá, ông tìm hiểu đời sống sinh vật, ước tính đo lường sự vật rồi kiểm tra lại.

Có lần, ông cùng bạn bè ngồi chơi dưới gốc cây cổ thụ. Các bạn thách đố nhau đo chiều cao của cây. Vậy là, thay vì trèo lên cây rồi dùng dây thòng xuống đất để đo, Lương Thế Vinh lấy một cây gậy, đo chiều dài của nó rồi dựng gậy trên mặt đất, đo chiều dài bóng gậy. Sau đó, ông tiếp tục đo bóng cây. Tính nhẩm một lát, ông đưa ra kết quả. Đám bạn không tin bèn dùng dây thừng đo lại. Kết quả đúng như ông đã tính!

Một lần khác, khi Lương Thế Vinh chơi bóng cùng bạn, quả bưởi làm bóng bị rơi xuống hố. Cả bọn loay hoay, không biết làm thế nào lấy lên. Ông đã nghĩ ra cách đổ nước vào hố để quả bưởi nổi lên.

Lương Thế Vinh cân voi

Một trong những giai thoại nổi tiếng nhất về ông là câu chuyện “Trạng lường cân voi”. Có lần, vua Lê Thánh Tông cử trạng Lương Thế Vinh ra đón tiếp sứ nhà Minh là Chu Hy. Chu Hy đã nghe nói về Lương Thế Vinh, không những nổi tiếng về văn chương âm nhạc, mà còn có tri thức uyên bác về khoa học, vì vậy đã thách đố Thế Vinh cân một con voi.

“Trạng lường” sai người dắt voi xuống chiếc thuyền lớn đang neo tại bờ sông, đợi con voi đứng yên rồi sai người đánh dấu mép nước trên mạn thuyền rồi lại dắt voi lên bờ. Sau đó, ông ra lệnh đổ đá xuống thuyền, cho đến khi thuyền chìm xuống ngang mực nước được đánh dấu cũ. Việc còn lại, ông chỉ cần cân số đá là tính toán được trọng lượng của voi.

Chu Hy thán phục ông nhưng bề ngoài vẫn tỏ vẻ chưa tin muốn thử tài trạng thêm. Chu Hy xé một tờ giấy trong cuốn sách dày, nhờ đo xem tờ giấy dày bao nhiêu. Tờ giấy quá mỏng, mà các nấc trên thước thì vừa lớn vừa không rõ. Lương Thế Vinh nghĩ ngay ra cách lấy thước đo chiều dày cả cuốn sách rồi chia cho số tờ là ra kết quả, Chu Hy ngửa mặt lên trời than: “Nước Nam quả có lắm người tài!”

Một cách khen vua

Lương Thế Vinh thuở bé nghịch ngợm nổi tiếng. Ông hay tắm sông hồ thành thử bơi lội rất giỏi. Lê Thánh Tông biết rõ chuyện ấy, nên một hôm đi chơi thuyền có Lương Thế Vinh và các quan theo hầu, Vua liền giả vờ say rượu ẩy Vinh rơi tòm xuống sông, rồi cứ cho tiếp tục chèo thuyền đi.

Không ngờ Lương Thế Vinh rơi xuống, liền lặn một hơi đi thật xa, rồi đến một chỗ vắng lên bờ ngồi núp vào một bụi rậm chẳng ai trông thấy. Lê Thánh Tông chờ mãi không thấy Vinh trồi đầu lên, bấy giờ mới hoảng hồn, vội cho quân lính nhảy xuống tìm vớt, nhưng tìm mãi cũng chẳng thấy đâu. Vua hết sức ân hận vì lối chơi đùa quá quắt của mình, chỉ muốn khóc, thì tự nhiên thấy Vinh từ dưới nước ngóc đầu lên lắc đầu cười ngất. Khi lên thuyền rồi, Vinh vẫn còn cười. Thánh Tông ngạc nhiên hỏi mãi, cuối cùng Vinh mới tâu:

“Thần ở dưới nước lâu là vì gặp phải một việc kỳ lạ và thú vị. Thần gặp cụ Khuất Nguyên [*], cụ hỏi thần xuống làm gì?. Thần thưa dối là thần chán đời muốn chết. Nghe qua, cụ Khuất Nguyên tròn xoe mắt, mắng thần: “Mày là thằng điên!. Tao gặp Sở Hoài Vương và Khoảng Tương Vương hôn quân vô đạo, mới dám bỏ nước bỏ dân trầm mình ở sông Mịch La. Chứ mày đã gặp được bậc thánh quân minh đế, sao còn định vớ vẩn cái gì?”. Thế rồi cụ đá thần một cái, thần mới về đây!”.

Lê Thánh Tông nghe xong biết là Lương Thế Vinh nịnh khéo mình, nhưng cũng rất hài lòng, thưởng cho Vinh rất nhiều vàng lụa.

[*] Khuất Nguyên – nhà thơ nổi tiếng, một vị trung thần nước Sở – do can ngăn vua Hoài Vương không được, đã uất ức ôm đá gieo mình xuống sông Mịch La tự vẫn. Hôm ấy đúng ngày mồng Năm tháng Năm. Thương tiếc người trung nghĩa, mỗi năm cứ đến ngày đó, dân Trung Quốc xưa làm bánh, quấn chỉ ngũ sắc bên ngoài [chủ ý khiến cá sợ, khỏi đớp mất] rồi bơi thuyền ra giữa sông ném bánh xuống cúng Khuất Nguyên.

Ứng đáp với vua

Vua Lê Thánh Tông đi kinh lý vùng Sơn Nam hạ, ghé thăm làng Cao Hương, huyện Vụ Bản, quê hương của Trạng Nguyên Lương Thế Vinh, lúc bấy giờ cũng đang theo hầu Vua.

Hôm sau vua đến thăm chùa làng. Khi ấy, sư cụ đang bận tụng kinh. Bỗng sư cụ đánh rơi chiếc quạt xuống đất. Vẫn tiếp tục tụng, sư cụ lấy tay ra hiệu cho chú tiểu cúi xuống nhặt, nhưng một vị quan tùy tòng của Lê Thánh Tông đã nhanh tay nhặt cho sư cụ. Vua Lê Thánh Tông trông thấy vậy, liền nghĩ ra một vế đối, trong bữa tiệc hôm đó đã thách các quan đối.

Vế ấy như sau:

Ðường thượng tụng kinh sư sử sứ…

Nghĩa là: Trên bục tụng kinh sư khiến sứ [ nhà sư sai khiến được quan]

Câu nói này oái ăm ở ba chữ sư sử. Các quan đều chịu chẳng ai nghĩ ra câu gì.

Trạng nguyên Lương Thế Vinh cứ để họ suy nghĩ chán chê. Ông ung dung ngồi uống rượu chẳng nói năng gì. Vua Lê Thánh Tông quay lại bảo đích danh ông phải đối , với hy vọng đưa ông đến chỗ chịu bí. Nhưng ông chỉ cười trừ.

Một lúc ông cho lính hầu chạy ngay về nhà mời vợ đến . Bà trạng đến, ông lấy cớ quá say xin phép vua cho vợ dìu mình về.

Thấy Vinh là một tay có tài ứng đối mà hôm nay cũng đành phải đánh bài chuồn, nhà vua lấy làm đắc ý lắm, liền giục:

” Thế nào? Ðối được hay không thì phải nói đã rồi hẵng về chứ?”

Vinh gãi đầu gãi tai rồi chắp tay ngập ngừng:

– Dạ… muôn tâu, Thần đối rồi đấy ạ!

Vua và các quan lấy làm lạ bảo Vinh thử đọc xem. Vinh cứ một mực:” Ðối rồi đấy chứ ạ!” hoài. Sau nhà vua gạn mãi, Vinh mới chỉ tay vào người vợ đang dìu mình, mà đọc rằng:

Ðình tiền túy tửu, phụ phù phu.

Nghĩa là: Trước sân say rượu, vợ dìu chồng.

Nhà vua cười và thưởng cho rất hậu.

Lời tiên đoán

Một hôm, lúc chầu trong triều, vua hớn hở nói với Vinh:

– Trẫm có nhiều con trai, việc thiên hạ không việc gì phải lo ngại nữa!

Lương Thế Vinh tâu:

– Lắm con trai là lắm giặc. Không lo sao được!

Vua lấy làm lạ hỏi:

– Ta không rõ sao lại thế?

Trạng tâu không úp mở:

– Ngôi báu chỉ có một. Bệ hạ có nhiều con trai càng có nhiều sự tranh giành ngôi báu. Như vậy phải lo lắm chứ!

Đúng như lời tiên đoán của ông. Sau đó con cháu nhà vua tranh giành ngôi thứ, chém giết lẫn nhau, làm cho triều chính đổ nát, trăm họ lầm than. Chỉ ba chục năm sau khi Thánh Tông mất, Mạc Đăng Dung đã nhân cơ hội mà cướp ngôi nhà Lê.

Tổng hợp

  • Tiểu sử Ernest Hemingway – nhà văn đọat cả giải Pulitzer và Nobel Văn học
  • Tiểu sử Larry Page: “Cha đẻ” gã khổng lồ công nghệ tìm kiếm Google

Chủ Đề