Vì sao khi sốt nhiệt độ lại tăng

Sinh lý bệnh

Trong khoảng thời gian 24 giờ, nhiệt độ thay đổi từ mức thấp nhất vào đầu buổi sáng đến cao nhất vào cuối buổi chiều. Độ lệch tối đa khoảng 0,6° C.

Nhiệt độ cơ thể được xác định bằng sự cân bằng giữa sản xuất nhiệt bởi các mô, đặc biệt là gan và cơ, và mất nhiệt ra ngoại vi. Thông thường, trung tâm điều nhiệt vùng dưới đồi duy trì nhiệt độ bên trong từ 37° đến 38° C. Sốt xuất hiện khi có hiện tượng tăng điểm đặt nhiệt, gây ra sự co thắt mạch máu và giảm máu ra ngoại vi để giảm sự mất nhiệt; đôi khi xuất hiện run rẩy để làm tăng sản xuất nhiệt. Các quá trình này tiếp tục cho đến khi nhiệt độ máu đạt tới điểm đặt nhiệt của vùng dưới đồi. Đặt lại điểm đặt nhiệt xuống thấp hơn [ví dụ với thuốc hạ sốt] bắt đầu làm mất nhiệt qua mồ hôi và giãn mạch.

Khả năng sốt sẽ giảm ở một số bệnh nhân [ví dụ, nghiện rượu, người glà, trẻ còn nhỏ].

Pyrogens là những chất gây sốt. Chất gây sốt ngoại sinh thường là vi khuẩn hoặc sản phẩm của chúng. Hay gặp nhất là lipopolysaccharides của vi khuẩn gram âm [thường được gọi là nội độc tố] và độc tố Staphylococcus aureus gây ra hội chứng sốc do độc tố. Sốt do chất gây sốt ngoại sinh gây ra sự giải phóng các chất gây sốt nội sinh, như interleukin-1 [IL-1], yếu tố hoại tử khối u-alpha [TNF-alpha], IL-6 và các cytokine khác, sau đó kích hoạt thụ thể cytokine, hoặc các chất gây sốt ngoại sinh trực tiếp kích hoạt các thụ thể giống Toll.

Sự tổng hợp Prostaglandin E2 dường như đóng một vai trò quan trọng.

Hậu quả của sốt

Mặc dù nhiều bệnh nhân lo lắng rằng chính cơn sốt có thể gây ra nguy hại, sự gia tăng nhiệt độ trung tâm thoáng qua vừa phải [ví dụ 38-40°] gây ra bởi hầu hết các bệnh cấp tính được thích nghi tốt bởi người lớn khỏe mạnh.

Tuy nhiên, sự tăng nhiệt độ quá cao [thường là > 41° C] có thể gây hại. Sự tăng cao như vậy là điển hình của tăng thân nhiệt môi trường nghiêm trọng nhưng đôi khi là kết quả từ việc tiếp xúc với các loại thuốc bất hợp pháp [như cocaine, phencyclidine], thuốc gây mê, thuốc chống loạn thần. Ở nhiệt độ này, sự biến dạng protein xảy ra, và các cytokine viêm kích hoạt dòng thác viêm được giải phóng. Kết quả là, rối loạn chức năng tế bào xảy ra, dẫn đến sự cố và cuối cùng là sự suy yếu của hầu hết các cơ quan; dòng thác đông máu cũng được kích hoạt, dẫn đến đông máu rải rác nội mạch.

Vì sốt có thể làm tăng nhịp tim khoảng 10 đến 12% đối với mỗi 1° C tăng trên 37° C, sốt có thể gây gánh nặng cho người có suy tim hoặc bệnh phổi trước đây. Sốt cũng có thể làm xấu đi tình trạng tâm thần ở bệnh nhân sa sút trí tuệ.

Sốt ở trẻ em khỏe mạnh có thể gây ra co giật do sốt cao Co giật do sốt Co giật do sốt được chẩn đoán ở trẻ em 6 tuổi với nhiệt độ cơ thể > 38°C và không có cơn co giật không do sốt trước đó khi không xác định được nguyên nhân và không tồn tại vấn đề về phát triển... đọc thêm .

1. Nhiệt độ của cơ thể - những vấn đề cần lưu ý

Cơ thể của mỗi người đều có khả năng tự điều hòa thân nhiệt theo môi trường sống, thời gian trong ngày và hoạt động của cá nhân. Trong đó, tuổi càng cao thì thân nhiệt càng thấp. Nhiệt độ trung tâm của con người là nhiệt độ ở các phần sâu bên trong cơ thể như não, gan, tạng,… thường ở khoảng 36.5 - 37.1 độ C.

1.1. Các yếu tố tác động tới nhiệt độ cơ thể

- Tuổi tác: người càng lớn tuổi thì nhiệt độ cơ thể càng thấp hơn so với người trẻ.

- Giới tính: giữa kỳ kinh, thân nhiệt của nữ giới thường tăng lên khoảng 0.3 - 0.5 độ C, giai đoạn cuối thời kỳ thai nghén thân nhiệt tăng 0.5 - 0.8 độ C.

Vận động cơ nhiều là một trong những lí do khiến thân nhiệt tăng

- Vận động cơ càng tăng thì thân nhiệt càng lên.

- Nhiệt độ cơ thể tăng hoặc giảm theo tỷ lệ thuận với môi trường nóng hoặc lạnh.

- Bệnh lý: thân nhiệt tăng với bệnh lý nhiễm khuẩn và giảm ở những bệnh lý đang trong giai đoạn cấp tính.

1.2. Hiện tượng rối loạn nhiệt độ

- Nhiệt độ giảm

Khi cơ thể mất nhiều nhiệt dẫn tới tình trạng rối loạn thải nhiệt và sinh nhiệt thì nhiệt độ sẽ giảm xuống.

- Nhiệt độ tăng

Khi cơ thể có sự tích lũy nhiệt và hạn chế sự thải nhiệt hoặc tăng sinh nhiệt sẽ sinh ra tình trạng nhiệt độ cơ thể tăng. Một số ít trường hợp tăng nhiệt độ là do sự phối hợp của cả 2 yếu tố này.

1.3. Nhiệt độ bất thường

Quan niệm chung của hầu hết chúng ta đều cho rằng nhiệt độ bình thường của cơ thể là 37 độ C. Tuy nhiên, điều này chưa hẳn đúng hoàn toàn vì không phải lúc nào cơ thể cũng duy trì ở mức nhiệt độ ấy mà nó sẽ giao động trên dưới khoảng này một chút. Điều này cũng có nghĩa là nhiệt độ thân nhiệt ở mức 37 độ C không được xem là sốt.

Nhiệt độ cơ thể được xem là bất thường trong những trường hợp sau:

- Đối với người lớn:

+ Đo nhiệt độ trong miệng trên 37.5 độ C.

+ Đo nhiệt độ trong tai trên 38.1 độ C.

+ Đo nhiệt độ trong hậu môn trên 37.6 độ C.

- Đối với trẻ em:

+ Đo nhiệt độ ở hậu môn trên 38 độ C.

+ Đo nhiệt độ trong tai trên 38 độ C.

Nhiệt độ cơ thể bình thường

Phạm vi bình thường cho nhiệt độ cơ thể là từ 36,5 °C – 37,5 °C.

Nhiệt độ cơ thể thường được đo ở vị trí nào?

Nhiệt độ cơ thể được đo ở 3 vị trí như sau:

  • Ở miệng: Nhiệt độ bình thường dao động khoảng 36,4 °C – 37,2 °C. [Nhiệt độ cơ thể bình thường đo ở miệng đạt mức cao nhất khoảng 37,7 °C vào lúc 16 giờ].
  • Trực tràng: Trong điều kiện bình thường cao hơn 0,2 – 0,6 °C so với đo nhiệt độ ở miệng.
  • Ở nách: Thấp hơn nhiệt độ bình thường của cơ thể khoảng 0,5 – 1°C. Tuy dao động nhiều, nhưng lại là thuận tiện để theo dõi thân nhiệt bệnh nhân.

Bình thường từ sáng sớm đến chiều tối, nhiệt độ cơ thể tăng 0,5 °C.

Tìm hiểu về nhiệt độ cơ thể bình thường

Một số yếu tố ảnh hưởng đến nhiệt độ cơ thể

Nhiệt độ cơ thể bị ảnh hưởng bởi những yếu tố điển hình bao gồm:

  • Tuổi tác: Người già vận động kém. Người có nhu cầu chuyển hoá và hấp thu thấp nên thân nhiệt thường thấp so với người trẻ.
  • Khi hoạt động, sau khi ăn: Nhiệt độ cơ thể tăng.
  • Nội tiết: Trong thời kỳ rụng trứng và suốt quá trình mang thai, thân nhiệt trung bình của phụ nữ thường tăng nhẹ.
  • Stress: Khi bị căng thẳng có thể làm tăng hoặc hạ nhiệt độ.
  • Nhiệt độ môi trường tác động đến thân nhiệt nhưng thay đổi không nhiều khoảng 0,5°C.
  • Một số thuốc ảnh hưởng khả năng bài tiết mồ hôi, gây giãn mạch.
  • Thời gian đo thân nhiệt: Nhiệt độ cơ thể thay đổi từ 0,5°C đến 1°C trong ngày. Nhiệt độ cơ thể thấp nhất vào lúc 6 giờ sáng và cao nhất vào 4 – 6 giờ chiều.
  • Vị trí đo nhiệt độ cơ thể: Kết quả có thể khác nhau tùy theo vị trí đo thân nhiệt.

Điều gì xảy ra với cơ thể khi bị sốt?

Thứ năm, 21/03/2019 - 13:16

[Dân trí] - Khi bạn bị sốt, có rất nhiều điều khác thường xảy ra trong cơ thể. Vậy sốt có nghĩa là gì và khi nào thì cần lo lắng?

Đầu tiên: Sốt là gì?

Bất cứ khi nào nhiệt độ cơ thể tăng tới 38oC hoặc hơn thì có nghĩa là bạn bị sốt. Nhiệt độ cơ thể bình thường là 37oC và một số người có xu hướng hơi cao hơn hoặc thấp hơn một chút. Nhưng nhiệt độ cứ từ 38oC trở lên thì đều bị coi là sốt. Đa phần sốt là phản ứng tự nhiên của cơ thể với nhiễm trùng.

Cách tốt nhất để lấy nhiệt độ

Vì vậy, bạn phải chắc chắn rằng mình thực sự bị sốt: Bạn có thể tìm thấy nhiều loại nhiệt kế tại nhà thuốc, bao gồm nhiệt kế đo miệng, đo trực tràng, đo tai và đo trán [động mạch thái dương]. Bạn cũng có thể sử dụng nhiệt kế miệng để đo nách, nhưng sẽ không nhận được số đo chính xác nhất theo cách này. Nhiệt kế trực tràng với một chút mỡ dầu mỏ bôi ở đầu được khuyến khích cho trẻ nhỏ.

Thế nào là nhiệt độ “bình thường”?

Nhiệt độ cơ thể bình thường thay đổi trong suốt cả ngày. Thân nhiệt có xu hướng thấp hơn vào buổi sáng và cao hơn vào cuối buổi chiều và buổi tối. Mặc dù hầu hết mọi người coi 37oC là bình thường, song nhiệt độ cơ thể có thể dao động khoảng một độ hoặc hơn, từ khoảng 36,1oC đến 37,2oC, và vẫn được coi là bình thường.

Điều gì gây ra sốt?

Cơ thể thường nhạy cảm với một số loại tác nhân xâm nhập, cho dù đó là vi khuẩn hay vi-rút, những thứ không nên có mặt trong cơ thể. Vùng dưới đồi trong não kiểm soát nhiệt độ cơ thể và tăng nó lên như một cách để bảo vệ chống lại bất cứ thứ gì có thể xâm chiếm cơ thể. Sốt không phải là do bản thân kẻ xâm nhập gây ra mà là do phản ứng của cơ thể với việc tìm thấy chúng ở đó. Các “kẻ lạ mặt” không thể có thể sống sót ở nhiệt độ trên 38oC, vì đó là nhiệt độ quá nóng đối với chúng. Sốt là một phần của đáp ứng miễn dịch của cơ thể.

Tại sao sốt lại khiến bạn cảm thấy tệ như vậy

Bản thân sốt không phải là vấn đề. Thật ra việc cơ thể làm điều đúng đắn để chống lại vi trùng là một việc tốt. Nhưng tác dụng phụ của sốt là khiến cho sinh lực của bạn giảm xuống và bạn cảm thấy yếu mệt. Khi nhiệt độ của cơ thể cao hơn nhiệt độ phòng, bạn bắt đầu ớn lạnh. Bạn cũng có thể bị đau cơ, đổ mồ hôi và yếu.

Chuyện gì xảy ra với cơ thể?

Sốt ảnh hưởng đến mọi bộ phận của cơ thể. Nhịp tim sẽ trở nên nhanh hơn và mọi thứ sẽ phản ứng với nhịp tim nhanh. Thận phải làm việc vất vả hơn vì mạch nhanh hơn. Bạn bắt đầu loại bỏ chất thải nhanh hơn. Mọi thứ đều diễn ra với tốc độ nhanh hơn do quá trình trao đổi chất tăng tốc. Bạn cũng bắt đầu đổ mồ hôi vì thân nhiệt tăng.

Phản ứng đúng với sốt

Bạn không cần phải làm bất cứ điều gì nếu không cảm thấy quá tệ - thường là trường hợp của sốt nhẹ. Bạn có thể để cơ thể tự đi hết trình tự nhiên của nó. Nhưng khi sốt dẫn đến ớn lạnh, đau nhức hoặc cảm thấy kiệt sức, bạn có thể điều trị các triệu chứng. Các bác sĩ khuyên dùng thuốc giảm đau và thuốc hạ sốt không kê đơn, như ibuprofen hoặc acetaminophen. Những thuốc này thường sẽ giúp bạn cảm thấy tốt hơn. Lưu ý rằng không nên dùng ibuprofen cho trẻ em dưới sáu tháng tuổi; trẻ em và thiếu niên nên tránh dùng aspirin.

Những cách khác để hạ nhiệt

Khi bạn có cảm giác sốt, hãy coi đó là dấu hiệu cho thấy cơ thể đang bảo bạn cần nghỉ ngơi, điều sẽ giúp bạn chống lại bệnh nhanh hơn. Dưới đây là một số gợi ý khác từ Trung tâm Y tế Đại học Pittsburgh:

• Cởi bớt quần áo và chăn nặng và giữ cho phòng mát nhưng không lạnh

• Thử tắm nước ấm

• Uống nhiều nước

• Tránh tắm nước lạnh và đánh gió bằng rượu, có thể gây run và khiến nhiệt độ còn tăng cao hơn

Khi nào cần lo lắng

Nếu sốt không hạ trong vòng ba ngày – nhất là nếu bạn đã uống thuốc – thì đã đến lúc nên gặp bác sĩ. Bạn có thể bị nhiễm trùng [như viêm họng liên cầu hoặc nhiễm trùng tiết niệu] và cần dùng kháng sinh, hoặc bạn có thể gặp vấn đề nghiêm trọng hơn, như viêm phổi, cục máu đông hoặc nhiễm trùng MRSA [tụ cầu kháng thuốc]. Thông điệp cần nhớ là nếu sốt không thuyên giảm và đã qua vài ngày, thì bạn cần một bác sĩ lâm sàng được đào tạo để xem xét cho bạn.

Dấu hiệu cho thấy bạn cần chăm sóc y tế

Thường thì bác sĩ chăm sóc ban đầu có thể xử trí sốt. Tất nhiên là sau nhiều giờ hoặc vào các ngày lễ, bạn sẽ cần đến phòng khám cấp cứu. Đau bụng, đau ngực nhiều, hoặc buồn nôn và nôn dai dẳng khiến bạn bị mất nước cũng là một chỉ định đi khám cấp cứu. Các triệu chứng khác cần được chăm sóc y tế: đau đầu nhiều, co giật, rối loạn tâm thần, cứng gáy, phát ban và bầm tím..

Những con số cần biết

Một số mức nhiệt độ đáng lo ngại: Sốt từ 38oC trở lên đối với trẻ dưới 3 tháng tuổi đều là trường hợp cấp cứu. Đối với trẻ từ 3 đến 12 tháng tuổi, sốt 39oC cần đi khám bác sĩ. Đối với người lớn, sốt 39,4oC là đáng lo ngại nếu cơn sốt kéo dài hơn 48 giờ hoặc tiếp tục tăng. Sốt 40,5oC báo hiệu đã đến lúc phải đi khám cấp cứu.

Co giật do sốt

Đây là tình trạng co giật ở trẻ em xảy ra do thân nhiệt tăng đột biến. Cơn co giật thường xảy ra trong 24 giờ đầu tiên sau khi bắt đầu sốt. Sẽ rất đáng sợ nếu bạn phải chứng kiến: Trẻ bị giật, mất ý thức, tay hoặc chân có thể cứng đơ hoặc co quắp. Hãy đảm bảo an toàn cho trẻ trong cơn co giật – thường là ngắn - và giúp trẻ thoải mái sau đó; gọi cho bác sĩ và cho trẻ di khám càng sớm càng tốt. Thường thì những cơn co giật này không để lại ảnh hưởng về lâu dài. Nếu cơn co giật kéo dài quá năm phút hoặc kèm theo nôn, cứng gáy, khó thở hoặc ngủ li bì, hãy đến phòng khám cấp cứu.

Đừng để bị bệnh ngay từ đầu

Cách đơn giản nhất để tránh sốt là tránh nhiễm trùng:

• Rửa tay thường xuyên bằng nước nóng, xà phòng và trong ít nhất 20 giây. Điều này đặc biệt quan trọng trước khi ăn và sau khi sử dụng nhà vệ sinh, ở nơi đông người, ở cạnh người bệnh hoặc chơi đùa với động vật.

• Mang theo chất sát trùng tay những khi không thể dùng xà phòng và nước.

• Tránh sờ vào mũi, mắt hoặc miệng vì đây là những con đường cách chính để vi-rút và vi khuẩn xâm nhập cơ thể.

• Che miệng bằng khuỷu tay, chứ không phải bàn tay, khi ho và hắt hơi.

Cẩm Tú

Theo RD

ĐANG ĐƯỢC QUAN TÂM

Tắm nước đá có thực sự giúp cải thiện phục hồi cơ bắp?

Giảm tác dụng phụ khi điều trị ung thư tuyến giáp bằng Iod phóng xạ

Tiêm vaccine và dinh dưỡng - bộ đôi bảo vệ người cao tuổi mùa dịch bệnh

Vì sao thời tiết 37 độ C giống thân nhiệt lại bị coi là quá nóng bức?

17 sự thật khoa học thú vị nhà trường không dạy cho bạn

Đảm bảo an toàn của người bệnh và người nhà trong khi xạ trị

Các dấu hiệu "tố" gan mắc bệnh và 7 dược liệu hỗ trợ điều trị các bệnh về gan

Điều gì xảy ra khi bàn chân tê như kim châm?

9 sự thật thú vị về nhiệt độ cơ thể bạn

Mục lục

Video liên quan

Chủ Đề