Vì sao nên nuôi heo nái sinh sản

Chăm sóc và nuôi nuôi lợn nái sinh sản có vai trò quan trọng trong việc quyết định năng suất sinh sản và chăn nuôi. Vì vậy, người chăn nuôi cần chú ý đến kỹ thuật nuôi heo nái ngay từ giai đoạn chọn giống.

I. Giai đoạn nuôi hậu bị và chuẩn bị phối giống trong kỹ thuật nuôi heo nái

Nuôi lợn nái ở giai đoạn này cần cung cấp đầy đủ và cân đối các chất dinh dưỡng ; tuy nhiên, không cho ăn tự do ; nhất là thức ăn chứa nhiều chất bột đường mà cần định lượng thức ăn và theo dõi kiểm tra thường xuyên mức tăng trọng để tăng, giảm lượng thức ăn sao cho heo tăng trọng sát với tiêu chuẩn của giống, tránh quá mập hoặc quá gầy. Về nguyên tắc, khi nuôi lợn nái sinh sản cần tránh heo bị mập mỡ sẽ ảnh hưởng xấu đến khả năng động dục, đậu thái, mang thai và cho sữa sau này. Thông thường, chỉ khi đến 2 tuần trước khi cho phối giống thì tăng dần thức ăn ; trong đó, tăng tỷ lệ thức ăn chứa nhiều đạm, sinh tố và khoáng.

Thời điểm động dục (lên giống) của cái tơ lần đầu tiên vào lúc 7 – 8 tháng tuổi (heo ngoại, heo lai). Tuy nhiên, nên bỏ qua “nước đầu” mà chỉ nên phối ở lần động dục thứ 2 hoặc thứ 3 khi trọng lượng heo đạt từ 110 – 115 kg trở lên.

Chu kỳ lên giống của heo nái trung bình là 21 ngày (dao động từ 19 – 22 ngày). Khi heo bắt đầu động dục có biểu hiện giảm ăn, ít nằm, không yên, hoa khế nở đỏ, ấn tay trên lưng phần sau nái đứng yên, vểnh tai (chịu nọc) ; tuy nhiên, với kỹ thuật nuôi heo nái, thời điểm này chưa nên phối giống mà chờ vào ngày thứ 3, 4 khi hoa khế teo lại, rỉ nước nhờn thì mới là lúc phối giống thích hợp (phủ trực tiếp hoặc gieo tinh nhân tạo). Nên phối vào lúc sáng sớm hay chiều mát, hoặc phối cả 2 lần sẽ cho kết quả tốt hơn.

Đối với heo nái đã đẻ thì bình thường 3 – 5 ngày sau khi lẻ bầy sẽ động dục trở lại ; tuy nhiên, nếu kỹ thuật nuôi heo nái kém, heo suy yếu nhiều thì sẽ động dục trễ hơn. Ngược lại, một số heo nái động dục rất sớm trong lúc còn đang nuôi con, nhưng thường biểu hiện động dục lúc này luôn ngắn, không rõ ràng nên không cho phối giống.

Trước khi phủ nọc khoảng 15 – 20 ngày cần tiêm phòng đầy đủ cho nái các loại vắc – xin phòng các bệnh truyền nhiễm chính.

>>> Xem thêm: Khắc phục bệnh tụ huyết trùng trên heo

II. Giai đoạn mang thai trong kỹ thuật nuôi heo nái

Thời gian mang thai của heo nái là 114 ngày (dao động từ 1 đến 4 ngày), nái tơ thường đẻ sớm hơn. Sau khi phủ nọc, nếu đã đậu thai, một số nái vẫn có biểu hiện động dục ở chu kỳ sau nhưng không rõ ràng mà thường chỉ kéo dài 1 – 2 ngày, không bỏ ăn và cũng không chịu nọc. Hiện tượng này được gọi là “nhớ con nước”. Cần theo dõi để xác định chắc chắn heo đã mang thai hay không.

Heo nái mang thai cần được nuôi trong môi trường yên tĩnh, thoáng mát, tránh di chuyển hay gây kích động mạnh. Nếu nái có điều kiện vận động nhẹ và thường xuyên thì rất tốt cho việc dưỡng thai và sinh con sau này ; tuy nhiên, trong vòng 28 ngày đầu của thai kỳ không nên di chuyển heo.

Chú ý khi nuôi lợn nái sinh sản, trong khẩu phần ăn của nái mang thai cần đầy đủ và cân đối các chất đạm, vôi, lân và sinh tố. Trước khi sanh khoảng 3 ngày, cho giảm loại thức ăn chứa nhiều đạm và bột đường, có thể cho ăn thêm rau xanh và nên chia bữa ăn ra làm 4 – 5 lần trong ngày. Khi thấy vú đã căng, vắt ra sữa non thì cần lau rửa chuồng thường xuyên cho heo và chuẩn bị chuồng đẻ đã được sát trùng kỹ lưỡng.

Về mặt kinh tế, thông thường một lứa heo đẻ trên 9 con thì mới có lãi ; do đó, nếu qua 1 hoặc 2 lứa đẻ mà thấy số con mỗi lứa quá thấp hoặc nái nuôi con kém, tỷ lệ nuôi sống đến lẻ bầy thấp thì nên loại thải. Heo thường cho kết quả sinh sản tốt nhất ở độ tuổi 2 – 4. Từ 5 tuổi trở đi, sức sinh sản giảm dần và một số nái sinh tật dữ nên loại thải lúc này là phù hợp.

 

III. Giai đoạn sinh con trong kỹ thuật nuôi heo nái:

Trước khi heo đẻ, cần chuẩn bị đầy đủ các dụng cụ cần thiết như : khăn, bột lăn, giẻ sạch, cồn iốt, chỉ, kéo, kềm bấm răng… đã sát trùng ; ngoài ra cần chuẩn bị trước thuốc giục đẻ, dây, xà – bông, dầu bôi trơn … để xử lý kịp thời trường hợp đẻ chậm, đẻ khó. Về chuồng trại, trước đó cần được vệ sinh, sát trùng và làm ngăn úm heo con có lót rơm hay lá chuối khô sạch. Cho thắp bóng đèn tròn trong ngăn úm trước khi nái sanh 1 – 2 giờ để tạo sẳn môi trường ấm khi đưa heo con vào.

Vào thời điểm chuyển bụng, heo nái có biểu hiện không yên, đi lại nhiều, tiêu tiểu liên tục, ủi máng, cắn phá chuồng, … Sau khi vỡ nước ối, rồi đến khi phân xu chảy ra là bắt đầu đẻ, chậm nhất là 30 phút sau đó. Thường heo nái đẻ hết con trong vòng vài giờ, trung bình 15 – 30 phút có một con lọt lòng; tuy vậy, khi nái rặn yếu, có thể cần 8 – 10 giờ mới đẻ xong. Phần nhau thai ra sau cùng, cần kiểm tra kỹ số heo con được đẻ ra và lá nhau để có thể xác định có sót nhau hay không.

Lúc heo đẻ, cần thao tác xoa bóp, vuốt bụng giúp nái rặn con, không tập trung nhiều người gây ồn ào. Bình thường cứ để nái đẻ tự nhiên, không can thiệp. Chỉ khi nái đẻ chậm thì lúc đã đẻ được 5 – 6 con có thể tiêm thuốc giục đẻ (như Oxytocin). Sau khi nái đẻ xong, dọn bỏ giẻ, rơm dơ, thay rơm mới, dùng nước ấm rửa vú, âm hộ và phần mông xung quanh.

Cho nái uống thật đầy đủ nước sạch. Trong 1 – 2 ngày đầu chỉ nên cho ăn các loại thức ăn dễ tiêu ở dạng lỏng. Cần quan sát thật kỹ biểu hiện của nái sau khi đẻ bằng cách đo thân nhiệt, quan sát tình trạng ăn uống, đối xử với con … để có thể phát hiện sớm các biểu hiện bất thường hầu can thiệp kịp thời.

Heo con vừa lọt lòng, dùng khăn lau nhớt toàn thân, móc sạch nhớt trong mũi, miệng. Trường hợp heo con bị ngạt, cần hút ngay nhớt trong mũi, dốc ngược heo rồi vỗ nhẹ đều vào thân để kích thích huyết quản lưu thông. Dùng chỉ gút rốn độ 2 – 3 phân cách thành bụng, cắt cách chỗ cột 1 phân, nhúng chỗ cắt vào lọ cồn i-ốt, lặp lại thao tác sát trùng rốn trong 3 ngày, mỗi ngày 2 lần. Trong trường hợp đẻ khó và đã dùng các loại thuốc giục đẻ như Oxytocin thì thuốc có thể gây phản ứng mất máu một ít trên heo con, nên ngay sau khi vừa lọt lòng cần buộc ngay cuống rún rồi mới thực hiện tiếp các khâu khác.

Khi cắt răng heo con nên cắt 8 cái và cắt sát nướu ; sau khi cắt răng đưa ngay vào ngăn úm, khoảng 5 – 10 phút sau cho những con đẻ trước trở lại bú sữa mẹ lúc mẹ vẫn còn đang đẻ tiếp. Mục đích cho bú sớm để heo con lấy được sữa đầu giàu chất dinh dưỡng và có kháng thể phòng bệnh ; đồng thời, giúp heo mẹ quen cảm giác cho con bú và kích thích heo mẹ tiếp tục rặn đẻ.

Cần giữ ấm cho heo con trong vòng 7 đến 10 ngày. Thời gian này nên tập cho heo con bú theo từng đợt và đồng loạt, ngày đầu tiên cho heo bú mỗi giờ một lần, những ngày kế tiếp giảm xuống còn khoảng 8 – 10 cữ vào ban ngày cách nhau 1 – 2 giờ, ban đêm 4 – 6 cữ cách khoảng 2 – 3 giờ. Thường heo con bú trong vòng 5 – 10 phút là đủ, nên theo dõi để bắt heo con đưa trở lại ngăn úm. Các vú phần thân trước của heo mẹ thường cho nhiều sữa hơn các vú ở phần thân sau ; do đó, nên đưa các heo nhỏ, yếu được bú các vú phía trước; ngoài ra, để tránh tình trạng heo con bú không đều nên chú ý nâng đổi tư thế nằm của heo nái.

ST


Chu kỳ, hệ số lứa đẻ và ảnh hưởng của nó đến năng suất heo nái

Bài viết này giới thiệu Chu kỳ lứa đẻ, Hệ số lứa đẻ/nái/năm của trang trại, sự ảnh hưởng của Chu kỳ lứa đẻ, Hệ số lứa đẻ/nái/năm đến năng suất sản xuất của trang trại; các nhân tố ảnh hưởng đến năng suất sản xuất heo nái và một số giải pháp tăng năng suất sản xuất của trang trại chăn nuôi heo nái sinh sản.

1. Chu kỳ lứa đẻ của heo nái trong trang trại là gì?

Chu kỳ lứa đẻ (Farrowing Interval) là một trong những thông số trong sản xuất chăn nuôi heo thường được sử dụng là một chỉ số phản ánh hiệu quả sản xuất nái sinh sản của trang trại. Chu kỳ lứa đẻ là số ngày trung bình từ lứa đẻ lần này đến lứa đẻ lần kế tiếp của nái sinh sản bao gồm thời gian mang thai, thời gian nái nuôi con và thời gian lên giống sau cai sữa. Chu kỳ đẻ có ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng heo con sau cai sữa của mỗi nái trong năm.

Trong thực tế, Chu kỳ lứa đẻ của nái hậu bị ngắn hơn chu kỳ lứa đẻ của nái rạ (nái đẻ từ lứa thứ 2 trở đi). Chu kỳ đẻ có thể được tính cho từng cá thể heo nái và cho toàn bộ trang trại.

Vì sao nên nuôi heo nái sinh sản

Đối với một cá thể heo nái, Chu kỳ đẻ bằng số ngày mang thai cộng số ngày nuôi con cộng số ngày chờ lên giống sau cai sữa. Ví dụ nái có số ngày mang thai 115 ngày, số ngày nuôi con 25 ngày, số ngày lên giống sau cai sữa 5 ngày thì Chu kỳ đẻ của nái như sau:

Chu kỳ lứa đẻ nái = 115 ngày mang thai + 25 ngày nuôi con + 5 ngày lên giống sau cai sữa = 145 ngày.

Chu kỳ lứa đẻ của trang trại bằng bình quân gia quyền chu kỳ lứa đẻ của từng nái.

Giả sử một trại có 600 nái sinh sản, nếu 600 nái đều có số ngày mang thai, ngày nuôi con và ngày lên giống như nhau thì Chu ky lứa đẻ của nái trong đàn là 145 ngày. Giả sử trong một lý do nào đó trong đó 500 nái có cùng Chu kỳ lứa đẻ là 145 ngày (ví dụ trên), và trong đó có 100 nái có Chu kỳ lứa đẻ tăng lên thêm 21 ngày (145 + 21 ngày).

Như vậy, Chu kỳ lứa đẻ của trại được tính như sau:

                                       (145 ngày  x 500 nái ) + (166 x 100 nái)

Chu kỳ lứa đẻ trang trại =  ——————————————– = 147.1 ngày   (1)

                                                              Tổng 600 nái

Như vậy chu kỳ ngày đẻ của trại tăng lên 2.1 ngày (147.1 – 145)

2. Hệ số lứa đẻ/nái/năm của trang trại

Hệ số lứa đẻ/nái/năm của một nái là số lứa đẻ của nái trong một năm. Chúng ta có thể tính hệ số lứa đẻ/nái/năm cho từng nái và cho cả trại. Công thức tính hệ số lứa đẻ/nái/năm từng nái và chung cả trại được tính như sau:

a) Hệ số lứa đẻ/nái/năm của một nái:

Hệ số lứa đẻ/nái/năm = 365 ngày/Chu kỳ lứa đẻ của nái   (2)

b) Hệ số lứa đẻ/nái/năm của cả trại:

Hệ số lứa đẻ/nái/năm của Trang trại  = 365 ngày/Chu kỳ lứa đẻ trang trại   (3)

Ví dụ: Một trang trại có 600 heo nái sinh sản.

Chu kỳ lứa đẻ của một nái bằng = 115 ngày mang thai + 25 ngày nuôi con + 5 ngày thời gian từ cai sữa đến lên giống = 145 ngày.

1) Nếu 600 nái có cùng chu kỳ đẻ giống nhau, thì Chu kỳ lứa đẻ của trang trại sẽ là 145 ngày. Hệ số lứa/nái/năm của nái sẽ là: 365 ngày/145 ngày = 2,52 lứa/năm.

2) Cùng ví dụ trên, giả sử có 500 nái có Chu kỳ đẻ giống nhau là 145 ngày, còn 100 nái có chu kỳ đẻ là 166 ngày (100 nái có số ngày lên giống sau cai sữa thêm 21 ngày, khi đó Chu kỳ lứa đẻ của 100 nái này bằng 115 ngày + 25 ngày nuôi con + 5 ngày từ cai sữa đến lên giống + 21 ngày tăng thêm = 166 ngày) vậy thì Chu kỳ lứa đẻ của trại được tính như sau:

                                                              365 ngày

Hệ số lứa đẻ/nái/năm trang trại là = —————- = 2.48 lứa/nái/năm     (4)

                                                            147.1 ngày

(Ghi chú: chu kỳ lứa đẻ của trại 147.1 ngày được tính theo công thức (1))

Đối với 100 nái chậm lên giống (tăng thêm 21 ngày) có hệ số lứa đẻ/nái/năm là 2.20 (365 ngày/166 chu kỳ đẻ). Trường hợp này cũng giống như trường hợp nái khi nái không bầu hoặc nái sẩy thai sẽ làm ảnh hưởng đến năng suất của trại. Vì làm giảm số lứa/năm của nái và đồng nghĩa với giảm số heo con/năm.

Trong thực tế, nếu chúng ta ngoại suy ví dụ trên với một trang trại nái sản trong một thời gian nhất định, chu kỳ lứa đẻ sẽ là tổng trung bình thời gian của chu kỳ cộng với trung bình thời gian cho con bú (thời gian heo con theo mẹ) và cộng với thời gian từ cai sửa đến phối và đậu thai trong suốt quãng thời gian này.

Ngoài ra, chúng có cách thứ hai tính toán thông số này bằng cách dựa vào tổng số lần đẻ của nái/năm. Ví dụ: nếu chúng ta biết số lứa đẻ của trại trong 6 tháng vừa qua và tổng số trung bình của đàn nái trong giai đoạn này thì áp dụng công thức như sau:

                                                          Tổng số lứa đẻ của trong 6 tháng * 2

Chu kỳ đẻ trung bình của nái/năm = ————————————————- 

                                                      Tổng số trung bình đàn nái trong 6 tháng

Công thức này có vẻ thực tế hơn công thức trên vì nó dựa vào số liệu thực tế trong 6 tháng đầu của trại để suy tính chu kỳ trung bình đẻ của nái/năm. Tuy nhiên, công thức này dựa vào số liệu của 6 tháng sau cũng giống như 6 tháng trước đó. Nếu 6 tháng sau có biến động lớn trong đàn nái thì độ chính xác sẽ bị giảm.

3. Những nhân tố ảnh hưởng đến Chu kỳ lứa đẻ

1) Không cho nái ăn đầy đủ, nái ăn kém trong thời gian nuôi con. Đây là khoảng thời gian quan trọng nhất, nái cần phải được cho ăn đầy đủ để có năng lượng để duy trì hoạt động hàng ngày của nái và có đủ sữa nuôi con. Đặc biệt đối với nái đẻ lứa một, thể trạng nái chưa phát triển toàn diện nên cần phải duy trì thể trạng tốt sau khi cai sữa. Nếu thể trạng nái kém, sau khi cai sữa nái sẽ lên giống chậm và ảnh hưởng xấu đến chu kỳ lứa đẻ  của nái. Có thể ảnh hưởng xấu đến năng suất của các lứa tiếp theo; Trong thực tế người ta có thể tính nhẩm như sau: nái nuôi con cần ăn khoảng 1.8 kg cám/ngày để duy trì các hoạt động hằng ngày của nái và cứ mỗi con heo con nái nuôi thì tăng thêm 0.50 kg cám/ngày/heo con. Ví dụ nái nuôi 10 heo con, lượng cám nái ăn/ngày = 6.80kg (1.80kg+0.50kgx10).

2) Thay đổi mùa (thời tiết) trong năm. Nói chung, khi nhiệt tăng trong mùa hè chúng ta có thể thấy sự gia tăng ngày trong chu kỳ đẻ. Vì thời tiết nóng và nái sẽ ăn ít. Khi nái ăn ít sẽ thiếu sữa và nái sẽ lên giống chậm vì mất thể trạng, đặc biệt khi nái được nuôi trong chuồng hở. Ngoài ra, nái ăn ít sẽ cho ra ít sữa và ảnh hưởng đến trong lượng của heo con khi cai sữa.

3) Thời gian nuôi con: Nếu thời gian nuôi con quá ít (ví dụ 16 ngày) sẽ dẫn đến nái lên giống chậm, bởi vì với thời gian này tử cung chưa hoàn toàn phục hồi. Ngược lại, nếu ngày nuôi con quá dài thì cũng ảnh hưởng đến Chu kỳ đẻ của nái.

4. Sự ảnh hưởng của Chu kỳ lứa đẻ đến năng suất của trại

Để thấy được sự ảnh hưởng của Chu kỳ lứa đẻ đến năng suất sản xuất của trang trại (số heo con cai sữa/năm) chúng ta xem ví dụ dưới đây.

Giả sử một trại có bình quân số con heo con cai sữa/lứa là 10 con. Chúng ta xem xét sự khác biệt năng suất khi

Chu kỳ lứa đẻ thay đổi:

1) Trường hợp thứ nhất: giả sử Chu kỳ lứa đẻ là 151 ngày:

Hệ số lứa đẻ/nái/năm: 365/151 = 2.42 lứa/nái/năm

Tổng số heo con cai sữa/nái/năm: 2.42 *10 con = 24.20 heo con cai sữa /nái/năm.

2) Trường hợp thứ hai: Giả sử Chu kỳ lứa đẻ là 158 ngày (tăng thêm 7 ngày):

Hệ số lứa đẻ/nái/năm: 365 ngày/158 ngày = 2.31 lứa/nái/năm

Tổng số heo con cai sữa/nái/năm: 2.31 *10 con = 23.1 heo con cai sữa /nái/năm.

Qua ví dụ trên, ta thấy khi Chu kỳ lứa đẻ tăng thêm 7 ngày thì sẽ giảm 1.1 con heo con cai sữa/nái/năm. Giả sử trại có 600 nái sinh sản, thì tổng số heo con cai sữa của trại sẽ giảm là 660 con heo con cai sữa/năm (600 nái x 1.1 con = 660), tương đương 94.28 con heo con cai sữa tính trên mỗi ngày tăng thêm trong Chu kỳ lứa đẻ.

Như vậy, Chu kỳ lứa đẻ có ảnh hưởng lớn đến của năng suất sản xuất của trang trại.  Do đó, chủ trang trại cần phải giảm Chu kỳ lứa đẻ của trang trại.

5. Một số nhân tố ảnh hưởng tới Chu kỳ lứa đẻ, Hệ số lứa đẻ/nái/năm của trang trại

Trong các giai đoạn sản xuất của nái thì thời gian mang thai ít biến động và thường dao động từ 112 đến 116 ngày. Chu kỳ lứa đẻ, Hệ số lứa đẻ/nái/năm của từng nái và chung của Trại bị ảnh hưởng bởi một số chỉ tiêu: Số ngày nuôi con, số ngày lên giống sau cai sữa. Dưới đây xem xét ảnh hưởng của từng nhân tố đến Chu kỳ lứa đẻ và Hệ số lứa đẻ/nái/năm:

1) Thời gian nuôi con (số ngày cai sữa):

Thời gian nuôi con ảnh hưởng rất lớn đến Chu kỳ lứa đẻ và Hệ số lứa đẻ/nái/năm của trang trại và ảnh hưởng đến năng suất của trang trại. Khi tăng một ngày nuôi con thì Chu kỳ lứa đẻ tăng thêm một ngày nhưng Hệ số lứa đẻ/nái/năm của Trang trại giảm đi gần 1 phần trăm. Đây là một trong những nhược điểm của việc tăng số ngày nuôi con (ngày cai sữa). Tuy nhiên, trên thực tế nếu tăng số ngày nuôi con thì trọng lượng heo con cai sữa tốt hơn. Vì vậy trang trại cần giảm số ngày nuôi con nhưng vẫn đảm  bảo được  trọng lượng heo con cai sữa tốt.

2) Khoảng thời gian cai sữa đến phối và đậu thai:

Thông số này cũng có ảnh hưởng lớn đến chu kỳ lứa đẻ của nái và chu kỳ lứa đẻ của Trang trại. Chủ yếu bởi hai chỉ số: khoảng thời gian cai sữa – phối giống và các tổn thất sinh sản do sẩy thai và nái không bầu…

3) Thời gian nái sau cai sữa đến lên giống:

Nếu khoảng thời gian này càng dài thì Chu kỳ lứa đẻ càng lớn. Do vậy, Chủ trang trại cần phải giảm đến mức tối thiểu tỷ lệ nái chậm lên giống (không quá 7 ngày). Nếu nái sau 7 ngày không lên giống sau cai sữa thì nái đó được xếp loại nái có “vấn đề” và cần có giải pháp xử lý kịp thời.

4) Vấn đề sinh sản (sẩy thai, không bầu):

Như chúng ta đã biết, mỗi khi nái có “vấn đề” sinh sản sẽ đưa đến khoảng thời gian đẻ tệ hơn, số ngày không làm việc (NPD) của nái sẽ lớn hơn. Ví dụ, một con nái bị sẩy thai ở gian đoạn 55 ngày sau khi phối và sau đó được phối lại sau 25 ngày. Như vậy tổng số ngày nái không làm việc là 80 ngày, điều này sẽ ảnh hưởng đến khoảng thời gian đẻ nhiều hơn 4 lần so với nái lên giống sau 20 ngày.

Do vậy, chủ trang trại cần làm giảm số ngày không làm việc (NPD) của nái và của toàn trang trại càng thấp càng tốt.

6. Một số giải pháp giảm Chu kỳ lứa đẻ

Từ những phân tích ở trên, chúng ta có thể đưa ra một số giải pháp giảm Chu kỳ lứa đẻ:

1) Phải đảm bảo thể trạng nái tốt liên tục, tránh biến đổi lớn về thể trạng giữa thời gian mang thai và nuôi con;

2) Đảm bảo nhiệt độ trong chuồng ổn định, phù hợp, tránh nhiệt độ quá cao. Sử dụng các hệ thống làm mát hiệu quả trong những ngày hè có nhiệt độ cao;

3) Cung cấp nước đầy đủ cho nái uống, cho ăn nhiều lần/ngày (ví dụ 3-4/lần/ngày). Những ngày nóng bức, nên cho ăn lúc sáng sớm và chiều tối;

4) Đối với những nái đẻ nhiều con, chủ trại nên tách những con có trọng lượng lớn nhất sang bày khác và nên để nuôi ít nhất 7 heo con mỗi lứa. Không nên để nái nuôi quá ít con, nái có thể lên giống sớm trong lúc nuôi con;

5) Giảm căng thẳng tối đa cho nái mang thai, đặc biệt từ ngày 11 đến ngày 18 sau khi phối. Không để nhiệt độ trong trại bầu tăng giảm đột ngột, không gây tiếng động mạnh trong thời gian nái ngủ. Ngoài ra chuồng phải được thoáng mát và khô ráo.

6) Sử dụng sản phẩm dinh dưỡng có chứa các khoáng vi lượng như đồng, kẽm và mangan là 3 loại khoáng vi lượng cần thiết nhất đối với heo nái. Cho nái ăn đủ hàm lượng các khoáng chất này là điều rất quan trọng cho sức khỏe và khả năng sinh sản thành công của nái trong đàn. Ví dụ sản phẩn SowStart cho nái ăn trong thời gian nuôi con (từ ngày thứ 7 đến khi cai sữa) và sản phẩm LitterStart sau khi nái cai sữa cho đến khi nái được phối. Hai sản phẩm SowStart và LitterStart nằm trong danh mục được phép nhập khẩu và kinh doanh tại Việt Nam do Hợp tác xã Dịch vụ chăn nuôi Xuân Phú (địa chỉ xã Xuân Phú, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai) nhập khẩu từ Canada và Công ty TNHH Dịch vụ Nông nghiệp An Phú (địa chỉ tại thôn Đục Khê, xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, Hà Nội) là nhà phân phối khu vực phía Bắc.

Tóm lại, với giá thịt heo hơi và heo giống hiên nay xuống quá thấp, người chăn nuôi đang lỗ nặng. Vì thế người chăn nuôi cần nên tăng năng suất và giảm chí phi, bằng cách chú ý đến Chu kỳ đẻ của trại, phân tích và truy suất các nguyên nhân làm ảnh hưởng xấu và từ đó cần phải có những biện pháp cụ thể nhằm khắc phục hậu quả. Trong tình trạng chăn nuôi tại Việt nam hiện nay Chu kỳ đẻ trung bình khoảng từ 2.1 đến 2.35, nếu chúng ta biết cách quản lý tốt hệ số này có thể tăng lên từ 2.45 đến 2.55./.

Phan Văn Danh

Nguồn: HTX Dịch vụ Chăn nuôi Xuân Phú, Đồng Nai

  • chăm sóc lợn nái
  • năng suất heo nái