Chất lượng cuộc sống ở nước ta đã có những thay đổi như thế nào
Chất lượng cuộc sống của dân cư Việt Nam
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.15 KB, 14 trang ) Chuyên đề bồi dưỡng chuyên môn năm học 2013 – 2014 Trang 1 Chuyên đề bồi dưỡng chuyên môn năm học 2013 – 2014 lí Môn: Địa Phạm vi nội dung kiến thức khi giảng dạy chuyên đề này là đặc điểm chất lượng cuộc sống ở Việt Nam thể hiện qua các chỉ tiêu đánh giá chất lượng cuộc sống: Thu nhập bình quân đầu người và xóa đói giảm nghèo, giáo dục văn hóa, y tế và chăm sóc sức khỏe. Đặc biệt, chất lượng cuộc sống ở Việt Nam được đánh giá tổng quát qua xếp hạng Chỉ số phát triển con người (HDI). 2. Mục đích - Về kiến thức: Thông qua chuyên đề, giáo viên giúp học sinh hiểu rõ bản chất đánh giá chất lượng cuộc sống, thấy được đặc điểm tình hình chất lượng cuộc sống ở Việt Nam. - Về kĩ năng: Thông qua các số liệu chi tiết về chất lượng cuộc sống, học sinh được rèn luyện các kĩ năng về đọc và phân tích bảng số liệu, rút ra các nhận xét quan trọng và cần thiết. THPT Chuyên Hùng Vương Trang 2 Chuyên đề bồi dưỡng chuyên môn năm học 2013 – 2014 lí Môn: Địa Néi dung chÝnh Phần 1: Kiến thức cơ bản I. Đặc điểm chất lượng cuộc sống ở Việt Nam Con người đã thực sự trở thành mục tiêu của sự phát triển, với phương châm hành động “phát triển vì con người”. Việc nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân về thể chất và trí tuệ, tinh thần và vật chất là đích phấn đấu của mỗi quốc gia. Các thước đo chất lượng cuộc sống con người đó chính là thu nhập bình quân đầu người; giải quyết vấn đề xoá đói giảm nghèo, lao động việc làm và thất nghiệp; những tiến bộ về y tế, giáo dục và phúc lợi xã hội khác. 1. Thu nhập bình quân đầu người Trong những năm qua, công cuộc đổi mới của Việt Nam đã thu được những thành tựu to lớn trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị và xã hội. Nhờ duy trì được nhịp độ tăng trưởng kinh tế khá cao, trung bình mỗi năm tổng sản phẩm trong nước tăng khoảng 7,5% nên đời sống vật chất và tinh thần của phần lớn dân cư đã từng bước được ổn định và cải thiện. GDP bình quân đầu người mỗi năm tăng khoảng 6%. Như vậy trong vòng 15 năm, từ 1991 đến 2005, tổng GDP tăng 11 lần, còn GDP bình quân đầu người tăng 8,8 lần. GDP/người tính theo USD thực tế cũng tăng từ 220 USD/người năm 1991 lên 289 USD/người năm 1995, 402 USD/người năm 2000, 638 USD/người năm 2005, đạt khoảng 720 USD/người năm 2006 và 830 USD/người năm 2007. Với mức thu nhập 638 USD/người năm 2005, nước ta xếp thứ 131, còn nếu xếp theo tỉ giá sức mua tương đương (PPP) thì với 3010 USD/người nước ta đứng thứ 118 trên tổng số 181 nước. Điều này đã chứng tỏ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đã hướng vào sự phát triển xã hội, vào sự phát triển con người. THPT Chuyên Hùng Vương Trang 3 Chuyên đề bồi dưỡng chuyên môn năm học 2013 – 2014 lí Môn: Địa Song do mức tăng trưởng giữa các vùng khác nhau nên mức chênh lệch giữa các vùng về GDP/người khá lớn. Vùng cao nhất là Đông Nam Bộ, GDP/người gấp 2,5 lần mức trung bình của toàn quốc và gấp 5,4 lần vùng thấp nhất là Trung du và miền núi phía Bắc. Còn GDP/người của toàn vùng Trung du và miền núi phía Bắc chỉ bằng 0,45 lần mức trung bình của cả nước. Các vùng khác cũng có GDP/người thấp hơn mức trung bình của cả nước: vùng Duyên hải miền Trung chỉ bằng 0,60 lần, vùng Tây Nguyên 0,66 lần, vùng Đồng bằng sông Cửu Long 0,86 lần và vùng Đồng bằng sông Hồng 0,9 lần. Xu thế chung ở Việt Nam về thu nhập của dân cư trên phạm vi cả nước và theo các vùng lãnh thổ là tăng đều qua các năm, song đã hình thành khá rõ những nhóm vùng với các mức thu nhập khác nhau. Khoảng cách về thu nhập giữa vùng có mức thu nhập thấp nhất (Tây Bắc) và vùng có mức thu nhập cao nhất (Đông Nam Bộ) ngày càng lớn: 2,1 lần năm 1995, 2,5 lần năm 1999 lên 3,1 lần năm 2005. Nguyên nhân chủ yếu là do chính sách điều tiết ngân sách giữa các tỉnh, chính sách hỗ trợ phát triển vùng và chính sách ưu đãi xã hội của Nhà nước đối với các vùng kém phát triển thực hiện chưa hợp lí và hiệu quả. THU NHẬP VÀ CHÊNH LỆCH VỀ THU NHẬP BÌNH QUÂN ĐẦU NGƯỜI GIỮA CÁC VÙNG (theo giá thực tế) Các vùng Thu nhập bình quân Chênh lệch của từng đầu người vùng so với cả nước (triệu đồng) (lần) 1995 THPT Chuyên Hùng Vương 1999 2005 1995 1999 2005 Trang 4 Chuyên đề bồi dưỡng chuyên môn năm học 2013 – 2014 lí Môn: Địa Cả nước 2,47 3,54 5,50 1,00 1,00 1,00 Đồng bằng sông Hồng 2,41 3,36 6,30 0,97 0,95 1,14 Đông Bắc 1,93 2,52 4,60 0,78 0,71 0,83 Tây Bắc 1,93 2,52 3,20 0,78 0,71 0,58 Bắc Trung Bộ 1,92 2,55 3,80 0,78 0,72 0,69 Duyên hải Nam Trung Bộ 2,11 3,03 5,00 0,85 0,86 0,90 Tây Nguyên 2,89 4,14 4,70 1,17 1,17 0,85 Đông Nam Bộ 4,07 6,33 10,00 1,64 1,79 1,82 Đồng bằng sông Cửu Long 2,66 4,10 5,70 1,08 1,16 1,04 Nguồn: Niên giám thống kê 2000, 2005 2. Xoá đói giảm nghèo Xoá đói giảm nghèo đã trở thành Chương trình Quốc gia và được coi là một trong những thành công lớn nhất của quá trình phát triển xã hội ở Việt Nam từ đầu thập niên 1990 đến nay. Tại hội nghị Thượng đỉnh Thế giới năm 2005 tại Niu Ioóc, UNDP đã đánh giá Việt Nam là một trong những nước điển hình trong việc thực hiện mục tiêu thiên niên kỉ về xoá đói giảm nghèo. – Tính theo tiêu chuẩn quốc tế, tỉ lệ dân số sống dưới mức 1 USD/ngày và 2 USD/ngày (tính theo PPP) đã giảm nhanh, từ 50,8% và 87% năm 1990 xuống còn 10,6% và 53,4% năm 2004. Chính sự gia tăng thu nhập một cách khá vững chắc đã cho phép người dân nâng cao đáng kể mức chi tiêu cho cuộc sống, góp phần giảm mạnh tỉ lệ dân số sống dưới mức nghèo khổ. Còn theo kết quả điều tra mức sống hộ gia đình (tính theo tiêu chuẩn quốc tế), tỉ lệ THPT Chuyên Hùng Vương Trang 5 Chuyên đề bồi dưỡng chuyên môn năm học 2013 – 2014 lí Môn: Địa nghèo đói đã giảm từ 58,1% năm 1993 xuống còn 28,9% năm 2002 và 19,5% năm 2004, tức là tỉ lệ người nghèo đã giảm 3 lần so với 11 năm trước đó. Mặc dù công tác xoá đói giảm nghèo đã đạt được những thành tựu nhất định nhưng vẫn chưa vững chắc. Nếu lấy chuẩn nghèo là ngưỡng thu nhập 2 USD/ngày thì tỉ lệ nghèo của Việt Nam đang ở mức cao (trên 53%). Ngay cả tỉ lệ 19,5% theo tiêu chuẩn nghèo quốc tế mà nước ta thường áp dụng cũng vẫn rất cao, cứ 5 người dân có 1 người nghèo. – Nghèo theo tiêu chuẩn Việt Nam Chuẩn nghèo là thước đo để xác định các hộ nghèo và tỉ lệ đói nghèo. Nước ta đã lấy mức thu nhập đầu người/tháng làm tiêu chuẩn đánh giá đói nghèo. Qua các giai đoạn phát triển kinh tế, do mức sống và mức đáp ứng nhu cầu có nhiều thay đổi, nên chuẩn nghèo cũng có những thay đổi và như vậy tỉ lệ hộ đói nghèo cũng có những đột biến ở thời điểm tính theo chuẩn nghèo mới. Như vậy, dựa theo các tiêu chuẩn đánh giá nghèo đói khác nhau qua các giai đoạn, tỉ lệ hộ nghèo của nước ta cũng thay đổi theo xu hướng giảm dần. Giai đoạn 1992 – 1997, mặc dù có hai chuẩn nghèo áp dụng song sự chênh lệch không lớn, nên không có tính đột biến, thành tựu xoá đói giảm nghèo rất đáng kể. Trong 5 năm, tỉ lệ đói nghèo giảm 12,3%, bình quân mỗi năm giảm gần 2,5% với 235,5 nghìn hộ/năm. Giai đoạn 1998 – 2000, chuẩn nghèo có sự thay đổi nhưng không nhiều về mặt lượng, tỉ lệ hộ nghèo đã giảm tiếp tục tuy không lớn (5,7%) nhờ tác động của công tác xóa đói giảm nghèo. THPT Chuyên Hùng Vương Trang 6 Chuyên đề bồi dưỡng chuyên môn năm học 2013 – 2014 lí Môn: Địa Giai đoạn 2001 – 2004, tính theo chuẩn mới, cả nước giảm gần một nửa số hộ nghèo và gần 9% tỉ lệ hộ đói nghèo trong vòng có 4 năm. Đây là giai đoạn thành công nhất trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội. TIÊU CHUẨN ĐÁNH GIÁ NGHÈO ĐÓI CỦA BỘ LAO ĐỘNG - THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI Thu nhập bình quân đầu người/tháng Loại hộ Đói 1992- 1995- 1995 1997 Nông < 8 kg thôn gạo Thành thị < 13 < 13 kg gạo 1998-2000 2001-2004 2005-2010 < 13 kg gạo – – (tương đương 45000đ) kg gạo Nông <200000đ thôn : Nghèo < 15 < 15 kg gạo kg gạo (55000đ) kg < 20 < 20 kg gạo gạo kg gạo (70000đ) Thành < 20 < 25 < 25 kg gạo thị kg kg gạo (90000đ) + Miền núi, hải đảo < 15 80000đ 100000đ + Đồng bằng, trung du 150000đ <260000đ gạo THPT Chuyên Hùng Vương Trang 7 Chuyên đề bồi dưỡng chuyên môn năm học 2013 – 2014 lí Môn: Địa Khi chuẩn nghèo mới năm 2005 được áp dụng, tỉ lệ nghèo đói trong cả nước tăng lên đáng kể, từ 8,3% năm 2004 lên 21,9% năm 2005. Mặc dù tất cả các vùng lãnh thổ, nông thôn và thành thị đã có những tiến bộ trong công cuộc xoá đói giảm nghèo nhưng tình trạng nghèo đói vẫn chủ yếu tập trung ỏ khu vực nông thôn (30%) so với 5% ở khu vực thành thị và ở một số vùng. Tỉ lệ nghèo đói trong một số dân tộc ít người còn rất cao, như Vân Kiều (82,2%), Pa Cô (76,5%), Dao (54,3%), Ba Na (53,3%), Mông (52,0%) 3. Giáo dục - đào tạo Giáo dục được coi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của nâng cao chất lương dân số, phát triển nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Dân số là đầu vào của nền giáo dục. Quy mô và tốc độ tăng dân số quyết định quy mô và tốc độ phát triển trường, lớp, đội ngũ giáo viên. Ở nước ta, dân số dưới 15 tuổi tuy đã giảm nhiều từ 42,5% năm 1979 xuống còn 28% năm 2005 nhờ kết quả của công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình, song số dân trong độ tuổi đi học vẫn tăng đều hằng năm. Từ sau năm học 1999 – 2000, số học sinh tiểu học bắt đầu giảm, còn số học sinh THCS và THPT tăng dần. Kết quả giảm tỉ suất gia tăng dân số của Việt Nam đã tạo tiền đề thuận lợi cho việc đạt chuẩn quốc gia về xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, tỉ lệ người lớn biết chữ tăng lên 91% như hiện nay. Cả nước phấn đấu đạt phổ cập giáo dục THCS vào năm 2010. Số trường lớp và giáo viên tăng đều qua các năm nhưng vẫn không theo kịp số lượng gia tăng của trẻ nhập học. Cho đến năm học 2005 – 2006, nước ta có trên 27 nghìn trường phổ thông với 780,5 nghìn giáo viên. Trong vòng 15 năm qua, mỗi năm nhà nước xây thêm gần 10 nghìn lớp học và đào tạo thêm trên 25 nghìn THPT Chuyên Hùng Vương Trang 8 Chuyên đề bồi dưỡng chuyên môn năm học 2013 – 2014 lí Môn: Địa giáo viên. Tuy nhiên, số giáo viên vẫn thiếu trầm trọng, đặc biệt là giáo viên tiểu học ở các vùng núi và vùng dân tộc ít người. Về chất lượng lớp học thì ở trong tình trạng chưa đáp ứng được yêu cầu về diện tích, ánh sáng, trang thiết bị. Ở Việt Nam, bình quân mỗi học sinh chỉ có 0,43m 2 phòng học, trong đó THPT là 2,47m2 và Tiểu học là 0,15m 2. Để theo kịp số lượng nhập học đang tăng lên trong các khu vực đông dân, nhiều địa phương đã phải dùng đến biện pháp cho học hai hoặc ba ca trong ngày, đặc biệt là đối với tiểu học. Điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng học tập. Bên cạnh hệ công lập, hệ ngoài công lập trong những năm gần đây đã phát triển mạnh để khai thác nguồn lực của xã hội, chia sẻ với nhà nước nhằm đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân. Dân số cũng là đầu ra của giáo dục, đó chính là lực lượng lao động qua đào tạo phổ thông và chuyên nghiệp. Đến năm 2005, cả nước đã có 255 trường cao đẳng và đại học với 48,6 nghìn giảng viên và hơn 1,4 triệu sinh viên, 286 trường trung học chuyên nghiệp với 13,7 nghìn giáo viên, 453,2 nghìn học sinh, 157 trường dạy nghề với 172 nghìn học sinh. Sự phát triển của giáo dục – đào tạo như vậy đã làm thay đổi đáng kể cơ cấu lực lượng lao động theo trình độ học vấn cũng như trình độ chuyên môn kĩ thuật của cả nước. Trình độ học vấn của lực lượng lao động nhìn chung đã tăng lên, nhất là ở bậc học THCS và THPT, nhưng không đồng đều giữa các bậc, các vùng. Cơ cấu của lực lượng lao động theo trình độ học vấn có sự chênh lệch giữa các vùng. Vùng có tỉ lệ lực lượng lao động mù chữ cao nhất là Tây Bắc (17,6%), tiếp đến là Tây Nguyên (10,5%), thấp nhất là Đồng bằng sông Hồng (0,6%), Bắc Trung Bộ (1,9%). Các vùng còn lại có tỉ lệ mù chữ dao động từ 2,6% đến 5,9%. Vùng có tỉ lệ lực lượng lao động tốt nghiệp THPT cao nhất là Đồng bằng sông Hồng (28,8%) và Đông Nam Bộ (32,7%), thấp nhất là Tây Bắc (11,6%) và Đồng bằng sông Cửu Long (11,4%). Nhìn chung, trình độ học vấn phổ thông của lực lượng lao động ở các vùng Tây Nguyên, Tây THPT Chuyên Hùng Vương Trang 9 Chuyên đề bồi dưỡng chuyên môn năm học 2013 – 2014 lí Môn: Địa Bắc và Đồng bằng sông Cửu Long còn thấp khá nhiều so với các vùng khác, nhất là so với vùng Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ. Trình độ chuyên môn kĩ thuật của lực lượng lao động trên cả nước ngày càng được nâng cao, số người qua đào tạo ngày càng tăng, từ 12,3% năm 1996 lên 15,5% năm 2000 và đạt 25% năm 2005, tức là mỗi năm tăng thêm được 1,3% nhưng vẫn còn thấp xa so với mục tiêu 40% đến năm 2010 ghi trong Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng. Đối với lao động nữ và đối với một số vùng như Tây Bắc, Tây Nguyên tỉ lệ trên còn thấp hơn nữa. Đối với lao động đã qua đào tạo thì cơ cấu cũng chưa hợp lí. Nếu tỉ số người tốt nghiệp các cấp đào tạo theo chuẩn mực của thế giới là 1 cao đẳng, đại học/4 trung cấp chuyên nghiệp/10 đào tạo nghề, thì ở nước ta tỉ số tương ứng là 1/0,98/3,02, tạo nên tình trạng “thiếu thợ nhiều hơn thiếu thầy”. Chất lượng đào tạo như vậy còn nhiều mặt chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động, đặc biệt là ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các vùng kinh tế trọng điểm và các khu đô thị tập trung về số lượng, về cơ cấu ngành nghề cũng như kĩ năng tay nghề. Nhiều ngành, nhiều vùng còn thiếu lao động có trình độ chuyên môn cao, kĩ năng tay nghề giỏi. Nhiều doanh nghiệp còn thiếu những sinh viên tốt nghiệp loại giỏi, hội đủ các yếu tố ngoại ngữ, tin học và chuyên môn. 4. Về y tế và chăm sóc sức khoẻ Sức khoẻ là vốn quý, là điều kiện quan trọng để thực hiện các mục tiêu phát triển của mỗi quốc gia, là tương lai của mỗi dân tộc. Sức khỏe là một yếu tố cơ bản của chất lượng cuộc sống dân cư, vừa là mục đích, vừa là điều kiện của sự phát triển. Việc chăm sóc tốt sức khỏe sẽ làm tăng nguồn nhân lực về mặt số lượng nhờ kéo dài tuổi lao động. THPT Chuyên Hùng Vương Trang 10 Chuyên đề bồi dưỡng chuyên môn năm học 2013 – 2014 lí Môn: Địa Tuổi thọ trung bình của cả nước đã đạt mức cao đáng kể so với điều kiện kinh tế và mức sống hiện tại. Xu hướng tăng tuổi thọ vẫn tiếp tục diễn ra: từ 58,0 tuổi năm 1970, tăng lên 65,3 tuổi năm 1989; 68,6 tuổi năm 1999 và 71,3 tuổi năm 2005, dự kiến sẽ đạt 75 tuổi vào năm 2020. Như vậy tuổi thọ trung bình của nước ta hiện nay cao hơn 5 tuổi so với mức trung bình của thế giới, hơn 7 tuổi so với nhóm nước đang phát triển và cao hơn 3 tuổi so với toàn khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên tuổi thọ trung bình giữa các vùng có khác nhau tùy thuộc vào trình độ phát triển kinh tế và mức sống, lối sống của người dân. Những vùng phát triển như Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Hồng có tuổi thọ trung bình khá cao, trên 72 tuổi, còn những vùng Tây Bắc, Tây Nguyên có tuổi thọ trung bình thấp, dưới 65 tuổi. Tuy số lượng giường bệnh và cán bộ y tế tăng liên tục qua các năm, nhưng tính bình quân trên một vạn dân về y tá và giường bệnh không những không tăng mà còn giảm, hơn nữa lại phân bố không đồng đều giữa các vùng, khiến cho việc phòng chống bệnh tật và chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân chưa thật sự đảm bảo. So với mức bình quân đảm bảo về y tế trên một vạn dân của toàn thế giới (12,2 bác sĩ và 24,1 y tá) thì ở Việt Nam các chỉ số này mới bằng một nửa. Tình trạng thể lực chung của người Việt Nam tuy đã được cải thiện đáng kể (tuổi thọ tăng liên tục và ở mức khá cao, tỉ suất chết thấp) song tầm vóc và thể lực vẫn còn khá nhiều hạn chế. Chiều cao và trọng lượng cơ thể thấp hơn so với những người cùng lứa tuổi ở các nước, tỉ lệ người gầy còn cao. Sau 30 năm (1975 – 2005), chiều cao trung bình của thanh niên đã tăng được 4,5 – 5 cm, trọng lượng trung bình tăng được 3 – 3,5 kg, tỉ lệ người gầy và quá gầy vẫn còn chiếm tới 46%. Đó là giảm tỉ suất tử vong ở trẻ sơ sinh xuống dưới 15 năm 2010 và dưới 10 năm 2020, giảm tỉ lệ suy dinh dưỡng theo cân nặng của trẻ em dưới 5 tuổi THPT Chuyên Hùng Vương Trang 11 Chuyên đề bồi dưỡng chuyên môn năm học 2013 – 2014 lí Môn: Địa xuống dưới 20% năm 2010 và dưới 15% năm 2020, tăng chiều cao trung bình của thanh niên Việt Nam lên 1,63 cm năm 2010 và 1,65 cm năm 2020, tức là mức trung bình theo quy định của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) hiện nay. Đáng chú ý là các tệ nạn xã hội như nghiện ma tuý, nghiện rượu, đặc biệt là căn bệnh thế kỉ HIV/AIDS chưa được kiểm soát. Số người mắc bệnh trong những năm gần đây tăng lên nhanh chóng, mà chủ yếu ở lứa tuổi dưới 30. Từ ca nhiễm HIV đầu tiên được phát hiện tại Việt Nam năm 1990, sau 14 năm, đến cuối năm 2004 số người nhiễm HIV đã lên trên 84 nghìn. Tỉ lệ nhiễm HIV/AIDS gia tăng với tốc độ nhanh đã ảnh hưởng nhiều tới sức khoẻ của nhân dân, tác động xấu tới cả cộng đồng và xã hội. II. Chỉ số phát triển con người (HDI) Đây là thước đo tổng hợp về sự phát triển của con người, phản ánh mức độ đạt được những khát vọng chung của họ: có sức khoẻ dồi dào, có tri thức và có mức thu nhập cao. Chỉ số HDI đo thành tựu của mỗi quốc gia trên ba phương diện: một cuộc sống dài lâu và khoẻ mạnh được đo bằng tuổi thọ trung bình; kiến thức của dân cư được đo bằng tỉ lệ người lớn biết chữ và tỉ lệ nhập học các cấp; mức sống của con người được đo bằng tổng sản phẩm quốc nội bình quân đầu người (GDP/người), tính theo phương pháp sức mua tương đương (PPP). Từ năm 1990, HDI được công bố hằng năm để đánh giá các thành tựu phát triển con người và để Liên hợp quốc thực hiên xếp thứ hạng nước. Nhìn chung, chỉ số HDI trên toàn thế giới từ thập kỉ 90 của thế kỉ XX đến nay đã có những tiến bộ vượt bậc. Tuổi thọ trung bình tăng lên và đạt mức 67 tuổi, tỉ lệ biết chữ và tỉ lệ nhập học các cấp cũng tăng lên rõ rệt, GDP/người được cải thiện với mức tăng trung bình năm là 1%. Giá trị của HDI cũng thay đổi đáng kể, từ 0,706 năm 2000 lên 0,741 năm 2005 chung cho toàn cầu. THPT Chuyên Hùng Vương Trang 12 Chuyên đề bồi dưỡng chuyên môn năm học 2013 – 2014 lí Môn: Địa Ở nước ta các chỉ số phát triển con người có sự tiến bộ rõ rệt với ba đặc trưng nổi bật. Một là, giá trị HDI của Việt Nam tăng liên tục qua các năm, từ 0,539 năm 1992, lên 0,560 năm 1995, rồi 0,688 năm 2000 và đạt 0,709 năm 2005. Hai là, xếp hạng HDI của Việt Nam trong các nước và vùng lãnh thổ đã tăng lên từ 122/174 quốc gia năm 1992 lên 109/173 quốc gia năm 2005, trong khu vực ASEAN đã tăng từ thứ 7 lên thứ 6, ở khu vực châu Á đã tăng từ thứ 32 lên thứ 28. Ba là thứ bậc về HDI đã cao hơn thứ bậc về GDP/người tính theo PPP (hơn 9 bậc): trên thế giới tương ứng là thứ 109 so với thứ 118, trong khu vực ASEAN là thứ 6 so với thứ 7, ở châu Á là thứ 28 so với thứ 35. Điều đó chứng tỏ tăng trưởng kinh tế đã hướng vào sự phát triển xã hội, vào sự phát triển con người, phù hợp với nền kinh tế mà Việt Nam lựa chọn là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. CHÊNH LỆCH VÀ THỨ HẠNG CÁC VÙNG VỀ THU NHẬP VÀ HDI (NĂM 2005) Vùng GDP/ Thu người nhập (triệu bình đồng) quân người Xếp hạng các vùng về Chỉ số GDP/ Thu HDI HDI người nhập BQĐ (triệu N đồng) Cả nước 10,1 5,5 0,709 – – – ĐB sông Hồng 9,0 6,3 0,733 2 2 2 Đông Bắc 5,0 4,6 0,645 7 6 6 Tây Bắc 4,5 3,2 0,570 8 8 8 THPT Chuyên Hùng Vương Trang 13 Chuyên đề bồi dưỡng chuyên môn năm học 2013 – 2014 lí Môn: Địa Bắc Trung Bộ 5,9 3,8 0,665 6 7 5 DH Nam Trung 6,2 5,0 0,680 5 4 3 6,7 4,7 0,614 4 5 7 24,3 10,0 0,761 1 1 1 8,7 5,7 0,677 3 3 4 Bộ Tây Nguyên Đông Nam Bộ ĐB sông Cửu Long HDI của nước ta đạt được kết quả trên là nhờ sự đóng góp của cả ba chỉ số, trong đó chỉ số về tuổi thọ bình quân và chỉ số giáo dục đã đạt cao hơn chỉ số GDP/người. Trong báo cáo phát triển con người năm 2005 với 173 quốc gia, UNDP đưa ra kết quả là Việt Nam đứng thứ 109 với các chỉ số thu nhập là 0,54, chỉ số giáo dục là 0,82 và chỉ số tuổi thọ là 0,76. HDI của nước ta mặc dù không ngừng tăng lên, tuy nhiên so với thế giới, thứ hạng vẫn còn thấp. THPT Chuyên Hùng Vương Trang 14 |