Chiến dịch giải phóng huế và đà nẵng

- Ngày 26-3-1975, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Đảng ủy mặt trận Quảng Đà (mật danh 475), do Trung tướng Lê Trọng Tấn - Tổng tham mưu phó – làm Tư lệnh và Thượng tướng Chu Huy Mân – Tư lệnh quân khu V – làm Chính ủy, trực tiếp chỉ huy quân đoàn 2 và các lực lượng vũ trang khác ở khu V đánh chiếm căn cứ liên hợp quân sự hải lục không quân lớn thứ hai ở miền Nam là Đà Nẵng. Đến lúc này, tại Đà Nẵng, lực lượng của quân ngụy còn khoảng 75.000 tên, gồm sư đoàn 3, sư đoàn thủy quân lục chiến, tàn quân của sư đoàn 1 và 2, liên đoàn 12 biệt động quân, cùng 15 tiểu đoàn bảo an, 5.000 cảnh sát, sư đoàn 1 không quân với 373 máy bay các loại, 114 khẩu pháo, 70 xe tăng và xe bọc thép.
 

Sáng ngày 28-3-1975, bộ phận đầu não của Đặc khu ủy Quảng Đà hành quân áp sát vùng ven Đà Nẵng và quyết định phát lệnh đồng loạt tấn công và nổi dậy, chiếm thành phố vào đêm 29 rạng ngày 30-3-1975.

Ngay chiều 28, Ngô Quang Trưởng cùng Bộ tư lệnh vùng 1 chiến thuật đã bí mật chuồn ra hạm đội 7 của Mỹ đậu ở ngoài khơi, bỏ lại thành phố đang hoang mang, náo động, bất chấp lời kêu gọi “tử thủ Đà Nẵng” của Nguyễn Văn Thiệu.

Được tin Ngô Quang Trưởng cùng Bộ chỉ huy đã chuồn khỏi Đà Nẵng, ban chỉ đạo khởi nghĩa ở nội thành đã có quyết định sáng suốt và táo bạo là phát lệnh khởi nghĩa ngay trong đêm 28-3, mặt khác điện báo cho Bộ tư lệnh chiến dịch điều lực lượng vũ trang vào ngay thành phố, không chờ đến ngày 30-3 theo như kế hoạch đã dự kiến:

 

Chiến dịch giải phóng huế và đà nẵng

Quân giải phóng đánh nổ kho xăng của địch tại Đà Nẵng ngày 29-3-1975. Ảnh - PHỤNG KÝ 

Rạng sáng ngày 29-3-1975, các cánh quân chủ lực của ta theo ba hướng tiến vào thành phố. Đến 11 giờ 30 phút, biệt động thành phố và sau đó đại đội 1 của trung đoàn 96 tiếp quản Tòa Thị chính.

 

Chiến dịch giải phóng huế và đà nẵng

Lá cờ cách mạng tung bay trên nóc Tòa Thị chính, trên sở chỉ huy Quân đoàn 1 ngụy.

 

Chiến dịch giải phóng huế và đà nẵng

Cờ cách mạng tung bay trên nóc Tòa thị chính Đà Nẵng ngày 29-3-1975 - Ảnh tư liệu của Báo Đà Nẵng 

Phối hợp với lực lực lượng nổi dậy, của quần chúng chiều 29-3, bộ đội chủ lực đã vượt qua cầu Trịnh Minh Thế tiến vào cứ điểm Sơn Trà.

Đến chiều 29-3-1975, tiếng súng về cơ bản chấm dứt. Chiến dịch giải phóng thành phố lớn thứ hai ở miền Nam kết thúc thắng lợi hoàn toàn.

Ta đã tiêu diệt và làm tan rã 10 vạn quân ngụy, thu và phá hủy 69.000 súng các loại, 138 xe tăng và xe bọc thép, 115 máy bay, hàng trăm tấn vũ khí, đạn dược và phương tiện chiến tranh khác.

 

Chiến dịch giải phóng huế và đà nẵng

Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ tại cuộc Mítting mừng giải phóng QuảngNam – Đà Nẵng tại Đà Nẵng 1975

Chiến thắng của quân và dân ta trong chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng đã góp phần to lớn, và tạo điều kiện thuận lợi cho chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng Sài Gòn và cả miền Nam thân yêu kết thúc vào ngày 30-4-1975. 

Chiến dịch giải phóng huế và đà nẵng

Chiến dịch giải phóng huế và đà nẵng

Ảnh minh họa.

Sau khi mất Tây Nguyên, thế phòng thủ chiến lược của địch bị rung chuyển nghiêm trọng, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định mở chiến dịch Huế - Đà Nẵng lấy tên là "Mặt trận 475".

Ngày 21-3-1975, từ các hướng Bắc, Tây, Nam, quân ta đồng loạt tiến công, hình thành nhiều mũi bao vây địch, mở màn cuộc tiến công Huế. Đến ngày 24-3, quân ta đã bao vây chặt toàn bộ tập đoàn phòng ngự của địch ở Huế; cũng trong ngày 24-3, quân ta đập tan tuyến phòng thủ của địch ở Tam Kỳ, xoá sổ Sư đoàn 2, Liên đoàn 12 biệt động quân nguỵ, giải phóng hoàn toàn thị xã Tam Kỳ (Quảng Nam).

Sáng ngày 25-3-1975, Trung đoàn 101 Sư đoàn 325, Trung đoàn 3 Sư đoàn 324, các đơn vị của quân khu Trị - Thiên và các cánh quân của Quân đoàn 2 từ các hướng tiến về Huế. Quân ta vây kín cả 4 phía và thần tốc tiến vào trung tâm thành phố Huế. Đến 10 giờ 30 phút ngày 25-3-1975, quân giải phóng cắm cờ chiến thắng trên đỉnh Phù Văn Lâu, thành phố Huế được giải phóng.

Cùng ngày, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị, hạ quyết tâm giải phóng Sài Gòn và toàn miền Nam trước mùa mưa (tháng 5-1975), thông qua kế hoạch giải phóng Đà Nẵng và quyết định thành lập Bộ Tư lệnh mặt trận Đà Nẵng. Đồng chí Lê Trọng Tấn, Phó Tổng tham mưu trưởng, được cử làm Tư lệnh, đồng chí Chu Huy Mân, Tư lệnh Quân khu 5, được cử làm Chính ủy.

Sau khi mất Huế, lại mất Tam Kỳ (Quảng Ngãi), Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố "tử thủ" Đà Nẵng bằng mọi giá. Thiệu cho rằng sau giải phóng Huế, nếu ta muốn tiến công Đà Nẵng thì phải mất ít nhất một tháng chuẩn bị.

Nhưng chúng đã nhầm, Bộ Tổng tư lệnh với phương châm "nhanh nhất, kịp thời nhất, táo bạo nhất, nhưng chắc thắng" quyết định tập trung lực lượng tiến công vào Đà Nẵng. Sáng 29-3, các cánh quân đồng loạt tiến đánh Đà Nẵng. Đến 15 giờ ngày 29-3, quân ta chiếm lĩnh toàn bộ căn cứ liên hợp Đà Nẵng, bán đảo Sơn Trà; 17 giờ giải phóng hoàn toàn thành phố Đà Nẵng. Chiến thắng Đà Nẵng đã kết thúc thắng lợi chiến dịch Huế - Đà Nẵng.

Chiến dịch Huế - Đà Nẵng đã trực tiếp đập tan âm mưu co cụm chiến lược của địch, cùng với chiến dịch Tây Nguyên góp phần quyết định làm thay đổi hẳn so sánh lực lượng về mặt chiến lược, tạo ra sự nhảy vọt về cục diện chiến tranh hoàn toàn có lợi cho ta, đẩy nhanh tới chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.

Các tỉnh mới được giải phóng trong chiến dịch Huế - Đà Nẵng, cùng một vùng mới giải phóng ở các tỉnh Tây Nguyên đã tạo nên vùng hậu phương chiến lược hoàn chỉnh có lợi cho việc bảo đảm hậu cần, kỹ thuật, thuận tiện cho việc cơ động bằng đường bộ, đường biển, đường không nối liền với miền Bắc xã hội chủ nghĩa, hậu phương lớn của cả nước, đáp ứng kịp thời việc tăng cường lực lượng, bổ sung vật chất cho cuộc tiến công quy mô lớn vào Sài Gòn trong một thời gian ngắn nhất.   

                                                                                                                                  Thái An
                                                                                                                         (Theo Báo QĐND)

Sau đòn tiến công chiến lược mở đầu ở Tây Nguyên, với trận Buôn Ma Thuột "điểm đúng huyệt" độc đáo, ta đã làm cho địch choáng váng, rối loạn, đi từ sai lầm về mặt chiến thuật đến sai lầm về mặt chiến lược. Chúng buộc phải tháo chạy khỏi Tây Nguyên trong cảnh hoảng loạn và rệu rã; tạo bước nhảy vọt về cục diện chiến tranh, mở ra thời cơ mới để ta tiến lên thực hiện thắng lợi Quyết định của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương chuyển phương án từ thực hiện kế hoạch cơ bản sang kế hoạch thời cơ, hạ quyết tâm hoàn thành kế hoạch giải phóng miền nam trong năm 1975, xác định phương hướng chiến lược tiến công chủ yếu là Sài Gòn.

Để thực hiện quyết tâm chiến lược nêu trên, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định mở đòn tiến công chiến lược gối đầu kế tiếp Huế - Đà Nẵng nhằm giải phóng các tỉnh thuộc quyền kiểm soát của Quân khu 1 ngụy. Đòn tiến công chiến lược Huế - Đà Nẵng được hợp thành bởi ba chiến dịch: Chiến dịch Trị Thiên, Chiến dịch Nam - Ngãi, hai chiến dịch đồng thời diễn ra từ ngày 5 đến 26-3-1975 và Chiến dịch Đà Nẵng, diễn ra từ ngày 26 đến 29-3-1975.

Trên Mặt trận Trị Thiên, từ ngày 5 đến 26-3-1975, Quân đoàn 2 cùng với quân và dân Quân khu Trị Thiên đã đẩy mạnh tiến công địch trên khắp mặt trận, lần lượt giải phóng Quảng Trị (ngày 19-3-1975) và toàn bộ tỉnh Thừa Thiên (ngày 26-3). Thắng lợi giải phóng hoàn toàn Trị Thiên - Huế đã làm sụp đổ một bộ phận trọng yếu trong toàn bộ hệ thống phòng thủ chiến lược của địch ở phía bắc Hải Vân, mở toang cánh cửa án ngữ phía bắc Đà Nẵng, tạo điều kiện thuận lợi cho lực lượng của ta tiến về phía nam giải phóng Đà Nẵng và các thành phố, căn cứ khác của địch.

Trên Mặt trận Nam - Ngãi, ngày 10-3-1975, cùng thời điểm tiến công Buôn Ma Thuột, Sư đoàn 2 - Quân khu 5 tiến công giải phóng Tiên Phước, Phước Lâm, uy hiếp mạnh mẽ Tam Kỳ (Quảng Nam); đồng thời, các đơn vị lực lượng vũ trang (LLVT) địa phương tỉnh Quảng Ngãi đẩy mạnh tiến công địch ở các khu vực Trà Bồng, Bình Sơn, Sơn Tịnh, uy hiếp thị xã Quảng Ngãi, buộc địch phải căng kéo lực lượng để chống đỡ. Ngày 18-3-1975, Bộ Tổng Tư lệnh nhận định địch "đang thực hiện co cụm chiến lược lớn, có thể co cụm ở Đà Nẵng và Cam Ranh" và chỉ thị cho Khu 5 nhận rõ thời cơ mới đang xuất hiện, đẩy mạnh tiến công với tinh thần khẩn trương và táo bạo, nhanh chóng cắt đứt đường số 1, chia cắt Đà Nẵng và Tam Kỳ, tiêu diệt Sư đoàn bộ binh 2 ngụy, không cho chúng co cụm về Đà Nẵng, chuẩn bị tích cực, khẩn trương cho giải phóng Đà Nẵng.

Quán triệt chủ trương nêu trên, ngày 21-3-1975, đồng chí Võ Chí Công, Bí thư Khu ủy, Chính ủy Quân khu 5 chủ trì cuộc họp Thường vụ giao nhiệm vụ cho Đặc khu ủy Quảng Đà. Trên cơ sở phân tích diễn biến tình hình chung toàn chiến trường và nhận định khả năng giải phóng Đà Nẵng, Thường vụ Khu ủy xác định các phương án giải phóng Đà Nẵng, đồng thời chỉ thị cho Đặc khu Quảng Đà tích cực chuẩn bị mọi mặt cho giải phóng Đà Nẵng với quyết tâm: dù phương án nào cũng phải làm cho địch tan rã tại chỗ; không để địch co cụm về Sài Gòn; không để địch ép dân đi vào phía nam; bảo vệ thành phố nguyên vẹn, bảo vệ tài sản, tính mạng của nhân dân. Chủ trương nêu trên thể hiện tính chủ động, nhạy bén của Khu ủy, Quân khu ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu 5, là cơ sở quan trọng để chiến dịch giải phóng Đà Nẵng giành thắng lợi cao nhất trong thời gian ngắn nhất.

Lúc này, ở phía nam Đà Nẵng, LLVT Quân khu 5 làm nòng cốt cùng lực lượng nổi dậy của quần chúng giải phóng hoàn toàn thị xã Tam Kỳ - Quảng Nam và Quảng Ngãi (ngày 24-3); nối liền vùng giải phóng với Tây Nguyên, cánh cửa tiến vào Đà Nẵng từ hướng nam đã được mở toang. Thắng lợi này cùng với thắng lợi giải phóng Trị Thiên - Huế ở phía bắc đã cô lập hoàn toàn TP Đà Nẵng về đường bộ; Đà Nẵng lúc này như một ốc đảo trơ trọi nằm giữa vùng giải phóng của ta, chỉ còn có thể liên hệ với Sài Gòn bằng đường không và đường thủy.

Ngày 25-3, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh, trên cơ sở nhận định: Sau khi mất Huế, Tam Kỳ, Quảng Ngãi, Chu Lai, địch dù có muốn giữ Đà Nẵng cũng không thể được, quyết định mở đòn tiến công Đà Nẵng với tư tưởng chỉ đạo kịp thời nhất, nhanh chóng nhất, táo bạo nhất, bất ngờ nhất và chắc thắng và chỉ thị cho Quân đoàn 2 và Khu 5: hành động táo bạo, bất ngờ, làm cho địch không kịp trở tay, tập trung lực lượng tiêu diệt sinh lực lớn quân địch ở Đà Nẵng, giành thắng lợi quyết định, tạo đà cho trận quyết chiến chiến lược tiếp theo. Để có sự thống nhất về tổ chức lãnh đạo, chỉ huy trận đánh quan trọng này, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Bộ Tư lệnh Mặt trận Quảng Đà (mật danh Mặt trận 475), gồm các đồng chí Trung tướng Lê Trọng Tấn làm Tư lệnh, Thượng tướng Chu Huy Mân làm Chính ủy.

Tại thời điểm này, lực lượng địch ở khu vực Đà Nẵng tập trung gần 100 nghìn tên gồm các lực lượng tại chỗ và tàn binh các nơi dồn về. Mặc dù bị quân ta vây chặt, tinh thần của sĩ quan và binh lính địch hoang mang tột độ, nhưng các tướng tá của quân đội Mỹ và Sài Gòn vẫn cho rằng: muốn tiến công vào Đà Nẵng, đối phương phải có thời gian ít nhất là một tháng để chuẩn bị. Do vậy, chủ trương của địch là "tử thủ Đà Nẵng và di tản dần nhằm bảo toàn lực lượng, co về giữ vững đồng bằng cực Nam Trung Bộ và Nam Bộ".

Trên cơ sở thế trận chiến lược đã mở ra, Bộ Tư lệnh Mặt trận 475 đã xác định quyết tâm: đánh tiêu diệt và làm tan rã toàn bộ quân địch ở Đà Nẵng, nhanh chóng tiến công, không cho địch có thời cơ co cụm cố thủ; trường hợp địch cố thủ, phải đột phá nhanh, không cho chúng rút về Sài Gòn; phương châm tác chiến đã xác định là: "Kịp thời nhất, nhanh chóng nhất, táo bạo nhất, nhưng chắc thắng".

Thực hiện quyết tâm chiến dịch, Bộ Tư lệnh quyết định sử dụng Quân đoàn 2 tiến công từ hướng bắc và tây bắc; Sư đoàn 304 (thiếu Trung đoàn 9) tiến công từ hướng tây nam; LLVT Quân khu 5, chủ yếu là Sư đoàn 2 tăng cường các đơn vị bộ binh, binh chủng của Quân khu cùng bộ đội địa phương Quảng Đà tiến công từ hướng nam, đông nam và lực lượng tại chỗ của TP Đà Nẵng.

Trên hướng đảm nhiệm, Quân khu 5 sử dụng Sư đoàn 2, có Trung đoàn 1 và Trung đoàn 36 đánh trên hướng chủ yếu, tiến theo trục đường quốc lộ chiếm sân bay Đà Nẵng, khu vực Bộ Tư lệnh Quân đoàn 1 địch rồi phát triển vào TP Đà Nẵng; Trung đoàn 38 đánh trên hướng phối hợp, diệt căn cứ núi Quế, Đá Đen, mở đường cho các đơn vị thọc sâu, sau đó tiến về phía đông phối hợp với Trung đoàn 96 Quảng Đà đánh chiếm quận Ba và bán đảo Sơn Trà. Toàn bộ lực lượng còn lại của Quảng Đà hình thành mũi thọc sâu áp sát thành phố, sẵn sàng phối hợp cùng chủ lực khi thời cơ đến; các đại đội bộ đội địa phương tại chỗ và biệt động thành Đà Nẵng có nhiệm vụ hỗ trợ cho lực lượng chính trị của quần chúng nổi dậy giành quyền làm chủ, đồng thời tham gia đánh chiếm các mục tiêu quan trọng trong nội đô.

Mọi công tác chuẩn bị tổ chức chiến đấu tiến công địch trong hành tiến, thời gian gấp, từ thống nhất chủ trương, hợp đồng quân binh chủng, động viên quyết tâm đến công tác bảo đảm đều chỉ đạo qua điện đài. Theo đúng kế hoạch, 5 giờ 30 phút ngày 28-3, pháo binh ta bắn phá, chế áp các mục tiêu trong thành phố, hỗ trợ cho các lực lượng trên các hướng tiến công vào Đà Nẵng. Đúng 7 giờ ngày 29-3, quân ta từ 4 hướng đồng loạt tiến công phá vỡ tuyến phòng thủ vòng ngoài của địch, kết hợp với thọc sâu và nổi dậy, lần lượt đánh chiếm các mục tiêu quan trọng trong thành phố. Quân ta đã cắm cờ trên nóc tòa nhà Thị chính (11 giờ 30 phút), Trung tâm Chỉ huy Quân đoàn 1 - Quân khu 1 ngụy (12 giờ), đến 15 giờ cùng ngày, ta hoàn toàn làm chủ TP Đà Nẵng.

Đòn tiến công chiến lược Huế - Đà Nẵng giành thắng lợi rực rỡ; ta tiêu diệt, làm tan rã gần 10 nghìn tên địch, xóa sổ Quân đoàn 1 - Quân khu 1 với ba sư đoàn bộ binh và lính thủy đánh bộ thiện chiến, một sư đoàn không quân chiến lược và các lực lượng khác; phá hủy và thu toàn bộ vũ khí, trang bị, phương tiện chiến tranh của địch; trực tiếp đập tan ý định co cụm chiến lược của địch, đẩy quân địch vào thế liên tiếp thất bại, mất dần các địa bàn chiến lược, thế phòng thủ chiến lược bị đảo lộn; trên chiến trường, tương quan so sánh lực lượng chiến lược giữa hai bên và cục diện chiến tranh đã có sự thay đổi đột biến với lợi thế nghiêng hẳn về ta; giáng một đòn chí tử, làm lung lay tận gốc chính quyền và quân đội Sài Gòn, đẩy chúng đến bên bờ vực sụp đổ không thể cứu vãn.

Trên đà chiến thắng, quân và dân Khu 5 tiếp tục tiến công giải phóng phần đất còn lại các tỉnh Khu 5, Khu 6, Quần đảo Trường Sa, vùng giải phóng Khu 5 được mở rộng, nối liền với hậu phương lớn miền bắc xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thuận tiện cho việc cơ động bằng đường bộ, đường biển, đường không, đáp ứng kịp thời yêu cầu tăng cường lực lượng, bổ sung vật chất cho cuộc tiến công quy mô lớn vào Sài Gòn trong thời gian ngắn nhất.

Giải phóng Đà Nẵng, quân và dân ta đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà Bộ Chính trị đề ra cho đòn tiến công chiến lược thứ hai; làm cho Mỹ - ngụy kinh hoàng, hoảng loạn. Thắng lợi đã thể hiện sự nắm bắt và chỉ đạo kịp thời của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, sự thống nhất về tư tưởng và hành động từ cấp chiến lược, chiến dịch đến cấp chiến thuật, sự trưởng thành lớn mạnh của lực lượng vũ trang ba thứ quân, sự phát triển chiến tranh nhân dân đến đỉnh cao; là cơ sở quan trọng để Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương khẳng định quyết tâm chỉ đạo đòn chiến lược thứ ba, tiến công giải phóng Sài Gòn, sào huyệt cuối cùng của địch bằng Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, hoàn thành kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền nam trước mùa mưa.

Thắng lợi đòn tiến công giải phóng Đà Nẵng đã mở ra thời cơ mới, thế và lực của ta vững chắc hơn, mạnh hơn bao giờ hết để lực lượng vũ trang Quân khu 5 và đại quân "Thần tốc, thần tốc hơn nữa" tiến về Sài Gòn hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền nam, thống nhất đất nước.

Thiếu tướng TRẦN QUANG PHƯƠNG

Chính ủy Quân khu 5