Chính sách đối ngoại của Nhật Bản cuối thế ký 19 đầu thế ký 20 là
Trong bài viết “Shinzo Abe Shinzo: Người khổng lồ rời bỏ chính trường Nhật Bản” của Giáo sư Rajaram Panda - nghiên cứu viên Hạ viện Ấn Độ, nguyên nghiên cứu viên cao cấp Viện Nghiên cứu và phân tích quốc phòng IDSA đã chỉ ra rằng, trong chính sách của Thủ tướng Shinzo Abe, quan hệ Nhật Bản - Việt Nam đã được đưa lên hàng đầu, trong khi quan hệ Ấn Độ và Nhật Bản được mở rộng lên một tầm cao mới.
Những thăng trầm Về đối nội, các biện pháp chính sách kinh tế của ông Shinzo Abe được gọi là Abenomics, một chiến lược kinh tế bao gồm sự kết hợp giữa nới lỏng định lượng, kích thích tài khóa thông qua chi tiêu chính phủ và cải cách cơ cấu đã mang lại kết quả đáng khích lệ. Như đưa nền kinh tế lớn thứ ba thế giới thoát khỏi vòng xoáy giảm phát và tăng trưởng liên tục trong 71 tháng liên tiếp, tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống mức thấp nhất trong 26 năm qua… Trong thời gian Thủ tướng Shinzo Abe nắm quyền, chỉ số Nikkei 225 đã tăng gấp đôi, từ 10.000 điểm vào tháng 12/2012 lên hơn 20.000 điểm. Điều này phản ánh niềm tin của các nhà đầu tư vào các chính sách kinh tế của Chính phủ Nhật Bản. Tuy nhiên, kể từ giữa năm 2018 đến nay, đà tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản bắt đầu có dấu hiệu chững lại. Và đến tháng 10/2018, thời kỳ tăng trưởng liên tục dài thứ hai trong thời hậu chiến đã kết thúc.
Kể từ đầu năm nay, nền kinh tế đã rơi vào suy thoái do tác động của dịch COVID-19 và cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung cùng các chính sách bảo hộ của Tổng thống Mỹ Donald Trump. Ngoài ra, quyết định tăng thuế tiêu dùng hai lần vào năm 2014 và 2019 cũng đã ảnh hưởng đáng kể đến sức tiêu dùng nội địa. Những điều này dẫn đến việc Abenomics mất đi động lực khi mọi người bắt đầu nghi ngờ sự thiếu cam kết đối với cải cách cơ cấu. Sự bùng phát của đại dịch COVID-19 tiếp tục dẫn đến sự suy giảm sức khỏe nền kinh tế Nhật Bản, cản trở sự phục hồi của quốc gia này, bất chấp gói kích thích kinh tế khổng lồ của chính phủ. Nhiệm kỳ thứ hai của ông Shinzo Abe cũng chứng kiến những vụ bê bối liên quan tới một số bộ trưởng trong nội các, trong đó đáng chú ý là nghi án mua phiếu bầu trong cuộc bầu cử Thượng viện vào tháng 7/2019 của vợ chồng cựu Bộ trưởng Tư pháp Katsuyuki Kawai và vụ bắt giữ Hạ nghị sỹ Tsukasa Akimoto của LDP với cáo buộc nhận hối lộ từ một doanh nghiệp Trung Quốc. Song ông Shinzo Abe đã vượt qua nhiều cuộc bỏ phiếu tín nhiệm. Dù không thể sửa đổi Điều 9 của Hiến pháp, ông Shinzo Abe đã đạt được một số mục tiêu của mình khi vào năm 2015 thông qua luật an ninh gây tranh cãi cho phép quân đội Nhật Bản tham gia các nhiệm vụ chiến đấu ở nước ngoài cùng với các lực lượng đồng minh, như một phần của lực lượng tự vệ tập thể. Đây được coi là bước ngoặt quan trọng trong chính sách an ninh của Nhật Bản thời hậu chiến. Theo một báo cáo năm 2019 của Goldman Sachs, việc trao quyền cho phụ nữ và đưa họ vào lực lượng lao động, được gọi là Womenomics, đã dẫn đến “sự tham gia kỷ lục của lao động nữ (71%), vượt qua Mỹ và châu Âu, trợ cấp nghỉ phép hậu hĩnh, cải thiện tính minh bạch về giới, và cải cách lao động”. Tuy nhiên, báo cáo cũng cho thấy một số thiếu hụt và ghi nhận “tình trạng thiếu lãnh đạo nữ, chênh lệch lương theo giới, hợp đồng lao động không linh hoạt, ưu đãi thuế, thiếu năng lực chăm sóc và thành kiến vô thức”. Những vấn đề trên đã không được giải quyết đầy đủ trong các chính sách của Thủ tướng Shinzo Abe. Hơn nữa, một số ít thành viên nội các và chỉ 10% phụ nữ tại Hạ viện cho thấy tình trạng bất bình đẳng giới vẫn tiếp diễn. Về chính sách đối ngoại, một lần nữa các kết quả lại trái ngược nhau. Ông Shinzo Abe xây dựng quan hệ cá nhân rất tốt với Tổng thống Donald Trump và củng cố quan hệ đồng minh chiến lược với Mỹ, bất chấp việc Tổng thống Mỹ đã cố gắng rút sự hiện diện khỏi Nhật Bản để buộc nước này chia sẻ một phần lớn hơn gánh nặng an ninh. Những nỗ lực của Thủ tướng Shinzo Abe nhằm tăng cường quan hệ với Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và Ấn Độ là rất đáng khen ngợi. Quan hệ Nhật Bản - Việt Nam đã được đưa lên hàng đầu, trong khi quan hệ Ấn Độ và Nhật Bản được mở rộng lên một tầm cao mới. Hoạt động thương mại, đầu tư, liên doanh, liên kết, hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) giữa Nhật Bản và Ấn Độ đều ghi nhận tăng trưởng, trong khi hợp tác quốc phòng song phương trở nên rất sâu sắc... Ai sẽ lấp khoảng trống chính trị? Trong thời gian tạm thời, một ứng cử viên đồng thuận của đảng LDP sẽ được chọn để lãnh đạo chính phủ cho đến khi LDP tổ chức bầu cử lãnh đạo. Nhiệm kỳ của Thủ tướng Shinzo Abe sẽ kết thúc vào tháng 9-2021. Cho đến thời điểm này, có 3 ứng cử viên hàng đầu thay thế Thủ tướng Shinzo Abe gồm Chánh Văn phòng Nội các Yoshihide Suga; cựu Bộ trưởng Ngoại giao Fumio Kishida, người đang giữ chức Chủ tịch Hội đồng Nghiên cứu Chính sách LDP; và cựu Bộ trưởng Quốc phòng Shigeru Ishiba, người đã từng giữ chức Tổng Thư ký LDP. Trong số những gương mặt sáng giá này, ứng cử viên Yoshihide Suga hiện được cho là có lợi thế khi có tới 5 phái trong đảng ủng hộ, ngoài ra còn có hơn 30 nghị sĩ không thuộc phái nào cũng ủng hộ. Với chính sách sẽ ưu tiên cho việc phát triển địa phương, ông có thể sẽ được nhận nhiều ủng hộ từ các địa phương. Chưa hết, ông cũng là ứng cử viên được công chúng ủng hộ nhiều nhất cho vị trí Thủ tướng tiếp theo của Nhật Bản. Kết quả thăm dò dư luận của nhật báo Asahi Shimbun được công bố hôm 4-9 thể hiện tỷ lệ ủng hộ ông Yoshihide Suga tăng nhanh chóng sau khi ứng cử viên tiềm năng này giành được sự ủng hộ từ một số phe phái chính trong LDP. Hiện ông đang dẫn đầu với tỷ lệ ủng hộ là 38% (so với mức 3% trong tháng 6), ông Shigeru Ishiba đứng thứ hai với tỷ lệ 25% và cuối cùng là ông Fumio Kishida với tỷ lệ 5%. Trong khi đó, hai ứng cử viên còn lại cũng đang tích cực vận động sự ủng hộ và diễn thuyết liên quan đến những chính sách nổi bật. Cuộc bầu cử lần này không chỉ là bầu ra Tân Thủ tướng cho 1 năm còn lại trong nhiệm kỳ của Thủ tướng Shinzo Abe, mà còn quyết định uy tín cho việc tái ứng cử vào chức Thủ tướng cho những nhiệm kỳ tiếp theo. Về mặt chính sách, ông Yoshihide Suga cam kết sẽ kế thừa chính sách của Thủ tướng Shinzo Abe đã thực hiện trước đó, đồng thời đặt trọng tâm vào việc cải cách chính quyền Trung ương, phát triển khu vực địa phương. Trong khi đó, ông Shigeru Ishiba chủ trương tạo ra nền chính trị thấu hiểu và đồng cảm mà cụ thể sẽ chuyển đổi sang nền kinh tế chủ đạo là đáp ứng nhu cầu trong nước. Riêng ông Fumio Kishida thì đưa ra chính sách nỗ lực xóa bỏ khoảng cách kinh tế trong xã hội. Theo dự kiến, vào ngày 14/9 tới, LDP sẽ tổ chức bỏ phiếu để bầu ra chủ tịch mới, người sau đó sẽ được Quốc hội bầu để giữ chức thủ tướng. Khổng Hà (tổng hợp) Bởi Daniel I. Block Giới thiệu về cuốn sách này Page 2Bởi Daniel I. Block Giới thiệu về cuốn sách này Ngoại giao văn hóa từ lâu được coi là “sức mạnh mềm” hay “quyền lực mềm”, giữ một vị trí quan trọng trong chính sách đối ngoại của nhiều quốc gia, là một trong những phương tiện góp phần bảo vệ an ninh, nâng cao hình ảnh, tăng cường ảnh hưởng chính trị của quốc gia đối với quốc tế.
Vậy thông qua ngoại giao văn hóa, thế giới có ấn tượng gì với Nhật Bản? Trong quá khứ Nhật Bản đã triển khai những hoạt động ngoại giao văn hóa như thế nào và đã để lại dấu ấn gì trong lòng cộng đồng quốc tế? Bài viết là những sưu tầm và tổng hợp về ngoại giao văn hóa Nhật Bản từ sau Chiến tranh Thế giới lần II. 1. Giai đoạn từ 1950 đến đầu những năm 1960 Sau Chiến tranh Thế giới lần II, là nước bại trận, Nhật Bản lâm vào tình trạng suy thoái và khủng hoảng trầm trọng. Chính sách ngoại giao văn hóa Nhật Bản ở giai đoạn này là biến đổi hình ảnh một quốc gia quân sự thành một quốc gia yêu chuộng hoà bình và dân chủ. Bước đầu tiên thể hiện sự nỗ lực của Nhật Bản là việc nước Nhật tham gia tổ chức UNESCO vào năm 1951. Trong các hoạt động văn hóa ở nước ngoài, Chính phủ Nhật Bản nhấn mạnh đến văn hóa truyền thống như trà đạo và Ikebana (nghệ thuật cắm hoa). Đa số các tờ rơi, tài liệu quảng cáo về Nhật Bản trong thời gian này thường in hình ảnh của hoa anh đào và núi Phú Sĩ phủ tuyết trắng - đem lại một khoảng lặng bình yên, thanh thản cho người đối diện, để lại ấn tượng về một nước Nhật có thiên nhiên tươi đẹp, yêu chuộng hòa bình với cộng đồng quốc tế. Cũng trong giai đoạn này, Bộ Ngoại giao Nhật Bản bắt đầu phát lịch Ikebana cho người dân và các tổ chức ở các nước. Hoạt động này vẫn được tiếp tục cho đến ngày nay. Trong thời gian này, các hoạt động văn hóa ở nước ngoài thường tránh những gì liên quan tới samurai và tinh thần samurai (là một bộ phận của tầng lớp võ sĩ Nhật Bản), bởi nó có thể gợi đến hình ảnh một nước Nhật phát xít. Ảnh minh họa. Nguồn: japan.net.vn 2. Giai đoạn từ cuối những năm 1960 và đầu những năm 1970 Bắt đầu từ những năm 1960, đặc biệt là sau Thế vận hội Tokyo năm 1964, hoạt động ngoại giao văn hóa Nhật Bản đã chuyển từ việc nhấn mạnh hình ảnh của một Nhật Bản yêu chuộng hòa bình sang hình ảnh một đất nước có nền kinh tế tiên tiến. Trong giai đoạn này, nền kinh tế Nhật Bản đang từng bước hồi phục và phát triển, nhưng việc xuất khẩu sản phẩm của Nhật Bản gặp phải rất nhiều khó khăn như cáo buộc Hàng hóa Nhật Bản làm rối loạn thị trường; Nhật Bản bán phá giá và sản phẩm của Nhật Bản là những sản phẩm “giá rẻ”…, đặc biệt là phản ứng của Mỹ và các nước châu Âu. Để chống lại những chỉ trích này, chính sách ngoại giao văn hóa có nhiệm vụ quảng bá được hình ảnh một Nhật Bản mới mẻ có một nền kinh tế phát triển và có một nền công nghệ tiên tiến. Có thể nói, trong cuối những năm 1960 và 1970, Nhật Bản đã triển khai ngoại giao văn hóa tích cực hơn, có “phản ứng” hơn trong việc xua tan hình ảnh quốc gia quân sự trước chiến tranh và “phản ứng” đối với việc xóa đi hình ảnh "tiêu cực" của kinh tế Nhật Bản. Bên cạnh đó, bắt đầu từ giai đoạn này đã xuất hiện những nét mới trong ngoại giao văn hóa Nhật Bản, đó là mọi hoạt động ngoại giao của Nhật Bản đều như của một thành viên có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế. Xu hướng này được phản ánh trong việc Nhật Bản tăng cường các hoạt động văn hóa ở nước ngoài. Nhật Bản đã rất nỗ lực để xây dựng các văn phòng và các trung tâm văn hóa của ở các nước. Ví dụ như: việc thành lập các trung tâm văn hóa và thông tin trực thuộc các đại sứ quán; Thành lập Hiệp hội tiếng Nhật cho người nước ngoài vào năm 1962 và ký kết một loạt các thỏa thuận trao đổi văn hóa với các nước (với Nam Tư năm 1969 và với Trung Quốc năm 1979). Thời kỳ này, Nhật Bản cũng đẩy mạnh việc giới thiệu Kabuki và Noh - Hai môn nghệ thuật biểu diễn truyền thống ra cộng đồng thế giới. Vào năm 1972, Quỹ Giao lưu văn hóa quốc tế Nhật Bản được thành lập với nguồn vốn 20 tỷ yên (sau này tăng lên 50 tỷ yên), hoạt động chủ yếu của Quỹ là: (1) hỗ trợ cho giáo dục tiếng Nhật ở nước ngoài; (2) giao lưu văn hóa, bao gồm trao đổi giữa các nghệ sĩ và nhạc sĩ, (3) khuyến khích nghiên cứu Nhật Bản ở nước ngoài. Việc thành lập Quỹ Giao Lưu Văn hóa Nhật Bản là một minh chứng cho việc tăng cường hoạt động ngoại giao văn hóa của Chính phủ Nhật Bản. Ảnh minh họa. Nguồn: japan.net.vn 3. Giai đoạn từ năm 1980 đến những năm đầu thập niên 1990 Giai đoạn cuối những năm 1980 đến đầu 1990 là giai đoạn nền kinh tế Nhật Bản ở đỉnh cao của sự phát triển, vị thế của Nhật Bản trên trường quốc tế cũng nhờ đó mà tăng lên. Cộng đồng quốc tế kỳ vọng nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới đóng góp nhiều hơn trong vai trò là một đối tác chịu trách nhiệm với cộng đồng. Lần đầu tiên, chính sách ngoại giao văn hóa được nhìn nhận là một trong "ba trụ cột" của chính sách đối ngoại của Nhật Bản. Nhật Bản đã là đất nước đứng đầu trong việc đóng góp cho các hoạt động gìn giữ hòa bình và các hoạt động tương tự; là quốc gia đứng thứ hai về hỗ trợ phát triển chính thức và viện trợ kinh tế. Ảnh minh họa. Nguồn: gag-japan.co.jp Thu Hiền lược dịch (Nguồn: Kazuoka Ogoura.I) |