Có nền khuyến khích các nhà tư bản phát triển ở Việt Nam hiện nay

Nghị quyết Đại hội XII, Nghị quyết Trung ương 5 khóa XII của Đảng là chủ trương, chính sách lớn tạo điều kiện để kinh tế tư nhân (KTTN) phát triển. Vai trò, vị trí của KTTN ngày càng được nhận thức đúng đắn, phù hợp điều kiện thực tiễn, là động lực phát triển nền kinh tế.

Tuy nhiên, các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị không ngừng xuyên tạc đường lối phát triển đối với KTTN; đồng thời có nhận thức chưa đầy đủ về thành phần kinh tế có vai trò đặc biệt quan trọng này.

Dựa vào đường lối của Đảng về phát triển thành phần KTTN, trong thời gian vừa qua có những luận điệu cho rằng: “Việt Nam đang phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa, ở Việt Nam hiện nay chủ nghĩa tư bản (CNTB) đang diễn ra một cách cuồng nhiệt”, phát triển KTTN là quay lại phát triển theo tư bản chủ nghĩa, mở đường cho “tư nhân hóa” lũng đoạn ở Việt Nam… 

Với những luận điệu như vậy, các thế lực thù địch ra sức xuyên tạc, trung tâm truyền thông nhiệt tình “tiền hô, hậu ủng”, mạnh mẽ tuyên truyền, nhằm phá hoại thực tiễn xây dựng và thành quả vĩ đại của cách mạng Việt Nam cũng như thành tựu có ý nghĩa lịch sử trong hơn 30 năm đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở nước ta.

Trước hết, có thể thấy rằng, không phải bây giờ mà từ khi đổi mới, phát triển KTTN là một vấn đề mang tính chiến lược lâu dài được Đảng và Nhà nước khẳng định, từng bước phát triển, hoàn thiện tư duy lý luận và thực tiễn trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về vị trí, vai trò của KTTN có một quá trình hình thành và phát triển lâu dài, được bổ sung và hoàn thiện qua mỗi giai đoạn phát triển kinh tế đất nước.

Ngay từ năm 1986, khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, nền kinh tế nhiều thành phần chính thức được thừa nhận. Đại hội VI (12/1986) khẳng định, cần sửa đổi, bổ sung và công bố rộng rãi chính sách nhất quán đối với các thành phần kinh tế. 

Ngày 5-4-1988, Bộ Chính trị khóa VI ban hành Nghị quyết số10-NQ/TW về “Chính sách kinh tế nhiều thành phần” tiếp tục khẳng định, nhất quán thực hiện và tạo bước khởi đầu quan trọng đối với KTTN ở Việt Nam, mở đường cho những bước đột phá sau này. 

Văn kiện Đại hội VII khẳng định: KTTN được phát triển, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất, theo sự quản lý, hướng dẫn của Nhà nước và mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật, được bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp. 

Văn kiện Đại hội VIII (tháng 6-1996) xác định, khuyến khích mọi doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài nước khai thác các tiềm năng, ra sức đầu tư phát triển; đối xử bình đẳng với mọi thành phần kinh tế trước pháp luật, không phân biệt sở hữu và hình thức tổ chức kinh doanh, đồng thời tạo điều kiện kinh tế và pháp lý thuận lợi để các nhà kinh doanh tư nhân yên tâm đầu tư làm ăn lâu dài. 

Năm 2002, Hội nghị lần thứ năm, khóa IX thông qua Nghị quyết “Về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích, tạo điều kiện phát triển KTTN” đây là lần đầu tiên Đảng ta có một Nghị quyết chuyên đề về KTTN.

Với nhận thức về vị trí, vai trò quan trọng đặc biệt và ý nghĩa chiến lược phát triển KTTN trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Đại hội XI (tháng 1-2011), Đảng tiếp tục xác định chủ trương là phải hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển KTTN trở thành một trong những động lực của nền kinh tế. 

Đại hội XII (tháng 12-2016), Hội nghị Trung ương 5 khóa XII đã phát triển lý luận, chính thức xác nhận: Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh KTTN ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế. Đây là sự khẳng định mạnh mẽ, dứt khoát hơn quan điểm của Đảng khi coi KTTN là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Như vậy, nhận thức về vị trí, vai trò của KTTN đã có những bước tiến quan trọng, ngày càng tích cực, đầy đủ hơn.

Xét về cơ sở lý luận, thành phần kinh tế được hình thành trên hình thức sở hữu tương ứng. Cơ sở của KTTN xuất phát từ hình thức sở hữu tư nhân. Trong lịch sử, sở hữu tư nhân xuất hiện ngay từ khi phương thức sản xuất Cộng sản nguyên thủy tan dã và xã hội Chiếm hữu nô lệ ra đời. 

Do vậy, sở hữu tư nhân, KTTN manh nha ra đời từ rất sớm và là khái niệm không đồng nhất với CNTB. CNTB có đặc trưng gắn liền với sở hữu và kinh tế tư bản tư tư nhân. Do vậy, luận điệu cho rằng phát triển KTTN ở Việt Nam để khẳng định Việt Nam đang phát triển theo con đường TBCN, ở Việt Nam hiện nay CNTB đang diễn ra một cách cuồng nhiệt”, “phát triển KTTN là quay lại phát triển theo tư bản chủ nghĩa”, “tư nhân hóa” nền kinh tế…là hoàn toàn không có cơ sở khoa học, mang tính suy diễn, xuyên tạc, để “diễn biến” đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước; cố tình làm nhận thức sai lệch, hướng lái kinh tế đi theo quỹ đạo, chệch hướng XHCN.

Phát triển KTTN lành mạnh theo cơ chế thị trường là một yêu cầu khách quan, vừa cấp thiết, vừa lâu dài trong quá trình hoàn thiện thể chế, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam; là phương sách quan trọng để giải phóng sức sản xuất; huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển. Để KTTN là động lực phát triển nền kinh tế cần thống nhất về mặt nhận thức quan điểm Đảng và Nhà nước những vấn đề sau đây:

Một là, KTTN là một động lực quan trọng để phát triển kinh tế. Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể cùng với KTTN là nòng cốt để phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ. Khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để KTTN phát triển nhanh, bền vững, đa dạng với tốc độ tăng trưởng cao.

Hai là, xóa bỏ mọi rào cản, định kiến, tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển KTTN lành mạnh và đúng định hướng. Phát huy mặt tích cực, có lợi cho đất nước của KTTN, đồng thời tăng cường kiểm tra, thanh tra, giám sát, kiểm soát, thực hiện công khai, minh bạch ngăn chặn, hạn chế mặt tiêu cực, nhất là phòng, chống mọi biểu hiện “chủ nghĩa tư bản thân hữu”, “quan hệ, lợi ích nhóm”, thao túng chính sách, cạnh tranh không lành mạnh để trục lợi.

Ba là, KTTN được phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực pháp luật không cấm. Phát huy phong trào khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo; nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tạo môi trường điều kiện thuận lợi để các hộ kinh doanh tự nguyện liên kết hình thành các hình thức tổ chức hợp tác hoặc hoạt động theo mô hình doanh nghiệp. Khuyến khích các hình thức các tập đoàn KTTN đa sở hữu và tư nhân góp vốn và các tập đoàn kinh tế nhà nước.

Bốn là, khuyến khích KTTN tham gia góp vốn, cổ phần của các doanh nghiệp nhà nước khi cổ phần hóa hoặc Nhà nước thoái vốn. Thúc đẩy phát triển mọi hình thức liên kết sản xuất, kinh doanh, cung cấp hàng hóa, dịch vụ theo mạng sản xuất, chuỗi giá trị thị trường giữa KTTN với các thành phần kinh tế khác, nhằm tiếp nhận, chuyển giao, tạo sự lan tỏa rộng rãi về công nghệ tiên tiến và quản trị hiện đại, mở rộng thị trường.

Năm là, chăm lo bồi dưỡng, giáo dục, nâng cao nhận thức chính trị, tinh thần tự lực, tự cường, lòng yêu nước, tự hào, tự tôn dân tộc, gắn bó với lợi ích của đất nước và sự nghiệp xây dựng CNXH của các chủ doanh nghiệp. Phát triển đội ngũ Doanh nhân Việt Nam ngày càng vững mạnh, có ý thức chấp hành phát luật, trách nhiệm với xã hội và kỹ năng lãnh đạo, quản lý, xây dựng văn hóa doanh nghiệp, đạo đức Doanh nhân. 


TS Lê Thế Cương (Học viện Chính trị CAND)

  • Tô Nam
  • Gửi tới BBC từ Hoa Kỳ

Dù muốn gọi tên hay không, kể từ khi mở cửa nền kinh tế những năm 1990 thành một nền kinh tế thị trường và dù vẫn còn mang nhiều tính định hướng, Việt Nam đã và đang nhìn càng giống một nền kinh tế tư bản, nơi mà tài sản và các tư liệu sản xuất tập trung vào tay một nhóm cá nhân – hay còn gọi là những nhà tư bản, chứ không còn sở hữu bởi nhà nước hay toàn dân như những tuyên truyền và thực tiễn trước đây.

Những nhà tư bản này tạo ra các định chế kinh tế, các công ty và tập đoàn để vận dụng những nguồn nhân lực và tài nguyên của xã hội để đầu tư kinh doanh, phát triển kinh tế, tạo ra của cải vật chất, gây dựng cơ nghiệp cho chính bản thân họ và góp phần làm giàu cho quốc gia.

Tuy nhiên, phần lớn các nhà tư bản ở Việt Nam hôm nay là những nhà tư bản đỏ, những người tận dụng những mối quan hệ, quyền lực chính trị, và những cơ hội buổi giao thời để làm giàu.

Điều này là tất yếu và không có gì đáng ngạc nhiên cho một nền kinh tế vẫn đang chuyển biến và trong quá trình định hình.

Tuy nhiên, để Việt Nam có thể trở thành một nền kinh tế cởi mở và có khả năng cạnh tranh cao trong thị trường thế giới, chúng ta cần phải tạo điều kiện để xây dựng một thế hệ các nhà tư bản mới dám nghĩ, dám làm, dám đi lên bằng chính đôi chân mình để trưởng thành, để cạnh tranh, và sánh vai với các cường quốc năm châu như Hồ Chí Minh đã từng nói, chứ không thể phụ thuộc vào những quyền lực đỏ.

Nước Mỹ đã làm rất tốt điều này, và với chuyến đi của ông Nguyễn Phú Trọng đến thăm Nhà Trắng vừa qua, thiết nghĩ có nhiều điều chúng ta nên học hỏi – cụ thể là làm thế nào để có nhiều hơn những nhà tư bản lập nghiệp từ hai bàn tay trắng như phần nhiều tên tuổi tỉ phú Mỹ như Steve Jobs hay Mark Zuckerberg mà người Việt cũng rất quen thuộc?

Nhìn vào môi trường kinh doanh hiện nay, chính phủ hiện chưa có nhiều chính sách trợ giúp cho các doanh nghiệp trong nước so với các nhà đầu tư nước ngoài.

Nếu như nguồn vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI), vốn đã rất mạnh mẽ về tài chính, được hưởng một loạt các ưu đãi như 10 năm miễn thuế thu nhập doanh nghiệp, được giao hoặc mua đất giá rẻ để phát triển kinh doanh, sản xuất, đặt nhà máy, thì trong cùng một ngành nghề kinh tế, các nhà tư bản trong nước ngay lập tức đã không thể cạnh tranh với các dự án FDI khi họ không có nguồn vốn giá rẻ, phải đóng thuế thu nhập doanh nghiệp ngay từ năm đầu tiên sản xuất kinh doanh, và phải trả giá cao để có thể mua đất xây dựng nhà máy, xí nghiệp.

Không thể phủ nhận tầm quan trọng của nguồn vốn FDI trong ngắn hạn cho nền kinh tế, khi dòng tiền đầu tư nước ngoài này có thể tạo ra những hiệu ứng tức thời như công ăn việc làm cho hàng chục ngàn lao động, chuyển giao công nghệ, xây dựng cơ sở hạ tầng, và đóng góp cho GDP.

Nhà máy và những dự án hàng chục tỉ đô la của Samsung mới vào Việt Nam là một ví dụ điển hình cho những lợi ích này.

Tuy nhiên, phải nhớ rằng, phụ thuộc vào FDI trong ngắn hạn đồng nghĩa với giảm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp nội địa trong dài hạn.

Một điều quan trọng khác là dòng tiền lợi tức từ FDI sẽ chảy ngược lại các chủ sở hữu nước ngoài như các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán New York và Seoul chứ không nằm lại trong nền kinh tế Việt Nam, và những giá trị thịnh vượng mà FDI tạo ra sẽ không ở lại làm giàu cho người dân Việt, trừ các chi phí hạn hẹp cho lao động giá rẻ.

Theo số liệu của Cục Đầu Tư Nước Ngoài, Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư, nguồn vốn FDI đăng kí vào Việt Nam là 21,92 tỉ đô la cho năm 2014 và 22,34 tỉ cho năm 2013, chiếm 12,5% tổng GDP.

Con số rất lớn này cho thấy tăng trưởng kinh tế Việt Nam lệ thuộc quá nhiều vào nguồn đóng góp từ FDI, đặc biệt là khi vốn hóa thị trường chứng khoán Việt Nam chỉ ở mức 45 tỉ đô la thể hiện sức khỏe yếu ớt của các doanh nghiệp nội địa.

Cần phải nhận ra rằng thực lực của nền kinh tế Việt Nam trong dài hạn phải đến từ bên trong, từ những nhà tư bản trong nước tạo ra của cải vật chất và những giá trị có tiềm năng quay vòng trong nền kinh tế.

Khi mà thị trường tiêu dùng trong nước vắng bóng các nhãn hiệu nội địa được ưa chuộng ở gần như tất cả các mặt hàng, từ quần áo đến máy móc, khi mà hàng Trung Quốc tràn ngập và chi phối cả nền kinh tế và chính trị, thì chính phủ cần phải có các biện pháp dài hạn, những sự những ưu tiên và môi trường thuận lợi để một cá nhân từ gia cảnh bình thường có thể lập nghiệp và thành công.

Chúng ta muốn có một môi trường như Silicon Valley năng động, sáng tạo để các nhà tư bản tương lai có thể khởi nghiệp và phát triển.

Trong khoảng vài năm trở lại đây, phong trào khởi nghiệp làm chủ và kinh doanh tự khởi trong giới trẻ và sinh viên ngày càng nhiều phấn khởi.

Những quỹ đầu tư mạo hiểm như IDG Ventures đã chứng tỏ rất thành công, tuy nhiên, số tiền 100 triệu đô la này của các nhà đầu tư Mỹ để hỗ trợ các doanh nghiệp và các nhà tư bản trong nước là không thấm vào đâu so với hơn 20 tỉ đô la FDI hàng năm.

Những nỗ lực từ giới đầu tư tư nhân cần phải nhận được cả sự hỗ trợ và bảo hộ của nhà nước trong dài hạn để các nhà tư bản nội có thể phát triển.

Đành rằng các nhà tư bản nội sẽ phải mất 10, 20 năm, hoặc hơn để có thể tích lũy và xây nhà máy cho hàng chục ngàn lao động như Samsung, nhưng chúng ta phải bắt đầu từ bây giờ để Việt Nam sẽ có thể đứng vững hơn trên đôi chân mình trong tương lai.

Thay vì đầu tư hàng ngàn tỉ vào những tượng đài đá không làm giàu gì thêm cho xã hội, hãy đầu tư vào một thế hệ trẻ các nhà tư bản Việt Nam mới!

Bài thể hiện cách hành văn và quan điểm riêng của tác giả, một cử nhân Đại Học Cornell và hiện là doanh nhân, giám đốc quỹ đầu tư Vietnam Angel Investors Circle.