Công cụ quản lý nhà nước quan trọng nhất

Ảnh minh họa. [Nguồn: Vietnam+]

Sở hữu trí tuệ đóng vai trò hết sức quan trọng, nhất là trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tạo ra những khả năng sản xuất hoàn toàn mới và có tác động sâu sắc đến đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của thế giới.

Để đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế, quốc tế, Việt Nam đã ban hành Chiến lược sở hữu trí tuệ quốc gia đến năm 2030 kèm theo Quyết định số 1068/QĐ-TTg ngày 22/8/2019 của Thủ tướng Chính phủ, lồng ghép sở hữu trí tuệ trong từng lĩnh vực kinh tế-xã hội nhằm xây dựng và phát triển một số ngành kinh tế sử dụng tài sản trí tuệ. Quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ đóng vai trò dẫn dắt quá trình thực hiện mục tiêu đó.

Hoạt động quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ tại địa phương ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ các nhà sản xuất, kinh doanh, người dân... nhằm nâng cao giá trị tài sản trí tuệ và sức cạnh tranh sản phẩm, hàng hóa trên thị trường. Tuy nhiên, hoạt động sở hữu trí tuệ nói chung vẫn không đồng đều và tại nhiều địa phương chưa phát huy tác dụng tương xứng với vị trí, vai trò của lĩnh vực này.

Sở hữu trí tuệ tại địa phương vẫn mờ nhạt

Trong những năm qua, sở hữu trí tuệ ở địa phương góp phần vào phát triển kinh tế-xã hội, nâng cao nhận thức về sở hữu trí tuệ, khuyến khích hoạt động xác lập và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của các tổ chức, cá nhân.

Tuy nhiên, tại nhiều địa phương, hoạt động sở hữu trí tuệ còn đơn giản, cơ chế, chính sách chưa thực sự phát huy hết tiềm năng, thế mạnh tài sản trí tuệ của địa phương, vai trò quản lý nhà nước mờ nhạt, bị động, vẫn còn tình trạng trông chờ hoặc giẫm chân lên nhau giữa các cơ quan quản lý liên quan.

Bên cạnh đó, năng lực, kiến thức chuyên môn về sở hữu trí tuệ của các cơ quan thực thi quyền sở hữu trí tuệ ở địa phương còn bất cập, lúng túng trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, phần lớn trông chờ, lệ thuộc vào ý kiến của cơ quan chuyên môn ở Trung ương.

Công tác kiểm tra, thanh tra, trao đổi thông tin giữa các cơ quan chức năng chưa thường xuyên; các hoạt động hỗ trợ tuyên truyền, đào tạo; cung cấp thông tin và tư vấn về tài sản trí tuệ chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp.

[Sửa đổi, bổ sung Luật Sở hữu trí tuệ nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn]

Nhiều sản phẩm đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong nước, thậm chí khu vực nhưng do nhiều nguyên nhân chưa được bảo hộ, dẫn đến tình trạng bị xâm phạm, làm giả, làm nhái, đánh mất thị trường.

Nhiều doanh nghiệp chưa nhận thức đúng về quyền và lợi ích khi sản phẩm được bảo hộ sở hữu trí tuệ nên việc vận động, tuyên truyền xác lập quyền sở hữu trí tuệ cho sản phẩm, nhãn hiệu… của cơ quan chuyên môn gặp khó khăn. Nhiều loại hàng hóa vi phạm quyền sở hữu trí tuệ vẫn lưu thông công khai trên thị trường trong khi đội ngũ cán bộ quản lý và thực thi còn thiếu nên việc xử lý ngăn chặn bị hạn chế.

Theo thống kê của Cục sở hữu trí tuệ [Bộ Khoa học và Công nghệ] đến nay, đã có 42 tỉnh, thành phố ban hành các cơ chế, chính sách phát triển tài sản trí tuệ dưới các hình thức khác nhau.

Trong năm 2021, đã có 159 dự án được các địa phương triển khai thực hiện với 15 sáng chế, giải pháp hữu ích được hỗ trợ bảo hộ, khai thác, 205 sản phẩm đặc thù địa phương được hỗ trợ bảo hộ, quản lý quyền sở hữu công nghiệp, 18 tổ chức tập thể được thành lập để quản lý tài sản trí tuệ cộng đồng, 7.131 lượt người được tập huấn, đào tạo về sở hữu trí tuệ, 1178 lượt doanh nghiệp được hỗ trợ về sở hữu trí tuệ, 160 lượt phát sóng truyền hình tuyên truyền về sở hữu trí tuệ.

Báo cáo của các địa phương cho thấy, hiện nhiều địa phương có nhu cầu tiếp tục được Cục sở hữu trí tuệ hướng dẫn, hỗ trợ trong hoạt động đăng ký xác lập quyền trong và ngoài nước, quản lý và khai thác các chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận dùng cho các đặc sản địa phương; hỗ trợ địa phương tham gia thực hiện các dự án trong Chương trình phát triển tài sản trí tuệ đến năm 2030 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 2205/QĐ-TTg ngày 24/12/2020.

Chuyển biến tích cực

Theo ông Nguyễn Văn Bảy, Phó Cục trưởng Cục Sở hữu trí tuệ [Bộ Khoa học và Công nghệ], năm 2021 mặc dù chịu ảnh hưởng nghiêm trọng của dịch COVID-19, hoạt động quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ ở cả trung ương và địa phương đã đạt được kết quả tích cực.

[Nguồn: CIEM]

Việc xây dựng chính sách, pháp luật về sở hữu trí tuệ tập trung và hoàn thiện dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ, trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ ba vào tháng 5/2022.

Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi tập trung vào 7 nhóm chính sách lớn với khoảng 100 điều được sửa đổi, bổ sung, trong đó một số vấn đề nhận được sự quan tâm lớn của các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp và cả xã hội như quy định về giao quyền đăng ký sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí và giống cây trồng là kết quả của nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước; quy định liên quan đến thủ tục đăng ký và xác lập quyền sở hữu trí tuệ...

Xây dựng các Thông tư quy định định mức kinh tế-kỹ thuật cho một số dịch vụ công sử dụng Ngân sách nhà nước như dịch vụ đào tạo, bồi dưỡng về sở hữu trí tuệ, dịch vụ xác nhận hiệu lực đăng ký quốc tế nhãn hiệu được bảo hộ tại Việt Nam.

Bên cạnh đó, Cục Sở hữu trí tuệ đã tham gia góp ý đối với dự thảo của 35 văn bản pháp luật liên quan đến sở hữu trí tuệ; công tác hướng dẫn thi hành và giải đáp các vấn đề liên quan đến áp dụng pháp luật về sở hữu trí tuệ cho các tổ chức, cá nhân.

Đặc biệt, năm 2021, Cục Sở hữu trí tuệ đã tham gia Phiên rà soát chính sách thương mại lần thứ 2 trong khuôn khổ của Tổ chức Thương mại Thế giới [WTO]; góp ý kiến về sở hữu trí tuệ để chuẩn bị cho Phiên họp Ủy ban các Hiệp định thương mại khu vực của WTO; thông báo cho Ban Thư ký WTO về các quy định pháp luật sở hữu trí tuệ mới theo quy định của Hiệp định TRIPS [Các hiệp định về các khía cạnh thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ].

Để triển khai Chiến lược sở hữu trí tuệ đến năm 2030, ông Nguyễn Văn Bảy cho biết năm 2021, Bộ Khoa học và Công nghệ đã triển khai thực hiện Chiến lược sở hữu trí tuệ; thảo luận với Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới [WIPO] về Kế hoạch hợp tác triển khai Chiến lược sở hữu trí tuệ; tiếp tục hướng dẫn các Bộ, ngành, địa phương xây dựng Kế hoạch và tổ chức triển khai các nhiệm vụ.

Đến nay, đã có 26 tỉnh/thành phố ban hành kế hoạch thực hiện Chiến lược sở hữu trí tuệ theo cách riêng hoặc lồng ghép nội dung sở hữu trí tuệ trong quy hoạch, kế hoạch, chương trình, chính sách phát triển các ngành, lĩnh vực ở địa phương.

“Nhằm tạo chuyển biến tích cực, mạnh mẽ hơn trong thời gian tới, Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ đưa ra định hướng phát triển hoạt động sở hữu trí tuệ cả ở trung ương và địa phương năm 2022 và các năm tiếp theo. Cụ thể, cần có những luận cứ xác thực để giải trình những vấn đề sửa đổi trong Luật Sở hữu trí tuệ, qua đó sẽ hoàn thiện trình Quốc hội ban hành trong thời gian tới, cũng như có những định hướng đúng đắn trong công tác chỉ đạo thực hiện Chiến lược sở hữu trí tuệ đến năm 2030 và Chương trình phát triển tài sản trí tuệ giai đoạn 2022-2030” - ông Nguyễn Văn Bảy nhấn mạnh./.

Diệu Thúy [TTXVN/Vietnam+]

Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là trụ cột của hệ thống chính trị ở nước ta, là công cụ tổ chức thực hiện ý chí và quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân để quản lý toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội. Nhà nước là phương tiện quan trọng nhất của nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình. Cùng Luật sư X tìm hiểu về vấn đề “Tại sao nói quyền lực nhà nước là bộ phận quan trọng nhất của quyền lực chính trị?” qua bài viết sau đây

Căn cứ pháp lý

Hiến pháp năm 2013

Có nhiều lý do để nói quyền lực nhà nước là bộ phận quan trọng nhất của quyền lực chính trị. Dưới đây là giải đáp 2 lý do cơ bản nhất.

Xét dưới góc độ bản chất, nhà nước luôn mang tính giai cấp, nhà nước là công cụ mà giai cấp thống trị xã hội thiết lập để truyền tải quyền lực chính trị của giai cấp thống trị lên nhà nước, biến thành quyền lực nhà nước để thực thi trong thực tiễn. Vì vậy, nhà nước phải thực hiện chức năng giai cấp, nghĩa là phải phục vụ và bảo vệ cho lợi ích của giai cấp thống trị xã hội.

Với tư cách là một bộ máy công quyền [bộ máy tổ chức thực thi quyền lực công], nhà nước không chỉ phải thực hiện chức năng giai cấp mà còn phải thực hiện chức năng xã hội. Do đó, nhà nước phải sử dụng tổng hợp các nguồn lực, kể cả quyền lực nhà nước để thiết lập và bảo vệ trật tự, an toàn xã hội, thúc đẩy kinh tế – xã hội phát triển và nhất là bảo vệ và phục vụ cho lợi ích chung của cộng đồng, của xã hội, trong đó có lợi ích của tất cả các giai cấp, tầng lớp, các nhóm người trong xã hội.

Quyền lực chính trị hướng đến quản lý; thiết lập và duy trì trật tự xã hội mà nhà nước cũng là chủ thể của quyền lực chính trị; là tổ chức chính trị thể hiện tập trung nhất quyền lực nhân dân; có sức mạnh cưỡng chế toàn diện; ban hành và sử dụng pháp luật để quản lý các quá trình xã hội.

Nhờ có pháp luật, mọi chủ trương; chính sách của nhà nước được triển khai một cách rộng rãi và thống nhất trên quy mô toàn xã hội. Bên cạnh đó, nhà nước có đủ điều kiện và sức mạnh về vật chất để tổ chức thực hiện quyền lực chính trị; và quản lý đất nước xã hội. Đó là những ưu thế riêng của nhà nước mà không có tổ chức nào trong hệ thống chính trị có được. Vì vậy, quyền lực chính trị thể hiện tập trung ở quyền lực nhà nước; chỉ có thông qua quyền lực nhà nước quyền lực chính trị mới có thể được thực thi trong thực tiễn một cách đầy đủ nhất.

Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là trụ cột của hệ thống chính trị ở nước ta, là công cụ tổ chức thực hiện ý chí và quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân để quản lý toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội.

Nhà nước là phương tiện quan trọng nhất của nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình. Nhà nước trong hệ thống chính trị có chức năng thể chế hóa đường lối; quan điểm của Đảng thành các quy định pháp luật trong Hiến pháp và các quy định pháp luật khác; và thực hiện quyền quản lý đất nước.

Hoạt động của nhà nước nằm dưới sự lãnh đạo của Đảng nhưng có tính độc lập tương đối; với các công cụ và phương thức quản lý riêng của mình.

Hiến pháp chỉ rõ quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân; Nhà nước là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; Nhà nước bảo đảm và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân; thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc. Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân. Dây là những cơ quan do nhân dân bầu ra, đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân.

Hiến pháp trao cho mọi công dân [dù là nam hay nữ] quyền bình đẳng như nhau về mọi mặt chính trị; kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào; quyền tự do đi lại và cư trú ở trên đất nước Việt Nam; quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài trở về theo quy định của pháp luật.

Quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước có mối quan hệ qua lại chặt chẽ. Quyền lực nhà nước là bộ phận quan trọng nhất của quyền lực chính trị.

Việc chuyển quyền lực nhà nước từ tay giai cấp này sang tay giai cấp khác; sẽ làm thay đổi bản chất của chế độ chính trị. Mọi dạng quyền lực nhà nước đều mang tính chính trị; nhưng không phải mọi quyền lực chính trị đều có tính chất của quyền lực nhà nước.

So với quyền lực nhà nước, quyền lực chính trị rộng hơn; đa dạng hơn về phương pháp thực hiện cũng như hình thức biểu hiện. Quyền lực nhà nước trong xã hội hiện đại bao gồm 3 nhánh chủ yếu là quyền lập pháp; quyền hành pháp và quyền tư pháp.

Cơ quan công quyền, là chủ thể của quyền lực chính trị. Nhà nước quản lý toàn diện trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị; xã hội và có những phương diện và công cụ để duy trì trật tự xã hội ổn định.

– Nhà nước CHXHCNVN sử dụng pháp luật và thông qua pháp luật để quản lý xã hội; thực hiện các chính sách của Đảng và Nhà nước.

– Nhà nước CHXHCNVN là tổ chức chính trị mang chủ quyền quốc gia; là tổ chức duy nhất được coi là chủ thể của công pháp quốc tế.

– Nhà nước CHXHCNVN là chủ sở hữu đối với tư liệu sản xuất quan trọng của xã hội; thông qua đó nhà nước điều tiết vĩ mô đối với nền kinh tế.

Trên đây là tư vấn của Luật sư X về vấn đề “Tại sao nói quyền lực nhà nước là bộ phận quan trọng nhất của quyền lực chính trị?”. Chúng tôi hi vọng rằng bạn có thể vận dụng các kiến thức trên; để sử dụng trong công việc và cuộc sống.

Để biết thêm thông tin chi tiết và nhận thêm sự tư vấn, giúp đỡ khi có nhu cầu về các vấn đề liên quan đến giải thể công ty, giải thể công ty tnhh 1 thành viên, tạm dừng công ty, dịch vụ đăng ký bảo hộ nhãn hiệu…của luật sư X, hãy liên hệ  0833102102.

Quyền lực nhà nước bao gồm?

Ba nhánh quyền: hành pháp, lập pháp và tư pháp. Hành pháp thuộc về chính phủ và cơ quan cấp dưới.Tư pháp thuộc về Toà án

Lập pháp thuôc về quốc hội.

Video liên quan

Chủ Đề