Đề tài sáng kiến kinh nghiệm 24 -- 36 tháng

Mẫu 1: Sáng kiến kinh nghiệm phát triển ngôn ngữ cho trẻ.

A/ PHẦN MỞ ĐẦU

1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:

Như chúng ta đã biết trong cuộc sống chúng ta ai cũng phải sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp với mọi người và để nhận thức thế giới xung quanh. Ngôn ngữ chính là phương tiện giao tiếp giữa con người với con người, là phương tiện cho việc dạy và học. Ngôn ngữ nói, đọc, viết có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc phát triển nhân cách của trẻ mầm non nói riêng, của con người và xã hội nói chung. Lứa tuổi mầm non là thời kỳ phát triển ngôn ngữ tốt nhất. Là giai đoạn có nhiều điều kiện thuận lợi nhất cho sự lĩnh hội ngôn ngữ nói và các kỹ năng nghe, hiểu, trả lời câu hỏi của trẻ. Phát triển ngôn ngữ và giao tiếp có ảnh hưởng đến tất cả các lĩnh vực phát triển khác của trẻ. Ngôn ngữ chính là công cụ để tư duy vì thế ngôn ngữ có ý nghĩa quan trọng đến việc phát triển nhận thức. giải quyết vấn đề …..của trẻ. Đối với trẻ 24-36 tháng thì ngôn ngữ, nhận thức của trẻ còn rất nhiều hạn chế. Chính vì vậy mà tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp để phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng”

2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

Tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp để phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng” nhằm giúp trẻ phát triển khả năng nghe, hiểu, trả lời câu hỏi một cách có logich, có trình tự, chính xác.

- Giúp trẻ mạnh dạn tự tin trước mọi người.

- Làm phong phú vốn từ cho trẻ.

- Giúp giáo viên hiểu được tầm quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ từ đó có những kế hoạch cụ thể về việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ.

3. ĐỐI TƯỢNG PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Nghiên cứu trong phạm vi phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 -36 tháng

4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU:

Tìm ra những giải pháp tốt nhất để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ một cách tốt nhất.

5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:

- Phương pháp quan sát các hoạt động trong ngày của trẻ.

- Phương pháp quan sát các hoạt động dạy và học.

- Qua nghiên cứu các tài liệu tham khảo có liên quan đến đề tài.

6. NỘI DUNG ĐỀ TÀI:

- Cơ sở lí luận liên quan đến đề tài.

- Tìm hiểu về thực trạng của đề tài.

- Đề ra các biện pháp giải pháp.

B. NỘI DUNG CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU

Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI.

1. Cơ sở pháp lí:

Chương trình giáo dục mầm non đựoc biên soạn trên cơ sở quy định của luật giáo dục và đã được bộ trưởng bộ giáo dục và đào tạo kí ban hành theo thông tư số 17/2009/TT-BGDDT ngày 25/7/2009.Chương trình giáo dục mầm non được tiến hành nghiên cứu xây dựng từ năm 2002 theo quy định khoa học với sự tham gia của các nhà khoa học, nhà sư phạm. cán bộ quản lí giáo dục, giáo viên mầm non với mục tiêu là: giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mĩ, hình thành những yếu tố ban đầu của nhân cách.

Với yêu cầu về nội dung giáo dục mầm non là: phù hợp với sự phát triẻn tâm sinh lí ở trẻ em, hài hòa giữa nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục. Giúp trẻ em phát triển cơ thể cân đối, khỏe mạnh,nhanh nhẹn. Cung cấp kĩ năng sống phù hợp lứa tuổi. Giúp trẻ em biết kính trọng, yêu mến, lễ phép với ông bà, cha mẹ, cô giáo. Yêu quý anh, chị, em, bạn bè. Thật thà, mạnh dạn, tự tin, hồn nhiên, yêu thích cái đẹp, ham hiểu biết thích đi học.

Với yêu cầu về phương pháp giáo dục mầm non là: Đối với nhà trẻ phương pháp giáo dục phải chú trọng sự giao tiếp thường xuyên, thể hiện sự yêu thương , gắn bó của người lớn đối với trẻ. Chú ý đặc điểm cá nhân của trẻ để lựa chọn phương pháp giáo dục phù hợp. Tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ được tích cực hoạt động, giao lưu cảm xúc.....

2. Cơ sở lí luận:

Trong cuộc sống chúng ta ai cũng phải sử dụng ngôn ngữ dể giao tiếp với mọi người xung quanh và ngôn ngữ chính là phương tiện cho việc dạy và học. Đối với trẻ mầm non thì qua giao tiếp bằng ngôn ngữ và tư duy trẻ thu được các kinh nghiệm sống làm phong phú thêm sự hiểu biết của trẻ.cụ thể trẻ nhà trẻ thì nhận thức và ngôn ngữ của trẻ còn hạn chế, trẻ mới đang tập nói, có trẻ mới nói được câu 2-3 từ ,có trẻ thì đã nói được câu 4-6 từ, có trẻ nói chưa trọn vẹn được câu, trẻ chưa diễn đạt được ý muốn của mình bằng những câu đơn giản… chính vì vậy mà phát triển ngôn ngữ cho trẻ là việc làm cần thiết. Đối với trẻ nhà trẻ phát triển ngôn ngữ chính là việc phát triển các khả năng nghe, hiểu, nói của trẻ. Để phát triển các khả năng này thì việc dạy trẻ đọc thơ, kể chuyện, tập nói, trò chuyện, giao tiếp với trẻ thông qua các hoạt động giáo dục trẻ trong ngày chính là việc làm giúp trẻ phát triển ngôn ngữ.

3. Cơ sở thực tiễn:

Căn cứ vào thực tế, kết quả các tiết dạy thơ, chuyện, tập nói.

Căn cứ vào nhu cầu cần được giao tiếp, trò chuyện của trẻ.

Căn cứ vào sách hướng dẫn tổ chức thực hiện chương trình CSGD trẻ.

Chương II: THỰC TRẠNG CỦA ĐỀ TÀI.

1. Khái quát phạm vi:

Ngành giáo dục huyện …….. trong những năm gần đây đã quan tâm nhiều hơn với bậc học mầm non. Để hòa nhập cùng với sự đổi mới của các bậc học khác thì bậc học mầm non cũng đã tiến hành đổi mới để phù hợp với sự đổi mới chung của giáo dục cả nước, cũng như của thế giới. Trường mầm non ……..được sự chỉ đạo của sở giáo dục đào tạo tỉnh …….. đã và đang thực hiện chương trình mầm non mới.

2. Thực trạng:

Trường mầm non ……..là trường điểm của huyện …….. và là một trong những trường dẫn đầu trong khối mầm non của tỉnh, của huyện nhà. Đã đạt trường chuẩn quốc gia mức độ 1- năm 20……..

*Thuận lợi:

- Được sự quan tâm giúp đỡ của ban giám hiệu nhà trường

- Về cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho việc dạy và học tương đối đầy đủ.

- Giáo viên đạt trình độ chuẩn và trên chuẩn 100%. Nhiệt tình công tác, đoàn kết giúp đỡ nhau trong việc chăm sóc giáo dục trẻ.

*Khó khăn.

- Trẻ chưa mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp

- Vốn từ của trẻ còn rất ít .

- Trình độ nhận thức của trẻ trong một lớp không đồng đều.

- Trí nhớ của trẻ còn hạn chế chính vì vậy mà trẻ chưa biết cách sắp xếp trật tự các từ trong câu nên khi phát âm trẻ thường bỏ bớt từ. Cách diễn đạt lời nói của trẻ chưa tốt .

3. Nguyên nhân thực trạng:

- Trình độ nhận thức của trẻ trong một lớp không đồng đều( vì có trẻ trong lớp sinh tháng 1-2 nhưng có trẻ trong lớp sinh tháng 10 -11-12). Tháng tuổi của trẻ chênh lệch nhau về tháng sinh quá xa ở lứa tuổi này sẽ dẫn đến sự chênh lệch về trình độ nhận thức, sự hiểu biết, ngôn ngữ..

- Đặc điểm của trẻ nhà trẻ lứa tuổi 24-36 tháng rất thích được trò chuyện, giao tiếp, thích được nói, nhưng ngôn ngữ, vốn từ của trẻ còn rất hạn chế, còn sử dụng ngôn ngữ thụ động nhiều.

- Chưa được tác động, kích thích kịp thời để trẻ mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp.

Chương III: BIỆN PHÁP, GIẢI PHÁP ĐỂ THỰC HIỆN ĐỀ TÀI

I. Cơ sở để đề xuất giải pháp:

- Qua tìm hiểu tâm sinh lí trẻ ở lứa tuổi 24/36 tháng tuổi.

- Qua thực tế giảng dạy, quan sát những giờ hoạt động học và các hoạt động khác của trẻ trong ngày.

Tôi có đưa ra một số biện pháp, giải pháp để phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24/36 tháng tuổi.

II. Các biện pháp, giải pháp chủ yếu:

Trẻ ở lứa tuổi 24/36 tháng tuổi còn nhỏ rất hiếu động, thích tìm tòi, khám phá mọi thứ xung quanh.Trẻ thường có những thắc mắc trước những đồ vật.hiện tượng mà trẻ nhìn thấy, nghe thấy, trẻ thường đặt ra rất nhiều câu hỏi như: Ai đây? Cái gì đây? Con gì đây? …..

Để giải đáp được những thắc mắc hàng ngày người lớn cần trả lời những câu hỏi của trẻ rõ ràng, ngắn gọn đồng thời cần cung cấp cho trẻ thêm hiểu biết về thế giới xung quanh bằng ngôn ngữ giao tiếp mạch lạc. Chính vì vậy mà mỗi giáo viên chăm sóc giáo dục trẻ cần trú trọng đến việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ , đó là nhịêm vụ quan trọng hàng đầu . Bởi ngôn ngữ là phương tiện để trẻ tiếp thu kiến thức về thế giới xung quanh được dễ dàng và hiệu quả nhất:

1. Giáo viên cần hiểu tâm sinh lý của trẻ:

*Đặc điểm phát âm:

Trẻ đã phát âm đượccác âm khác nhau. Phát âm được các âm của lời nói nhưng vẫn còn ê a. Trẻ hay phát âm sai ở những từ khó, những từ có 2/ 3 âm tiết như: Lựu/ lịu, hươu/ hiu, hoa sen / hoa xem, thuyền buồm/ thiền bồm….

*Đặc điểm vốn từ:

Vốn từ của trẻ còn rất ít. Danh từ và động từ ở trẻ chiếm ưu thế.

Trẻ đã sử dụng chính xác các từ chỉ đồ vật con vật, hành động trong giao tiếp quen thuộc hàng ngày. Những các từ chỉ khái niệm tương đối như: Hôm qua, hôm nay, ngày mai……trẻ sử dụng chưa chính xác. Một số trẻ đã biết sử dụng các từ chỉ màu sắc như: màu xanh, màu đỏ ,màu vàng…. Đã biết sử dụng các từ thể hiện sự lễ phép với người lớn trong giao tiếp như: Cảm ơn cô, vâng ,dạ…

..............

1. Biện pháp giúp trẻ 24-36 tháng nhận biết, phân biệt màu sắc​


Tên đề tài: “Một số biện pháp giúp trẻ 24-36 tháng nhận biết, phân biệt 3 màu xanh, đỏ, vàng tại trường mầm non Kiến Hưng


  • Tác giả: Phạm Thị Quý – trường mầm non Kiến Hưng
  • Mục đích nghiên cứu: Dựa vào đề tài sáng kiến kinh nghiệm mầm non trẻ 24-36 tháng đã chọn qua đó tiến hành phân tích, đánh giá những mặt đạt được và hạn chế, tìm ra nguyên nhân và đề xuất giải pháp tốt nhất để áp dụng vào thực tế dạy trẻ nhận biết phân biệt 3 màu xanh, đỏ, vàng tại nhóm lớp trong thời gian sắp tới.



Download tài liệu

SKKN mầm non giải A cấp huyện: Một số biện pháp giúp trẻ 24 36 tháng ham thích đến lớp học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (24.17 MB, 20 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TỈNH THANH HÓA
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGA SƠN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỂ LỨA TUỔI NHÀ TRẺ
24-36 THÁNG HAM THÍCH ĐẾN LỚP HỌC
Ở TRƯỜNG MẦM NON NGA BẠCH

Người thực hiện: Hoàng Thị Thanh Thủy
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Mầm non Nga Bạch
SKKN thuộc lĩnh vực: Chuyên môn

THANH HÓA, NĂM 2015
1


A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ ca dao tục ngữ mà đời xưa đã truyền lại cho chúng ta qua những câu từ
trang sách ‘Trẻ em như búp trên cành – Biết ăn biết ngủ biết học hành là ngoan’.
Đất nước ta đang trong quá trình đổi mới thì giáo dục được đặt lên hàng đầu, đặc
biệt là giáo dục mầm non. Ở độ tuổi từ 0-6 tuổi trẻ được đến trường lớp mầm
non, được vui chơi, học hành, được thỏa thích thể hiện cá tính của bản thân, trẻ
vui tươi hồn nhiên và khám phá những điều mình muốn. Ở trường trẻ còn được
sự chăm sóc ân cần của cô giáo, lại có các bạn cùng trang lứa cùng nhau học
cùng nhau chơi thật vui biết bao do đó trẻ thường ham thích đến lớp học của
mình. Đối với trẻ nhà trẻ 25-36 tháng việc hàng ngày đến lớp chưa thành thói
quen của trẻ. Do trong độ tuổi này trẻ đang được bố mẹ dìu dắt từng bước đi,
bón từng thìa cơm chăm cho từng giấc ngủ, nên việc rời bố mẹ đến lớp hằng
ngày với trẻ là việc rất khó khăn. Chính vì vậy là giáo viên mầm non dựa trên


thực tế trẻ trong độ tuổi mầm non nói chung và nhà trẻ 25-36 tháng nói riêng
đến lớp đang còn là nghĩa vụ tôi trăn trở muốn tìm ra nhiều biện pháp hay để trẻ
lớp tôi lớp nhà trẻ ham thích hơn đến lớp học hàng ngày. Qua quá trình đứng lớp
và kinh nghiệm thực tế ở các năm học trước. Năm học 2014 - 2015 này tôi được
nhà trường phân công đứng lớp nhà trẻ 25-36 tháng cùng công tác kiêm nghiệm
tổ trưởng chuyên môn tổ nhà trẻ. Bước vào năm học mới mỗi giáo viên chúng
tôi ai cũng có một tinh thần trách nhiệm cao đối với lớp học của mình, với nhà
trường và các cháu học sinh. Nhưng thực tế khi bước vào những ngày đầu đón
trẻ của năm học thật sự mỗi chúng tôi đã phải cố gắng hết mình vì công việc vì
các cháu. Bởi các cháu nhà trẻ đây là thời gian mà các cháu bước đầu rời xa
vòng tay cha mẹ, đến với một môi trường mới với những người mà bé chưa từng
gặp. Các cháu đi học khóc rất nhiều. có những cháu đến lớp còn nôn trớ ra cả
người cô giáo, thậm chí đánh cả cô giáo… thật sự những người giáo viên mầm
non chúng tôi những ngày này cảm thấy rất mệt mỏi. Nhưng là giáo viên mới
nhưng tôi rất yêu nghề mến trẻ, nhiều trẻ mới đến lớp không chịu vào lớp học,
ngày sau đó không dám đến trường vì lạ bạn, sợ cô. Về phần phụ huynh thì
không dám tin con mình có đi học được hay không, sợ con khóc nhiều khi xa ba
mẹ. Làm sao để phụ huynh yên tâm, vui vẻ khi trao con cho các cô? Tôi đã thực
hiện vài biện pháp nhỏ để có thể làm phụ huynh yên lòng và trẻ đến lớp mà
không sợ sệt, qua vài ngày sau sẽ ham thích đi học và về nhà tôi suy nghĩ mãi
với trách nhiệm của mình là tổ trưởng tổ nhà trẻ, hơn nữa lại là một giáo viên
chủ nhiệm lớp tôi phải làm sao nghĩ cáh để các cháu hứng thú, thích đến lớp học
ngay từ những ngày đầu, các cháu bớt khóc, quen dần với môi trường ở lớp để
làm tiền đề cho mình và các tổ viên của tổ mình. Hơn nữa trong một lớp học có
bao nhiêu trẻ thì có bấy nhiêu sự khác biệt cá nhân. Những sự khác biệt này bao
2


gồm cả về thể chất, năng lực, xu hướng, hứng thú. Và tất cả các trẻ đều có quyền
đòi hỏi được quan tâm đáp ứng nhu cầu bản thân. Bên cạnh đó các nhà giáo dục

cũng thấy rằng về bản chất, phạm vi năng lực tiềm tàng của trẻ rộng hơn rất
nhiều những gì chúng thể hiện ở lớp, và để có thể làm bộc lộ năng lực tiềm ẩn
này, trẻ cần có môi trường học tập cho phép chúng được học tập mọi lúc mọi nơi
học theo nhiều cách khác nhau. Để nuôi dưỡng trí thông minh là chăm sóc, bảo
vệ và kích thích trẻ trong quá trình phát triển, nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra
rằng trẻ cần có kinh nghiệm học từ những ngày đầu tên của cuộc đời. Vì vậy sự
nuôi dưỡng trí lực của trẻ có thể bắt đầu ngay từ những ngày sau khi trẻ được
sinh ra. Đó là một quá trình lâu dài đòi hỏi rất nhiều sự âu yếm, kiên trì và hiểu
biết về chăm sóc và dạy bảo của cha mẹ, ông bà, cô giáo. Khi trẻ đến lớp, mỗi
trẻ là một cơ thể duy nhất, do đó trẻ sẽ hành động trong một môi trường theo
cách của mình. Chính vì vậy cô giáo cần tạo cho trẻ một tâm thế tốt khi ở lớp,
một khong khí tình cảm yêu thương, tôn trọng trẻ. Điều này giúp trẻ biết nghe
lời cô và phát triển khả năng bẩm sinh sẵn có của mình, hứng thú nhận thức
càng cao trẻ càng thể hiện rõ hơn năng lực của bản thân. Thậm chí hứng thú có
thể làm biến đổi một cách đáng kể hiệu quả hoạt động của trẻ. Chính vì lý do
trên mà tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Một số biện pháp giúp trẻ 24 - 36 tháng
ham thích đến lớp học”.

B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Xuất phát từ tâm lý của trẻ nhà trẻ lúc này trẻ vừa sống trong môi trường
gia đình, bước đầu trẻ phải đi học, được tiếp xúc với nhiều người trong xã hội,
trẻ 24 - 36 tháng do tôi phụ trách là độ tuổi còn non nớt, khóc nhiều vì xa cha
mẹ, chưa quen với cô và các bạn, chưa thích nghi với điều kiện sinh hoạt và các
hoạt động ở lớp. các cháu không cùng tháng tuổi, mỗi cháu đều có sở thích và
tính cách khác nhau. Đa số phụ huynh buôn bán tự do hay tính chất công việc
chiếm nhiều thời gian, một số phụ huynh do bận rộn công việc kiếm sống nên
chưa thực sự quan tâm đến con em mình vì vậy phụ huynh nhờ cậy việc dạy dỗ
con cái cho cô giáo ở trườngvà có một số phụ huynh lại thương con thấy con
khóc nhiều, con nôn trớ lại đưa con về không cho cháu đi học nữa. Vì thế để các

cháu thích được đi học và các bậc phụ huynh yên lòng gửi lớp thu hút được
đông các cháu đi học tôi quyết định chọn đề tài này để đưa ra một số biện pháp
tốt nhất giúp trẻ thích được đến lớp cùng cô giáo và các bạn: Nhằm giúp các trẻ
mới đến lớp không rụt rè, sợ sệt và thích đi học để các bậc phụ huynh an tâm
trong những ngày đầu tiên con mình xa bố mẹ.

3


II. THỰC TRẠNG
Trong thực tế những ngày đầu đón trẻ tôi nhận thấy tình hình ở lớp tôi như sau:
1.Thuận lợi:
- Được sự chỉ đạo sát sao về chuyên môn cũng như nghiệp vụ của phòng
giáo dục huyện Nga Sơn cũng như sự quan tâm tạo điều kiện về cơ sở vật chất
của địa phương và ban giám hiệu nhà trường mầm non xã Nga Bạch đã được đảm
bảo. Hiện nay trường có đầy đủ đồ dùng đồ chơi, trang thiết bị phục vụ các môn
học cũng như việc vui chơi của trẻ. Để tạo cho trẻ không khí đến lớp tốt hơn.
- Đầu năm học nhà trường ưu tiên bố trí giáo viên cho nhóm nhà trẻ để
cùng chúng tôi tiếp xúc giao lưu với trẻ và phụ huynh để hiểu thêm về tính cách
cũng như sở thích của trẻ.
- Nhà trường bổ sung mua đồ dùng đồ chơi cho lớp.
- Bản thân tôi cũng cần cố gắng rất nhiều trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ.
2. Khó khăn:
Nhiều trẻ mới đi học còn khóc nhè, không chịu vào lớp, cô bế không chịu,
thậm chí còn đánh mạnh vào ngực cô, như vậy sẽ rất khó khăn trong việc dạy
dỗ, chăm sóc và quản lý trẻ. Cụ thể như cháu Bảo Long, Bảo Thi, Khánh Ly,
Ngân Khánh… ngày nào đến lớp bé cũng khóc và nôn trớ rất nhiều. đòi chạy ra
cổng về nhà, có phụ huynh thấy thế không muốn cho con đi học nữa thương con
và cho con về như phụ huynh cháu Thùy Dương, Ngân Khánh, Khánh Ly…điều
này gây khó khăn rất lớn trong việc dạy trẻ và giáo dục đối với các trẻ khác.

Trong những ngày đó, nhiều cô phải tất bật từ sáng đến trưa, nào dỗ dành, ẵm
bồng, kéo co, vật vã với trẻ. Các cháu khóc, quấy, giãy, đạp, thậm chí đánh cả
cô. Đến giờ ăn thì trẻ khóc, không chịu ngồi ăn, rồi ho, ói. Đến giờ ngủ cô giáo
phải ẵm ru ngủ. Có trẻ mệt quá ngủ thiếp đi, có trẻ không chịu ngủ thì cô phải
ẵm ra sân chơi vì sợ ảnh hưởng đến cháu khác. Tình trạng này kéo dài sẽ ảnh
hưởng không tốt đối với trẻ: sụt cân, bệnh, sợ hãi đám đông, sợ tiếp xúc với
nhiều người, trở nên nhút nhát, trầm uất...
Các cô giáo cũng không sung sướng gì khi phải liên tục lau sàn lớp (do
học sinh ói, tè...), có cô hai tay bế hai cháu (còn 2-3 cháu khác vừa khóc vừa
bám lấy áo cô đòi bế), có cô thì một tay bế cháu này, tay kia lấy khăn giấy chùi
mũi cho một cháu khác...“Thường chỉ một, hai tuần là ổn. Cũng có bé dễ chịu,
chỉ khóc 2-3 ngày. Nhưng cũng có bé khó lắm, cả tháng mới thích nghi được”.
Có lẽ hình ảnh của ngày đầu tiên quá kinh khủng đã khiến các cháu khó thích
nghi với lớp học. Một lớp học có hơn 20 cháu khóc rền rĩ, các bé cứ gào lên:
“Mẹ ơi! Mẹ ơi”, bé thì chạy ra cửa lớp giơ hai tay lên: “Bế a, bế a”, có bé còn ói
hết ra sàn lớp, rồi tè, ị ra quần... Các cô giáo cứ luôn chân luôn tay vừa dỗ dành,
vừa dọn đồ ói, thay quần áo cho các cháu... Học sinh đông, việc nhiều nên các
cô không thể dỗ dành tất cả các cháu trong lớp.
4


Từ tình hình đó tôi đã nghĩ ra nhiều cách để khắc phục tình trạng này.
3. Kết quả ban đầu:
Tổng số trẻ
32

Nội dung
- Trẻ ham thích đến lớp
- Trẻ chưa chưa ham thích đến lớp
- Trẻ không muốn đến lớp


Số lượng
8
12
12

Tỷ lệ
25%
37, 5%
37, 5%

Với kết quả trên tôi thấy băn khoăn với trẻ lớp mình. Để trẻ có kết quả tốt
hơn tôi quyết định chọn đề tài “Một số biện pháp giúp trẻ 25 - 36 tháng ham
thích đến lớp”.
III. CÁC BIỆN PHÁP ĐỂ TỔ CHỨC THỰC HIỆN.
Từ thực trạng của trẻ nhà trẻ nói chung và lớp tôi nói riêng về việc giúp trẻ
thích được đến lớp cùng cô giáo và các bạn tôi đã đưa ra một số biện pháp sau:
1: Điều tra thực tiễn để nắm bắt tâm lý của trẻ, tạo được niềm tin với trẻ và
phụ huynh.
- Trong giờ đón và trả trẻ:
Việc thường xuyên quan sát và điều tra thực tiễn giúp cho giáo viên nhìn
nhận chính xác được về tình trạng thực tiễn của lớp mình từ đó đưa ra các hoạt
động điều chỉnh đến từng cá nhân trẻ bởi vì mỗi trẻ có một tính cách khác nhau.
Trò chuyện với phụ huynh về trẻ để biêt bé thích ăn những gì không ăn gì và
ngủ như thế nào. Những ngày đầu tiên đến trường cô giáo phải là người bạn
đáng tin cậy của trẻ. Khi được ba mẹ đưa đến lớp những ngày đầu tiên trẻ
thường ôm chặt lấy ba mẹ không muốn rời xa và nhìn xung quanh một cách dò
xét. Nếu lúc đó cô giáo đến ôm chầm và tách rời trẻ ra khỏi tay mẹ thì tôi nghĩ
trẻ sẽ rất ghét và rất sợ cô, sợ đi học. Chính vì thế khi tiếp xúc lần đầu tiên với
trẻ tôi chỉ chào hỏi, cười và làm quen bằng những câu hỏi đơn giản thân mật

như: “Con tên gì?”, “Con mấy tuổi?”, “Con có muốn vào lớp chơi cùng cô và
các bạn không?”… Sau đó trò chuyện với phụ huynh và từ từ vuốt ve trẻ, kế đến
là nắm tay trẻ thật nhẹ nhàng, đó là bước khởi đầu để trẻ cảm thấy an lòng. Sau
đó trưng bày đồ chơi hoặc tổ chức cho cả lớp cùng chơi một trò chơi nào đó
nhằm gây hứng thú cho trẻ và quan sát biểu hiện của trẻ. Tuy nhiên nhiều trẻ
vẫn chỉ ngồi trong lòng mẹ mà không chịu chơi cùng bạn. Tôi vẫn tiếp tục cùng
phụ huynh trò chuyện về thói quen, tập quán của trẻ để dễ dàng thích nghi với
trẻ, cho đến khi trẻ cảm thấy sự gần gũi giữa mẹ và cô, từ đó trẻ sẽ chơi với cô
và các bạn trong lớp. Mặt khác, việc tuyên truyền với các bậc phụ huynh yên
tâm khi gửi con cho các cô để phụ huynh yên tâm để con mình ở lại cho cô giáo.
Từ những tình trạng thực tế đã giúp tôi tìm ra một số biện pháp tốt để giúp trẻ
thích nghi với lớp được tốt hơn. Đầu năm trẻ của tôi khóc rất nhiều, khi đón trẻ
5


tôi thường an ủi phụ huynh trước tiên vì họ rất thương con lo lắng cho con, sợ
con sẽ khóc nhiều làm ảnh hưởng không tốt đến sức khoẻ. Những lời động viên
sẽ giúp họ an tâm hơn và khi nhận trẻ từ tay ba mẹ tôi nắm tay trẻ, ở gần bên trẻ
và nói chuyện thật nhẹ nhàng.
Đối với các cháu lần đầu tiên đến trường, thường ôm chặt lấy bố mẹ không
chịu rời, tôi không vội vàng tách cháu ra khỏi vòng tay phụ huynh ngay mà chỉ
đến chào hỏi phụ huynh, trò chuyện, mỉm cười với trẻ để làm quen trẻ tránh cho
trẻ bị hụt hẫng và có cảm giác bị bỏ rơi.
Tuy nhiên nhiều trẻ vẫn chỉ ngồi trong lòng bố mẹ mà không chịu chơi
cùng bạn. Tôi vẫn tiếp tục cùng phụ huynh trò chuyện về thói quen, tập quán, sở
thích của trẻ để dễ dàng tìm kiếm biện pháp thích nghi với trẻ, cho đến khi trẻ
cảm thấy sự gần gũi giữa mẹ và cô, từ đó trẻ sẽ chơi với cô và các bạn trong lớp.

Trẻ mới đi học còn khóc không chịu vào lớp


Hình ảnh cô giào trò chuyện cùng phụ huynh về trẻ

6


Từ khi sử dụng biện pháp trên vào đối với học sinh của lớp mình tôi thấy
các cháu có sự tiến bộ rõ rệt đạt kết quả rất tốt. Lớp tôi có 32 học sinh số cháu
hứng thú đi học đạt 28 cháu bằng 88% so với số trẻ của lớp.
2: Chuẩn bị nhiều đồ chơi hấp dẫn cho trẻ chơi.
Tôi tổ chức cho cả lớp cùng chơi một trò chơi nhỏ nào đó nhằm gây hứng
thú cho trẻ và quan sát biểu hiện của trẻ mới vào lớp. Để kích thích sự sáng tạo
ham học hỏi của những trẻ hiếu động tôi giới thiệu cho trẻ tham gia chơi ở góc
xây dựng tạo sự hứng thú cho trẻ. Sau đó tiếp tục cho các cháu chơi ở những góc
chơi khác.
Trưng bày ở các góc chơi nhiều đồ chơi hấp dẫn do nhà trường mua sắm
phục vụ cho các cháu. Ngoài ra tôi còn tận dụng thời gian rảnh của mình làm ra
nhiều đồ dùng đồ chơi từ những nguyên vật liệu từ phế thải như hộp sữa chua
tạo ra những con vật ngộ nghĩnh, những chiếc đu quay như thường ngày bé chơi.
Từ những bìa cat tông cùng những mảnh xốp vụn tạo nên những cây hoa xinh
xắn… kích thích trẻ chú ý và thích chơi.

Hình ảnh đồ chơi tự tạo từ nguyên vật liệu phế thải
Mặt khác tôi nhập vai cùng chơi với trẻ để tạo sự thân thiện gần gũi và để trẻ dễ
dàng thích ứng với vai chơi của mình.

7


Bé chơi với đồ chơi
3: Tạo ra môi trường đẹp thu hút sự chú ý trẻ.

Trong một lớp học có bao nhiêu trẻ thì có bấy nhiêu sự khác biệt cá nhân.
Những sự khác biệt này bao gồm cả về thể chất, năng lực, xu hướng, hứng thú.
Và tất cả các trẻ đều có quyền đòi hỏi được quan tâm đáp ứng nhu cầu bản thân.
Bên cạnh đó các nhà giáo dục cũng thấy rằng về bản chất, phạm vi năng lực
tiềm tàng của trẻ rộng hơn rất nhiều những gì chúng thể hiện ở lớp, và để có thể
làm bộc lộ năng lực tiềm ẩn này, trẻ cần có môi trường học tập cho phép chúng
được học tập mọi lúc mọi nơi học theo nhiều cách khác nhau. Khi trẻ đến lớp,
mỗi trẻ là một cơ thể duy nhất, do đó trẻ sẽ hành động trong một môi trường
theo cách của mình. Chính vì vậy cô giáo cần tạo cho trẻ một tâm thế tốt khi ở
lớp, một khong khí tình cảm yêu thương, tôn trọng trẻ. Điều này giúp trẻ biết
nghe lời cô và phát triển khả năng bẩm sinh sẵn có của mình, hứng thú nhận
thức càng cao trẻ càng thể hiện rõ hơn năng lực của bản thân. Thậm chí hứng
thú có thể làm biến đổi một cách đáng kể hiệu quả hoạt động của trẻ. Đối với
lớp nhà trẻ 24 - 36 tháng thì hoạt động với đồ vật là hoạt động mang tính chủ
đạo. Chính những hoạt động này tạo nên sự biến đổi về chất trong tâm lý của trẻ
làm cho các hoạt động khác nhau mang một màu sắc riêng của nó. Trong trường
mầm non HĐVĐV luôn có sự hướng dẫn, tổ chức của cô giáo. trẻ được học tập
và tiếp thu tri thức dưới hình thức chơi mà học - học mà chơi. Trên giờ học trẻ
được học các kỹ năng còn trong các giờ hoạt động khác trẻ được ứng dụng các
kỹ năng đó. Hoạt động ở các góc là hoạt động cá nhân hoặc một nhóm trẻ nên
trẻ có cơ hội lựa chọn hoạt động mà trẻ ưa thích, trẻ được tự do giao tiếp, tự do
chọn đồ chơi, được trải nghiệm cảm giác hứng thú qua các trò chơi giúp trẻ tự
8


tin. Vì thế việc xây dựng môi trường giáo dục cũng là điều rất quan trọng đối
với trẻ mầm non đặc biệt là đối với trẻ ở lứa tuổi 25 - 36 tháng.
* Môi trường ngoài lớp học.
Yếu tố trường lớp cũng là yếu tố cần thiết cho sự ham thích đi học của trẻ.
Trường Mầm Non Nga Bạch có không gian rộng rãi, thoáng mát, khu vực chơi

ngoài trời sạch sẽ, đồ chơi phong phú thu hút được trẻ.

Hình ảnh về môi trường bên ngoài trường mầm non Nga Bạch - Nga sơn
Tôi sẽ dắt trẻ ra sân chơi, tổ chức nhiều trò chơi dân gian như mèo đuổi
chuột, dung dăng dung dẻ…, hoặc chơi các trò chơi vận động đơn giản như đi cà
kheo bằng lon, nhảy lò cò…, hay chỉ cần trò chuyện hoặc cho trẻ xem cảnh vật
xung quanh sân trường, cho trẻ chơi đu quay, chơi bập bênh, kể chuyện cho bé
nghe, việc này sẽ gây hứng thú và chiếm được nhiều cảm tình của trẻ.

Hình ảnh trẻ chơi đồ chơi ngoài trời, chơi trò chơi dân gian
* Môi trường trong lớp học
Ngoài việc xây dựng môi trường giáo dục ngoài trời thì việc xây dựng môi
trường giáo dục trong lớp cần chú trọng hơn nhiều.Vì thế để trẻ thích được đến
9


lớp tôi cùng với giáo viên của lớp trang trí, xây dựng môi trường giáo dục của
mình thật đẹp bằng những nguyên vật liệu sẵn có của địa phương như mo cau
tạo nên những bông hoa với sắc màu rực rỡ của màu sơn cùng với nhụy hoa
vàng xinh xắn của hộp váng sữa mà trẻ đã sử dụng xong để lại vỏ cho cô làm đồ
dùng, phù hợp với lứa tuổi của trẻ lớp tôi, phù hợp với chủ đề chủ điểm tạo
không gian mới lạ đẹp mắt để các cháu quên đi cái nỗi nhớ bố mẹ, làm quen môi
trường mới tốt hơn.

Hình ảnh : Xây dựng môi trường lớp học
Bố trí các góc chơi phù hợp khoảng cách giữa góc động và tĩnh bố trí hợp
lý cùng những hình ảnh ngộ nghĩnh, đẹp mắt với trẻ. Cô giáo cần sang tạo thêm
nhiều góc chơi, góc thiên nhiên, góc tạo hình… có nhiều đồ dùng đẹp mắt để lôi
cuốn trẻ. Khi dắt trẻ trở vào lớp, tôi cùng trẻ dạo quanh lớp, gợi hỏi trẻ những đồ
vật, đồ chơi này tên là gì để trẻ trả lời, nếu trẻ trả lời không được hoặc không

thích trả lời, tôi sẽ gợi ý và giúp trẻ trả lời.

Hình ảnh trẻ hoạt động ở các góc
10


Ngoài những đồ dùng đồ chơi mà nhà trường đã phát tôi còn làm ra những
đồ chơi tự tạo từ những nguyên phế liệu bỏ đi được phụ huynh cùng các cháu
mang đến lớp để cùng cô làm nên những đồ dùng ngộ nghĩnh như hộp thạch rau
câu làm thành những chiếc cốc, chén, hay cái bát hoặc những hộp sữa chua
lànhững con vật ngộ nghĩnh như con lợn cho trẻ chơi.

Hình ảnh những con vật ngộ nghĩnh
Để khi bế trẻ vào lớp, tôi cùng trẻ dạo quanh lớp, gợi hỏi những đồ vật, đồ
chơi này tên là gì để trẻ trả lời, nếu trẻ trả lời không được hoặc không thích trả
lời, tôi sẽ gợi ý và giúp trẻ trả lời dần dần dần trẻ ngoan lên đi học không khóc
nữa. Ngoài việc trang trí xây dựng môi trường giáo dục đẹp thì trường lớp phải,
thoáng mát, sạch sẽ được lau chùi thường xuyên bằng xà phòng thơm, nhiều đồ
chơi hấp dẫn, thu hút trẻ.
Từ khi sử dụng biện pháp trên vào đối với học sinh của lớp mình tôi thấy
các cháu có sự tiến bộ rõ rệt đạt kết quả rất tốt. Lớp tôi có 32 học sinh số cháu
hứng thú đi học đạt 29 cháu bằng 91% so với số trẻ của lớp.
4: Tập cho trẻ quen với nề nếp mới bắt đầu từ những thói quen cũ của trẻ.
- Đối với giờ ăn
Có thể vài ngày đầu, tôi vẫn sẽ chiều theo nhiều thói quen không tốt của
trẻ như: không ăn thịt, rau, đậu, ăn rất ít cơm, hay giờ ngủ phải bế lên vai ru ngủ
- nằm bên cạnh cháu mới ngủ, tiêu tiểu trong quần… Tôi sẽ từ từ tập dần thói
quen cho trẻ đến khi trẻ quen dần và hiểu chuyện tôi sẽ đưa trẻ vào nề nếp ăn
ngủ, vệ sinh. Nếu trẻ không muốn ăn nữa hoặc muốn ói cô phải ngưng cho trẻ ăn
vì nếu nôn thức ăn, trẻ sẽ rất sợ thức ăn ở trường. Khi đó cô sẽ cho trẻ uống sữa

nhằm bù lại phần ăn cho trẻ. Vài ngày sau cho trẻ ăn tăng dần lên vài muỗng
cơm hoặc cháo, trẻ sẽ dễ thích nghi với thức ăn ở trường, sau đó sẽ ăn nhanh
gọn và hết suất. Không cho trẻ ăn quà vặt trước giờ ăn để tạo sự thèm ăn cho trẻ.
11


- Đối với giờ ngủ:
Cháu chưa quen với giấc ngủ ở trường hay có cháu ở nhà không chịu ngủ
trưa tôi dỗ cháu, bế cháu để đưa cháu dần vào giấc ngủ. Đến giờ với lớp tôi giờ
ăn ngủ của các cháu rất là ngoan, vào nề nếp ăn xong rửa tay đi vệ sinh và vào
chỗ của mình nằm ngủ rất ngoan đôi khi không cần cô phải nhắc nhở.

Hình ảnh: Giờ ngủ của bé
Là giáo viên của lớp tôi luôn tạo không khí vui tơi, thoải mái cho trẻ, động
viên trẻ đi học đều, tạo điều kiện quan tâm đến những trẻ nhút nhát, giành thời
gian gần gũi, trò chuyện với trẻ để trẻ mạnh dạn, tự tin tham gia các hoạt động tập
thể giúp trẻ đợc giao tiếp nhiều hơn.
5: Tạo sự gần gũi thân thiện với trẻ.
Tôi luôn cố gắng trở thành người bạn tin cậy của trẻ khi đến lớp, luôn thu
hút trẻ vào những trò chơi nhỏ, hay vào những bài thơ, câu chuyện, ca dao, đồng
dao nhằm tạo sự quen thuộc như trẻ đang ở nhà với mẹ. Giờ ngủ nếu trẻ chưa
chịu ngủ, tôi cũng không ép trẻ vào nằm chung với các bạn, tôi sẽ để trẻ tự do
ngồi đâu trẻ thích, khi đó tôi sẽ đến nói với trẻ lại đây nằm chơi với cô, con chỉ
cần nằm chơi tí xíu khi nào các bạn ngủ dậy cô sẽ cho con về. Hoặc tôi sẽ ngồi
thuyết phục trẻ đến khi trẻ thấy buồn ngủ thì lúc đó tôi sẽ để trẻ vào gối nằm.
Khi đón trẻ tôi cũng thường dặn phụ huynh đón trẻ đúng giờ để trẻ tập
quen dần với môi trường mới và sẽ không có cảm giác bị bố mẹ bỏ lại trường.

Hình ảnh trẻ vui đến lớp cùng cô giáo
12



6: Hết lòng mến trẻ yêu nghề.
Ngoài những biện pháp giúp trẻ thích nghi sớm với trường lớp Mầm non từ
những kinh nghiệm thực tiễn và kinh nghiệm học hỏi từ đồng nghiệp tôi đã áp
dụng trong những năm học qua, tôi còn đến với trẻ của bằng chính tình thương
của mình, bằng lòng yêu nghề, yêu trẻ như chính con đẻ của mình, luôn hoà
mình vào thế giới của trẻ, luôn đáp ứng kịp thời những nhu cầu của trẻ nhưng
không vượt qua giới hạn, chăm sóc, yêu thương trò chuyện để mỗi ngày trẻ đến
lớp càng có thêm nhiều niềm vui, trẻ yêu thích đến lớp và ngày càng ngoan
ngoãn lễ phép hơn. Thậm chí có những cháu bị ốm đầu dán cao hạ sốt nhưng
sáng ngủ dậy vẫn đòi bố mẹ cho con đi học với cô giáo và các bạn chứ không
chịu ở nhà.
Sau khi các trẻ mới đã quen trường, quen lớp, quen bạn, tôi bắt đầu dạy trẻ
cách chào hỏi cô khi đến lớp, chào mẹ con đi học và thưa ba mẹ khi đi học về,
biết nói cảm ơn khi cô và mẹ cho quà, sữa, bánh…. Từ khi sử dụng biện pháp
trên vào đối với học sinh của lớp mình tôi thấy các cháu có sự tiến bộ rõ rệt đạt
kết quả rất tốt. Lớp tôi có 32 học sinh số cháu hứng thú đi học đạt 29 cháu bằng
91% so với số trẻ của lớp.
7: Tạo sự thích thú với trẻ qua giờ học, dạo chơi.
- Sau khi các cháu đã quen với môi trường lớp học, quen cô quen trường,
quen lớp, quen bạn, tôi bắt đầu dạy trẻ cách chào hỏi cô khi đến lớp, khi ra về,
chào mẹ con đi học và thưa bố mẹ con đi học về, biết nói cảm ơn khi cô và mẹ
cho quà, phát sữa. Từ đó dần đưa trẻ vào nề nếp học tập qua từng hoạt động học
trong ngày tạo sự hứng thú thoải mái không gây áp lực cho trẻ trong các hoạt
động học. Với nhiều hấp dẫn trẻ như: cô giáo đón bé trong những ngày hội ngày
lễ cô cài hoa lên áo bé hay tặng bong bóng cho bé. Có thể tổ chức các góc chơi
gây hứng thú cho trẻ như tô màu, vẽ, múa lân…
Qua các giờ học ngoài việc truyền tải kiến thức đến các cháu, thu hút các
cháu vào bài dạy của mình để các cháu không còn khóc và khi về nhà đòi bố mẹ

ngày mai con lại đi học với cô giáo. Tôi đã học tập nghiên cứu rất nhiều qua tài
liệu, công nghệ thông tin để tích lũy học hỏi kinh nghiệm cho mình những kiến
thức hay cách lên lớp tốt tạo sự thoải mái cho trẻ khi học tập không tạo áp lực
với trẻ.
Ví dụ: Qua giờ học vui nhộn như âm nhạc. Tùy vào từng chủ đề tôi áp
dụng làm những chiếc mũ xinh, hay những bộ quần áo ngộ nghĩnh, cho trình
diễn thời trang. Từ đó trẻ rất thích và hăng say học bài không tạo áp lực cho trẻ.

13


Hình ảnh: Trẻ đang hoạt động học.
Qua giờ văn học: Cô giáo luôn là người bạn tin cậy của trẻ khi đến lớp,
luôn thu hút trẻ vào những bài thơ câu chuyện, ca dao, đồng dao, hát ru nhằm
tạo sự quen thuộc như trẻ đang ở nhà với mẹ. Ngoài ra tôi còn sử dụng công
nghệ thông tin sử dụng Power Point áp dụng vào những bài dạy khiến hình ảnh
thêm sinh động rõ nét. Thay đổi nhiều hình thức trên bài dạy như các câu truyện
vừa sử dụng Power Point vừa sử dụng tranh, mô hình kết hợp hài hòa để tạo sự
tò mò đối với trẻ từ đó mỗi khi lên lớp tôi cảm thấy tự tin phấn khởi hơn khi
thấy các cháu chăm chú học tập.

Hình ảnh: Trẻ đang hoạt dộng học
Đối với những giờ học trầm: như nhận biết tập nói, hoạt động với đồ vật tôi
thường kết hợp các hoạt động âm nhạc, hay các trò chơi vào cho tiết học sinh
động không tạo sự nhàm chán đối với trẻ. Hỏi trẻ những câu hỏi đơn giản kích
thích trẻ trả lời. Tạo cho trẻ sự hứng thú khi học bài. Sử dụng những đồ chơi gây
hứng thú đối với trẻ.
- Về màu sắc: Sử dụng ba màu cơ bản để trẻ dễ ràng nhận biết ngoài ra còn
mở rộng một số màu khác để trẻ nhận biệt thêm.
14



- Chất liệu: Sử dụng nhiều chất liệu dễ kiếm dễ tìm.
- Đồ chơi đảm bảo tính giáo dục an toàn đối với trẻ.
Ví dụ: Hay đối với giờ học tạo hình:
Từ hoạt động tạo hình mà trẻ biết được thế giới tự nhiên, cuộc sống con
người vô cùng phong phú đa dạng và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau từ đó trẻ
sẽ tái tạo những cảnh vật bằng sự cảm nhận ban đầu đầy ngộ nghĩnh hồn nhiên,
đáng yêu của tâm hồn trẻ thơ thông qua các sản phẩm của trẻ. Hoạt động tạo
hình giúp trẻ hiểu một cách sâu sắc về các mối quan hệ về sự vật, hiện tượng
xung quanh trẻ. Từ đó trẻ có thái độ tình cảm, các hành vi ứng xử tốt qua việc
thể hiện các sản phẩm tạo hình. Dạy vẽ còn giúp cho trẻ bước đầu làm quen với
các phương tiện và ngôn ngữ tạo hình như: Phát triển khả năng tri giác đồ vật về
hình dáng, đường nét, cấu trúc, màu sắc, hình thành cho trẻ các thao tác tư duy
nhằm phát triển khả năng sáng tạo. Với trẻ lứa tuổi nhà trẻ hoạt động tạo hình
bao gồm vẽ tô màu…thông qua hoạt động này giúp trẻ tìm hiểu khám phá, tái
tạo lại những sự vật hiện tượng của thế giới xung quanh hình thành cho trẻ xúc
cảm, tình cảm, trẻ nhận thức được cái đẹp, biết yêu quý sáng tạo ra cái đẹp, biết
trân trọng những sản phẩm của mình làm ra, từ đó trẻ biết yêu lao động, biết giữ
gìn đồ dùng đồ chơi.

Hình ảnh trẻ đang hoạt động tạo hình
* Giờ dạo chơi:
- Tiếp đến tôi sẽ bế trẻ ra sân chơi, trò chuyện hoặc cho trẻ xem cảnh vật
xung quanh sân trường, chơi đu quay, chơi nhà bóng… kể chuyện cho bé nghe,
việc này sẽ gây hứng thú và cảm tình của trẻ. Tổ chức các trò chơi quen thuộc
như trò chơi dân gian: mèo đuổi chuột, chi chi chành chành, dung dăng dung
dẻ…. mà trẻ đã được bố mẹ đã cho trẻ chơi rồi khi trẻ đã quen dần ở các buổi
tiếp theo tôi mới tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi mới. Trò chuyện cùng với trẻ
theo các chủ đề mà cô giáo đã dạy.

15


Hình ảnh: Trẻ dạo chơi cùng cô ngoài trời.
Từ khi sử dụng biện pháp trên vào đối với học sinh của lớp mình tôi thấy
các cháu có sự tiến bộ rõ rệt đạt kết quả rất tốt. Lớp tôi có 32 học sinh số cháu
hứng thú đi học đạt 29 cháu bằng 91% so với số trẻ của lớp.
8: Tuyên truyền kết hợp với phụ huynh.
Để cùng cô giáo đưa các cháu vào nề nếp học tập hứng thú đi học thì mỗi
phụ huynh cũng góp phần không nhỏ. Tôi cùng với giáo viên phụ củ lớp luôn
động viên phụ huynh đưa con đi học đều để tạp cho các cháu thói quen trong
học tập. Trước hết, nhà trường phải giúp phụ huynh nắm được quy định của
trường, chế độ ăn, lịch sinh hoạt của học sinh. Sau đó, cha mẹ sẽ tập cho bé sinh
hoạt ở nhà gần giống như ở trường (ví dụ: 7g30 là hết đón bé tập cho cháu thới
quen ăn sáng để đi học đúng giờ), tập cho bé một số thói quen ăn, ngủ, vệ sinh...
(khi ăn không làm rơi vãi cơm, ngủ trên sạp giường chứ không nằm võng hay
nôi, biết ngồi bô...). Nói chuyện với bé về những điều thú vị ở trường mầm non
(chứ đừng dọa: “Con hư ba mẹ sẽ cho con đi trường mầm non” tạo ấn tượng
không tốt cho bé). Song song đó, hằng ngày phụ huynh cũng nên đưa bé đến
trường chơi vào giờ trả trẻ. Bé sẽ chơi ngoài sân hoặc vào trong lớp học để làm
quen với cô giáo, với đồ dùng, đồ chơi...
Cùng cô động viên khích lệ trẻ phối kết hợp liên hồi biết được những phản
ứng của trẻ để có cách khắc phục có hiệu quả hơn. Phụ huynh - Chụp ảnh của trẻ
gửi cô giáo để cô dán ảnh của trẻ vào góc hoạt động trong ngày của trẻ. Tôi
động viên phụ huynh mỗi tuần một tối cho các cháu học bài như vẽ tranh tùy
vào sở thích mỗi cháu. Cháu thích vẽ gì nên để cháy vẽ bố mẹ nên hướng dẫn
cháu tô vẽ thế nào cho đẹp. Hay cho trẻ hát cho bố mẹ, cả nhà cùng nghe động
viên khích lệ trẻ. Sáng mai trao đổi cùng cô giáo động viên khuyến khích trẻ,
đưa sản phẩm trẻ làm cho cô để cô trang trí lớp. Dùng chính đồ dùng mà trẻ
mang đến cho trẻ chơi. - Cho phụ huynh xem những sản phẩm tạo hình của trẻ

mà trẻ làm được trong giờ học. Điều đó vừa tạo cho phụ huynh sự tin tưởng ở cô
giáo vừa tạo cho cho trẻ sự thoải mái thích thú và muốn được đi học.
16


Từ những biện pháp trên mà các cháu lớp tôi kể cả việc đến lớp cũng như
trong học tập đều đạt kết quả rất tốt. Điển hình như ở hội thi ‘Bé khỏe - Bé khéo
tay” cấp trường các cháu dự thi với phần thi năng khiếu Aerobic đầy tự tin trên
sân khấu. Biễu diễn một cách tự nhiên đúng nhạc, điệu múa uyển chuyển không
kém các anh chị lớp lớn.

Hình ảnh : Trẻ dự thi năng khiếu Aerobic.
Các bé không những thể hiện tốt ở phần thi màn chào hỏi mà còn rất tự tin
ở những phần thi tiếp theo như thi cá nhan, thi chung sức. Thể hiện hết khả năng
của mình với bản lĩnh đầy tự tin của các bé. Và lớp tôi cũng đạt giải 3 cấp
trường.

Hình ảnh: Bé dự thi phần thi cá nhân
Nhìn các cháu nhà trẻ đi thi ai cũng nghĩ rằng cháu nhỏ như thế thì đi thi
làm sao có người còn nói đùa ‘lên thi khóc ấy’ nhưng khi nhìn các cháu tự tin
17


lên biểu diễn màn chào hỏi cũng như các phần thi tiếp theo ai cũng nhìn nhau
cười khen ‘bé mà giỏi thật’. Điều đó cũng làm cho phụ huynh yên tâm và phấn
khởi rất nhiều khi gửi con cho cô giáo. Lớp tôi cũng dần thu hút được rất đông
các cháu đến lớp học. và một điều thường không hay thấy ở lớp nhà trẻ đó là các
cháu lớp tôi còn đi học rất đều. Từ khi sử dụng biện pháp trên vào đối với học
sinh của lớp mình tôi thấy các cháu có sự tiến bộ rõ rệt đạt kết quả rất tốt. lớp tôi
có 32 học sinh số cháu hứng thú đi học đạt 30 cháu bằng 94% so với số trẻ của

lớp số phụ huynh phấn khởi cùng con em mình đạt 100%.
Từ đây tôi cảm thấy rất vui và phấn khởi khi mình đã đưa ra được những
biện pháp để giúp các cháu thích được đến lớp hơn.
IV. KIỂM NGHIỆM:
Qua một thời gian áp dụng những biện pháp trên, cùng với sự chỉ đạo của
Ban giám hiệu nhà trường, sự hổ trợ góp ý của các bạn đồng nghiệp trong
trường. Lớp học của tôi đã thu hoạch được những kết quả như sau:
- Đối với giáo viên:
+ Nắm chắc tâm lý của từng trẻ, phương pháp giúp cho trẻ thích đến lớp.
+ Có nhiều kinh nghiệm trong việc chiêu sinh trẻ đến lớp học.
+ Nâng cao kinh nghiệm trong giảng dạy, cũng như trong việc chăm sóc trẻ
hàng ngày..
- Đối với trẻ:
+ Qua một thời gian áp dụng những biện pháp trên tôi nhận thấy trẻ tôi
đang dạy có khả năng giao tiếp mạnh dạn hơn, thích được đi học hơn. Có cháu
bị ốm, sốt bố mẹ bảo con ốm nghỉ ở nhà với mẹ nhưng không đồng ý và đòi mẹ
đến lớp để học bài cùng cô giáo và các bạn.
+ Biết thể hiện tình cảm giao lưu giữa bạn bè, giữa trẻ và cô, thích chơi
cùng bạn và biết được nhiệm vụ của mình và bạn trong khi chơi, có thái độ tự
giác cùng bạn đến góc chơi, hứng thú trong khi chơi và có ý thức giữ gìn đồ
dùng, đồ chơi. Biết chia sẻ phân vai chơi cùng nhau một cách hòa đồng hơn.
Sau khi áp đầu năm dụng các biện pháp của mình vào việc giúp trẻ ham
thích đến lớp học kết quả đạt được trên trẻ so với kết quả khảo sát.
Trẻ hứng thú đi hoc
Tổng số trẻ Kết quả đầu Kết quả cuối
năm
năm
SL
%
SL %

32
8
25
29
91

Trẻ chưa hứng thú đi học
Kết quả đầu
Kết quả
năm
cuối năm
SL
%
SL %
24
75
3
9

Có được kết quả trên là nhờ sự quan tâm giúp đỡ của Ban giám hiệu nhà
trường đã tạo điều kiện về cơ sỡ vật chất cũng như mọi điều kiện, góp ý cho tôi

18


và thường xuyên thăm lớp của các trường bạn để tôi học hỏi đúc rút kinh
nghiệm vào việc giúp trẻ thích đến lớp.
C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT
* Kết luận:
Sau khi nghiên cứu đề tài trên, cũng như áp dụng một số biện pháp trên vào

việc ‘đưa trẻ thích được đến lớp học’của lớp tôi nói riêng tôi đã rút ra được một
số kinh nghiệm:
- khảo sát để trẻ nắm chắc tình hình tâm lý trẻ nhất là trẻ nhà trẻ.
- Giáo viên luôn nghiên cứu kỹ các phương pháp để hướng dẫn trẻ thực
hiện.
- Cần học hỏi và nâng cao nghệ thuật lên lớp, trong cách ứng xử tình huống
sư phạm. Dạy trẻ có kế hoạch bồi dưỡng thêm những trẻ yếu hơn tiếp thu chậm.
Luôn khuyến khích động viên khen ngợi trẻ tạo sự hứng thú cho trẻ.
- Xây dựng môi trường học tập.
- Kết hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường trong công tác chăm sóc
giáo dục trẻ làm đồ dùng đồ chơi phục vụ cho viêc chơi và học của trẻ.
Hơn nữa việc đưa trẻ thích đến lớp là vô cùng quan trọng hàng ngày đối
với trẻ. Vì thế là một giáo viên cần xác định đây là nhiệm vụ quan trọng phải
khắc phục mọi khó khăn chuẩn bị tốt đồ dùng, đồ chơi để tổ chức cho trẻ hoạt
động hàng ngày tạo điều kiện cho trẻ được tiếp xúc với các hoạt động hàng ngày
bằng nhiều hình thức khác nhau. Qua việc thực hiện áp dụng biện pháp mới tôi
thấy trẻ thích chơi hơn, sáng tạo hơn, linh động hơn, nhanh nhẹn hơn, thay vào
sự nhàm chán của trẻ ở những năm học trước bằng những sự hứng thú, tập
trung, giúp trẻ chơi với đồ chơi thể hiện được sự khéo léo, sự giao lưu giữa bạn
bè và trẻ.
Giúp cho giáo viên thêm phần khéo léo, sáng tạo trong việc tìm ra các giải
pháp để thực hiện tốt chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ.
Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ của bản thân đã áp dụng vào việc đưa
trẻ ham thích được đến lớp và cũng có một số kinh nghiệm rút ra từ thực tế của
lớp học để áp dụng vào. Bản thân tôi sẽ cố gắng học hỏi hơn nữa để tìm ra
những giải pháp tối ưu nhằm đáp ứng nhu cầu cho trẻ theo chương trình hiện
hành.
Từ những cơ sở thực tiễn trên, tôi nhận ra rằng giữa giáo viên, nhà trường,
gia đình trẻ phải có sự thống nhất trong toàn bộ quá trình chăm sóc, bảo vệ và
giáo dục trẻ em ở cả hai môi trường: trường mầm non và gia đình. Trẻ mầm non

còn rất non nớt, không thể tự phát triển mà có vai trò dẫn dắt của người lớn .Vì
vậy việc giáo dục mầm non phải thể hiện được vai trò chủ đạo của giáo viên,
đưa ra những yêu cầu phù hợp với đặc điểm cá nhân, vốn sống của trẻ. Qua các
bước phân tích trên, tôi đã rất đạt hiệu quả trong việc thu nhận trẻ mới và rất
19


mong sẽ có nhiều phụ huynh tin yêu gửi con luôn an tâm về cách chăm sóc, giáo
dục trẻ theo các hướng đã đề ra.
*Ý kiến đề xuất.
- Đối với phòng giáo dục.
Đề nghị với phòng giáo dục huyện nga sơn và các cấp trên quan tâm hơn
nữa đến các tài liệu dùng đồ chơi phục vụ cho hoạt động hàng ngày của trẻ nhà
trẻ. Để giáo viên có tài liệu tham khảo nâng cao nghiệp vụ của mình.
- Đối với nhà trường
Đề nghị ban giám hiệu trường tạo điều kiện cho chị em được dự giờ thăm
lớp nhiều hơn. Đặc biệt là đối với hoạt động giúp trẻ ham thích đi học để chị em
học hỏi vận dụng kiến thức vào thực tế cho mình tốt hơn.
Do đặc thù nghề nghiệp làm cả ngày, học sinh thì nhỏ nên thời gian chăm
sóc trẻ nhiều. Thời gian dành cho việc học tập, tham khảo tài liệu cũng như làm
đồ dùng còn rất hạn chế, Kiến nghị các cấp cho nhà trường được hợp đồng thêm
giáo viên để tạo điều kiện giáo viên làm việc và học tập được tốt hơn.
Nga Bạch, ngày 22 tháng 3 năm 2015
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Tôi xin cam đoan đây là SKKN
của mình viết, không sao chép
nội dung của người khác.
Người viết


Hoàng Thị Thanh Thủy

20



SKKN một số biện pháp giúp trẻ 24 36 tháng yêu thích hoạt động tạo hình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.44 MB, 28 trang )

Đề tài: Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng yêu thích hoạt động tạo hình

MỤC LỤC
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ …………………………………………Trang 2
1: Lý do chọn đề tài ………………………………………… Trang 2
2: Mục đích của đề tài ……………………………………… Trang 4
3: Bản chất cần được làm rõ của đề tài:……………………… Trang 4
4: Chọn đối tượng cho quá trình nghiên cứu:……………

Trang 4

5: Phươg pháp nhiên cứu: …………………………………… Trang 4
6: Giới hạn về không gian của đối tượng nghiên cứu: ……… Trang 5
7: Phạm vi, kế hoạch nghiên cứu………………………………Trang 5
PHẦN II: NỘI DUNG…………………………………………… Trang 5
I. Cơ sở lý luận…………………………………………………Trang 5
1. Đặc điểm tâm sinh lý của trẻ 24 – 36 tháng trong hoạt động tạo hình: Trang 5
2. Kỹ năng của trẻ 24 – 36 tháng trong hoạt động tạo hình:…………….. Trang 6
3. Vai trò của hoạt động tạo hình với sự phát triển của trẻ:………………Trang 7
II. Thực trạng hoạt động tạo hình của trẻ 24 – 36 tháng: …………… Trang 9
1. Thuận lợi …………………………………………………………Trang 9
2. Khó khăn: ……………………………………………………….Trang 10
III. Biện pháp thực hiện:……………………………………………… Trang 10
1/ Xây dựng nề nếp học tập trong giờ học trên lớp. ………………..Trang 11
2/ Tổ chức môi trường cho trẻ hoạt động tích cực, gây hứng thú, làm giàu cảm
xúc và vốn biểu tượng phong phú về đối tượng tạo hình…………………. Trang 11
3/ Phương pháp hướng dẫn phải dựa vào trẻ lấy trẻ làm trung tâm:…. Trang 15
4/ Sử dụng tranh mẫu, sản phẩm mẫu làm tăng tính tích cực sáng tạo và hướng
sự chú ý của trẻ vào đối tượng quan sát……………………………………. Trang 16
5/ Sử dụng nguyên vật liệu tạo hình:…………………………………..Trang 16
6/ Tích hợp các môn học khác: ……………………………………….Trang 20


7/ Đánh giá khen ngợi, động viên kịp thời: ………………………Trang 21
8/ Phối kết hợp với phụ huynh: …………………………………Trang 22
Giáo viên: Nguyễn Thị Ánh Tuyết

Trường Mầm Non Vĩnh Hòa

1


Đề tài: Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng yêu thích hoạt động tạo hình

VI. Kết quả: …………………………………………………………….Trang 23
V/ Bài học kinh nghiệm ………………………………………………..Trang 23
VI. Kiến nghị: ………………………………………………………….Trang 24
TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………………………………Trang 25

PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
Giáo viên: Nguyễn Thị Ánh Tuyết

Trường Mầm Non Vĩnh Hòa

2


Đề tài: Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng yêu thích hoạt động tạo hình

1. Lý do chọn đề tài
Trẻ mầm non luôn rất nhạy cảm với cái đẹp xung quanh, đây là thời kỳ phát
triển những cảm xúc thẩm mỹ – đó là những cảm xúc tích cực được nảy sinh khi trẻ
tiếp xúc trực tiếp với cái đẹp trong các nghệ thuật trong đó có nghệ thuật tạo hình.

Hoạt động tạo hình có vai trò rất lớn đối với sự nhận thức cho trẻ. Thông qua hoạt
động tạo hình trẻ có cơ hội tìm hiểu, nghiên cứu các đối tượng miêu tả để có được
hiểu biết, hình dung về đối tượng đó, từ đó trẻ xây dựng các đối tượng. Hoạt động
tạo hình là phương tiện để phát triển tư duy, trí nhớ, tưởng tượng… điều đó giúp
tăng thêm vốn hiểu biết của trẻ.
Hoạt động tạo hình cũng là con đường để giáo dục tình cảm – xã hội cho trẻ
mầm non. Trẻ được tiếp thu cái đẹp qua hoạt động tạo hình, trẻ trực tiếp trải nghiệm
các xúc cảm, các trạng thái tình cảm trong giao tiếp, học hỏi về các kỹ năng xã hội
và trẻ biết cách đánh giá các hành vi xã hội. Qua hoạt động tạo hình giúp trẻ có thói
quen tự giác làm việc.
Hoạt động tạo hình đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển thẩm mỹ
cho trẻ. Hoạt động tạo hình là một trong những hoạt động nghệ thuật. Hoạt động này
giúp cho trẻ có điều kiện thuận lợi nhất cho sự phát triển của cảm giác, tri giác thẩm
mỹ, giúp trẻ nhận ra màu sắc, hình dạng, đường nét, tỷ lệ, sự sắp xếp trong không
gian…nhận thấy được cái đặc trưng và nét đẹp trong sự vật, hiện tượng mà trẻ miêu
tả.
Hoạt động tạo hình giúp phát triển thể chất cho trẻ mầm non. Hoạt động tạo
hình giúp cho đôi bàn tay của trẻ linh hoạt, phát triển khả năng kết hợp khéo léo của
đôi tay và đôi mắt.
Hoạt động tạo hình giúp phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Trẻ tạo ra sản phẩm
tạo hình muốn giới thiệu về hoạt động đó, qua đó làm tăng thêm vốn từ và ngôn ngữ
mạch lạc cho trẻ. Qua hoạt động tạo hình còn giúp trẻ vững vàng hơn khi bước vào
trường phổ thông. Hoạt động này giúp cho trẻ biết những kiến thức sơ đẳng về tự
Giáo viên: Nguyễn Thị Ánh Tuyết

Trường Mầm Non Vĩnh Hòa

3



Đề tài: Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng yêu thích hoạt động tạo hình

nhiên, xã hội để trẻ nhanh chóng bắt kịp cùng các môn học ở trường tiểu học. Giúp
trẻ có thói quen nề nếp học tập.
Hoạt động tạo hình cùng với các hoạt động khác giúp cho sự phát triển toàn
diện của trẻ. Vậy nên chúng ta cần tạo môi trường đặc biệt là môi trường kích thích
tính tò mò, ham hiểu biết, muốn tạo ra cái đẹp cho trẻ tham gia một cách tích cực
nhất.
Hoạt động tạo hình trong trường mầm non với mục đích giúp trẻ nhận ra vẻ
đẹp của các sự vật hiện tượng xung quanh trẻ, từ đó giáo dục trẻ biết ứng xử với cái
đẹp, làm nảy sinh cho trẻ nhu cầu tái tạo và sáng tạo ra cái đẹp. Cũng như các hoạt
động khác, hoạt động tạo hình cung cấp cho trẻ các biểu tượng về sự vật hiện tượng,
phát triển thể lực cho trẻ, giáo dục đạo đức và kỹ năng giao tiếp xã hội, kỹ năng lao
động cho trẻ.Trẻ mầm non có tâm hồn nhạy cảm với thế giới xung quanh bởi thế
giới xung quanh chứa đựng bao điều mới lạ hấp dẫn. Trẻ thường tỏ ra dễ xúc cảm
với cảnh vật xung quanh, trẻ dễ bị cuốn hút trước cảnh vật có nhiều màu sắc. Một
bông hoa đẹp, một bức tranh sinh động, một đồ chơi ngộ nghĩnh cũng có thể gây
cảm xúc cho trẻ. Với đặc điểm như vậy nên năng khiếu nghệ thuật thường được nảy
sinh ngay từ tuổi ấu thơ. Trẻ biết đánh giá, khái quát, phản ánh ấn tượng của bản
thân không phụ thuộc vào thực tế. Trẻ rất thích sử dụng màu sặc sỡ mang tính chất
phản ánh biểu tượng, mỗi sản phẩm của trẻ mang một nội dung, một tên gọi khác
nhau. Trong thực tế việc tổ chức các hoạt động tạo hình cho trẻ 24 – 36 tháng đã
mang lại hiệu quả tới việc phát triển cho trẻ. Song phương pháp đó chưa thực sự
đáp ứng và đem lại kết quả mà tôi mong đợi. Các phương pháp hoạt động tạo hình
đang được sử dụng còn mang tính áp đặt. Chưa tạo được hứng thú cho trẻ, chưa khơi
gợi được sự yêu thích của trẻ.Giáo viên thường chú ý đến sản phẩm trẻ làm ra, ít chú
ý đến kỹ năng tạo hình, quá trình làm ra sản phẩm; giáo viên thiếu sự linh hoạt, sáng
tạo trong tổ chức hoạt động tạo hình. Mặt khác sự hứng thú, kĩ năng tạo ra sản phẩm
tạo hình của trẻ chưa cao, nhiều trẻ chưa biết đặt tên sản phẩm làm ra.


Giáo viên: Nguyễn Thị Ánh Tuyết

Trường Mầm Non Vĩnh Hòa

4


Đề tài: Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng yêu thích hoạt động tạo hình

Nhận thức rõ trách nhiệm to lớn của giáo viên mầm non nhất là giáo viên
nhà trẻ trong giai đoạn phát triển hiện nay tất cả các hoạt động giáo dục đều đảm
bảo:
“ Lấy trẻ làm trung tâm” là một giáo viên nhà trẻ tôi với mong muốn làm như thế
nào để trẻ có thể yêu thích và học tốt môn tạo hình, tôi đã nghiên cứu và đưa vào vận
dụng “Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng yêu thích hoạt động tạo hình”.
2. Mục đích của đề tài:
Đề xuất và lý giải một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng yêu thích hoạt động
tạo hình.
3. Bản chất cần được làm rõ của đề tài:
Nghiên cứu cơ sở lý luận về khả năng tạo hình của trẻ và thực trạng khả năng
tạo hình của trẻ.
Nghiên cứu đưa ra các giải pháp để giúp trẻ 24 – 36 tháng yêu thích hoạt động
tạo hình.
4. Chọn đối tượng cho quá trình nghiên cứu:
Biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng yêu thích hoạt động tạo hình.
5. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp lý luận: Đọc, phân tích, tổng hợp các tài liệu có liên quan nhằm
xây dựng cơ sở lý luận cho việc viết đề tài sáng kiến kinh nghiệm.
- Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tài liệu về phương pháp dạy tạo hình
cho trẻ.

- Phương pháp quan sát: Quan sát hoạt động tạo hình của trẻ, qua đó cũng đánh
giá được khả năng tạo hình của trẻ.
- Phương pháp toán học: Sử dụng phương pháp toán học để đánh giá kết quả,
tính phần trăm.
6. Giới hạn về không gian của đối tượng nghiên cứu:
Bài sáng kiến lấy đối tượng là học sinh Nhóm trẻ A Trường Mầm non Vĩnh Hòa
Giáo viên: Nguyễn Thị Ánh Tuyết

Trường Mầm Non Vĩnh Hòa

5


Đề tài: Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng yêu thích hoạt động tạo hình

7. Phạm vi, kế hoạch nghiên cứu:
Nghiên cứu trong phạm vi trường, thời gian từ tháng 5 năm 2016 đến tháng
1năm 2017.
PHẦN II: NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận:
1. Đặc điểm tâm sinh lý của trẻ 24 – 36 tháng trong hoạt động tạo hình:
Ngay từ tháng đầu tiên của cuộc đời, nhu cầu tiếp nhận ấn tượng từ thế giới
bên ngoài của trẻ đã được này sinh, trẻ thường chăm chú tìm hiểu thế giới xung
quanh, lắng nghe những âm thanh, tiếng động mạnh ở bên ngoài. Dần dần lớn lên
khả năng tiếp nhận những những ấn tượng từ thế giới bên ngoài ngày càng tốt hơn.
Trẻ đã bắt đầu sử dụng đôi bàn tay, ngón tay để tạo ra sản phẩm, tất nhiên đằng sau
đôi bàn tay là hoạt động cuả bộ não.
Hoạt động tạo hình của trẻ ở lứa tuổi này mới là bước đầu, tạo điều kiện cho
trẻ làm quen với hình, khối, màu sắc đơn giản. Nói đúng hơn hoạt động tạo hình ở
lứa tuổi này chủ yếu là hoạt động vui chơi với hình, với màu, qua đó phát triển dần ở

trẻ khả năng quan sát, khả năng vận động, giúp cho hoàn thiện cơ, khớp, đồng thời
tạo điều kiện cho trẻ sử dụng từ trong giao tiếp.
Trẻ 24 – 36 tháng hoạt động của bàn tay, ngón tay tương đối linh hoạt và khéo
léo, khả năng quan sát ghi nhớ và chú ý đã có chủ định, các đặc điểm đặc trưng hình
thành ở trẻ tương đối đầy đủ (hình dáng, màu sắc…), lứa tuổi này đang trong giai
đoạn phát triển tư duy trực quan hành động và tư duy trực quan hình tượng. Mọi
hoạt động diễn ra xung quanh trẻ đều là những đối tượng gây sự chú ý cho trẻ và
kích thích trẻ bắt chước theo do nhu cầu tìm tòi khám phá ở trẻ cao. Tuy nhiên khả
năng của trẻ còn hạn chế, trẻ dễ dao động đặc biệt trong hoạt động nặn, vẽ, … quan
sát tranh ảnh…
Khả năng nhận thức của trẻ 24 – 36 tháng

Giáo viên: Nguyễn Thị Ánh Tuyết

Trường Mầm Non Vĩnh Hòa

6


Đề tài: Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng yêu thích hoạt động tạo hình

Về cảm giác, tri giác: Ở lứa tuổi này trẻ bước đầu có tập làm chủ tri giác của
mình, biết tập chung tri giác của mình theo sự hướng dẫn của người lớn, biết kiểm
tra kết quả tri giác của mình và đã có khả năng điều chỉnh tri giác theo hướng đúng.
Về ghi nhớ: Trẻ 24 – 36 tháng ghi nhớ có chủ định bắt đầu hình thành và phát
triển.
Về tư duy: Tư duy trực quan hình tượng phát triển mạnh và chiếm ưu thế, trẻ giải
quyết các hiện tượng tư duy bằng hành động cụ thể của mình trên cơ sở trẻ được tích
lũy các hình ảnh, biểu tượng ở xung quanh trẻ. Trong tư duy đã bước đầu suy luận
nhưng chỉ dựa vào các biểu tượng, các kinh nghiệm cụ thể, vì vậy có thể trẻ suy luận

chưa chính xác chưa đúng.
Theo quan điểm của rất nhiều nhà khoa học, cách tốt nhất để học khoa học là
phải làm khoa học. Đối với trẻ mầm non làm khoa học cũng chính là quá trình khám
phá nó. Đây là những hoạt động “Tìm kiếm để phát hiện ra cái mới, cái ẩn giấu”. Ở
đó giáo viên tạo điều kiện, cơ hội và tổ chức các hoạt động để cho trẻ tích cực tìm
tòi, phát hiện những điều thú vị về các sự vật, hiện tượng xung quanh trẻ. Ngoài ra
giáo viên còn luôn phải tạo ra các tình huống, môi trường nhằm tổ chức các hoạt
động cho trẻ tiếp xúc, trải nghiệm với các sự vật, hiện tượng của môi trường xung
quanh, thông qua đó tích luỹ những hiểu biết của trẻ về đặc điểm, thuộc tính sự vật,
hiện tượng, các mối quan hệ qua lại, sự thay đổi và phát triển của chúng. Điều quan
trọng hơn cả là thông qua các hoạt động khám phá này trẻ học được các kĩ năng
quan sát, so sánh phân loại, đo lường, phán đoán, giải quyết vấn đề, chuyển tải ý
kiến của mình và đưa ra kết luận.
2. Kỹ năng của trẻ 24 – 36 tháng trong hoạt động tạo hình:
Khi sinh ra không phải ai cũng có những năng khiếu bẩm sinh, nhất là trong
lĩnh
vực nghệ thuật (tạo hình). Những hoạt động tạo hình của trẻ do người lớn giáo dục
và môi trường sống xung quanh ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển tài năng của
trẻ.
Giáo viên: Nguyễn Thị Ánh Tuyết

Trường Mầm Non Vĩnh Hòa

7


Đề tài: Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng yêu thích hoạt động tạo hình

Hoạt động tạo hình của trẻ 24 – 36 tháng mang tính thụ động, kỹ năng thực hiện
các bài tập còn vụng về chưa chính xác, sản phẩm thể hiện theo ý thích chủ quan,

thái độcủa trẻ “thực hiện theo ý nghĩ” mang tính chất vui chơi. Vì vậy để trẻ có kỹ
năng tạo hình cần có sự hướng dẫn của cô giáo nhàm phát triển và rèn luyện những
kỹ năng cơ bản cho trẻ.
Kỹ năng là yếu tố rất quan trọng để giúp trẻ tạo ra sản phẩm một cách tự tin, có
kỹnăng trẻ có khả năng điều khiển điều chỉnh hành động để thực hiện kế hoạch đã
định.
Tuy vậy kỹ năng của trẻ 24 – 36 tháng phát triển còn ở mức độ trung bình, để
thuận tiện cho việc phát triển ở giai đoạn lứa tuổi sau thì trước hết trẻ phải trang bị
tốt kỹ năng cơ bản và hành thạo ở giai đoạn lứa tuổi này.
3. Vai trò của hoạt động tạo hình với sự phát triển của trẻ:
Hoạt động dạy trẻ hoạt động tạo hình đóng vai trò vô cùng quan trọng, nó giúp
trẻ:
Phát triển nhận thức
Trong hoạt động tạo hình, trẻ từ 0-6 tuổi có nhiều cơ hội tìm hiểu, nghiên cứu
các đối tượng miêu tả để có được hiểu biết, sự hình dung về các đối tượng đó, từ đó
xây dựng các biểu tượng. Bởi vậy, có thể khẳng định rằng, hoạt động tạo hình là một
trong những phương tiện tích cực để phát triển ở trẻ khả năng hoạt động trí tuệ như:
óc quan sát, trí nhớ, tư duy, tưởng tượng. Nhờ hoạt động tạo hình mà vốn hiểu biết
của trẻ về thế giới xung quanh được tăng lên, ngày càng trở nên “giàu có” hơn cả về
lượng và chất.
Hoạt động tạo hình với các quá trình tìm hiểu, đánh giá đối tượng miêu tả và
sản phẩm tạo hình sẽ tạo điều kiện phát triển ở trẻ vốn từ, lời nói hình tượng truyền
cảm và phát triển ở trẻ ngôn ngữ mạch lạc
Phát triển giáo dục tình cảm- xã hội

Giáo viên: Nguyễn Thị Ánh Tuyết

Trường Mầm Non Vĩnh Hòa

8



Đề tài: Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng yêu thích hoạt động tạo hình

Tham gia vào hoạt động tạo hình, trẻ có nhiều điều kiện tiếp thu cái đẹp,
cái tốt trong xã hội, trải nghiệm các xúc cảm, tình cảm trong giao tiếp, học hỏi về
các kỹ năng xã hội và đánh giá các hành vi văn hóa- xã hội qua các hình tượng, các
sự kiện, hiện tượng được miêu tả. Nội dung của tạo hình là con đường dẫn dắt trẻ
nhanh chóng hòa nhập vào xã hội xung quanh.
Tham gia vào hoạt động tạo hình, trẻ sẽ trải nghiệm những xúc cảm đặc biệt
như tình yêu thương, lòng mong muốn làm điều tốt cho người khác. Đó chính là điều
kiện để hình thành ở trẻ tính chu đáo, ý thức cộng đồng, biết chia sẻ, quan tâm chăm
sóc tới người khác và các kỹ năng giao tiếp xã hội.
Quá trình hoạt động sáng tạo ra sản phẩm sẽ giúp trẻ được rèn luyện các kỹ
năng hoạt động thực tiễn, thói quen làm việc một cách tự giác, tính tích cực.
Phát triển thẩm mỹ cho trẻ
Với tư cách là một hoạt động nghệ thuật, hoạt động tạo hình tạo nên những
điều kiện thuận lợi nhất cho sự phát triển của cảm giác, tri giác thẩm mỹ: việc quan
sát, tìm hiểu các sự vật, hiện tượng giúp trẻ nhận ra các đặc điểm thẩm mỹ (hình
dáng, màu sắc, cấu trúc, tỷ lệ, sự sắp xếp không gian,…) nhận ra được những nét
độc đáo, tạo nên sức hấp dẫn của đối tượng miêu tả.
Sự thể hiện nội dung tạo hình bằng phương tiện truyền cảm mang tính trực
quan (đường nét, hình dạng, màu sắc,…) sẽ làm cho các cảm xúc thẩm mỹ của trẻ
ngày càng trở nên sâu sắc hơn, trí tưởng tượng mang tính nghệ thuật của trẻ ngày
càng phong phú.
Sự phản ánh hiện thực và biểu lộ tình cảm qua các phương tiện truyền cảm
đặc trưng cho loại hình nghệ thuật vật thể như đường nét, hình dạng, màu sắc, bố
cục, không gian,… chính là con đường lĩnh hội các kinh nghiệm văn hóa thẩm mỹ
rất phù hợp với lứa tuổi của trẻ em, trên cơ sở đó mà hình thành thị hiếu thẩm mỹ
sau này.

Phát triển thế chất của trẻ
Giáo viên: Nguyễn Thị Ánh Tuyết

Trường Mầm Non Vĩnh Hòa

9


Đề tài: Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng yêu thích hoạt động tạo hình

Hoạt động tạo hình sẽ giúp phát triển ở trẻ khả năng phối hợp, điều chỉnh hoạt
động của mắt và tay, rèn luyện sự khéo léo, linh hoạt trong vận động của tay, từ đó
giúp cho việc học viết của trẻ ở tiểu học sẽ đạt kết quả tốt.
Chuẩn bị cho trẻ đi học ở trường phổ thông
Hoạt động tạo hình góp phần không nhỏ trong việc chuẩn bị cho trẻ một kiến
thức sơ đẳng về tự nhiên, xã hội, về khoa học- kỹ thuật để giúp trẻ nhanh chóng làm
quen với các môn học mới ở tiểu học.
Hoạt động tạo hình góp phần chuẩn bị về tân lý cho trẻ bước vào học tập tại
trường tiểu học: hoạt động này giáo dục ở trẻ lòng ham muốn tiếp thu những điều
mới lạ, những phương thức hoạt động mới, giúp trẻ hình thành thói quen học tập một
cách có mục đích, có tổ chức, biết lắng nghe và thực hiện lời chỉ bảo của cô giáo.
Hoạt động tạo hình là môi trường cho trẻ rèn luyện năng lực điều khiển hành vi của
mình thực hiện nhiệm vụ đã đề ra.
II. Thực trạng hoạt động tạo hình của trẻ 24 – 36 tháng:
Hoạt động tạo hình giúp trẻ phát triển toàn diện và có thêm nhiều hiểu biết về
thế giới xung quanh trẻ. Tuy nhiên qua thực hiện trong các năm học giáo viên chúng
ta còn gặp những thuận lợi và khó khăn sau:
1. Thuận lợi
Bản thân tôi trong quá trình học tập đã có những cảm nhận sâu sắc về nội
dung làm

sao giúp trẻ yêu thích và học tốt hoạt động tạo hình. Qua đó giúp trẻ phát triển toàn
diện về các mặt : Nhận thức, thẩm mĩ, thể chất, đạo đức, ngôn ngữ một cách tốt
nhất.
Có sự quan tâm, chỉ đạo, hướng dẫn của ban giám hiệu về tổ chức hoạt động
tạo hình cho trẻ.
Luôn nhận được sự giúp đỡ, những kinh nghiệm của đồng nghiệp.
Về cơ sở vật chất đầy đủ để phục vụ cho việc dạy và học môn tạo hình.
Giáo viên: Nguyễn Thị Ánh Tuyết

Trường Mầm Non Vĩnh Hòa

10


Đề tài: Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng yêu thích hoạt động tạo hình

Nhà trường có môi trường cảnh quan sư phạm đẹpgópphần rất lớn cho trẻ
quan sát, từ đó cung cấp cho trẻ những biểu tượng thể hiện sự hiểu biết của mình về
thế giới xung quanh.
Bản thân tôi có trình độ đại học sư phạm, nhiều năm được phân công dạy lớp
nhóm trẻ 24 – 36 tháng nên đã đúc rút được một số kinh nghiệm từ việc từ việc dạy
trẻ môn tạo hình.
2. Khó khăn:
Do vốn kinh nghiệm sống của trẻ 24 – 36 tháng còn ít, khả năng tậptrung, chú
ý chưa cao, trẻ chưa biết sử dụng hết khả năng của mình để khám phá về thế giới
xung quanh.
Nhận thức của một số phụ huynh học sinh về môn học chưa đúng. Bên cạnh
một số phụ huynh nhiệt tình hỗ trợ đồ dùng phế liệu, đồ chơi cho trẻ. Còn một số
phụ huynh chưa quan tâm gì đến việc học và chơi của con em mình. Bên cạnh đó đa
số phụ huynh lo sợ con tiếp xúc với các nguyên vật liệu từ thiên nhiên, từ phế liệu sẽ

làm trẻ bệnh, nguy hiểm cho trẻ nên thường cấm trẻ không cho trẻ chơi, hoạt động
Số trẻ trong lớp chưa đồng đều về chất lượng, số ít cháu còn nhút nhát trong
khi thể hiện ý tưởng của mình.
Vì vậy, muốn cho trẻ yêu thích và học tốt hoạt động tạo hình giáo viên cần
phải phát huy tính chủ động, tích cực hoạt động của trẻ sao cho hoạt động dạy và
học phải là hoạt động hợp tác giữa giáo viên và trẻ đảm bảo luôn “ lấy trẻ làm trung
tâm”, có như vậy thì việc dạy học mới đạt hiệu quả tối ưu đối với sự phát triển của
trẻ nhằm giúp cho tiết học đạt kết quả tốt hơn.
III. Biện pháp thực hiện:
Mục đích của hoạt động tạo hình nhằm giúp trẻ cảm nhận vẻ đẹp của sự vật,
hiện tượng qua đường nét, cách sắp xếp, bố trí các hình khối, phát triển khả năng tri
giác về màu sắc, hình dạng, bố cục… Đặc biệt, hoạt động tạo hình phát triển khả
năng cảm nhận cái đẹp trong thiên nhiên, nghệ thuật, trong cuộc sống, khơi gợi ở trẻ

Giáo viên: Nguyễn Thị Ánh Tuyết

Trường Mầm Non Vĩnh Hòa

11


Đề tài: Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng yêu thích hoạt động tạo hình

những cảm xúc, tình cảm thẩm mỹ và hứng thú tham gia vào các hoạt động nghệ
thuật.
Vì vậy để giúp trẻ yêu thích và học tốt hoạt động tạo hình, tôi không ngại tìm
tòi, ứng dụng các kiến thức, phương pháp đổi mới như sau:
1/ Xây dựng nề nếp học tập trong giờ học trên lớp.
Nề nếp của trẻ là bước đầu của một tiết học, nếu chúng ta không đưa trẻ vào
nề nếp thì giờ học không đạt kết quả cao. Khi trẻ có nề nếp tốt cùng với sự hướng

dẫn khoa học của cô ngay ban đầu trẻ đã say mê với giờ học, luôn thể hiện cảm xúc,
trí tưởng tượng cho hoạt đông nghệ thuật.
Tôi đã rèn luyện nề nếp bằng cách: Xếp xen kẽ cháu mạnh dạn với cháu nhút
nhát, cháu nam xen cháu nữ. Chia tổ, đặt tên cho tổ “tổ màu xanh, tổ màu vàng, tổ
màu đỏ.Tôi luôn động viên trẻ trong tiết học, uốn nắn tác phong ngồi học cho trẻ, trẻ
ngồi đúng tư thế, không nói chuyện, không nói leo, nói phải xin phép cô, tập nói rõ
ràng, mạch lạc, đủ câu,…
Với những biện pháp trên trẻ đã có thói quen tốt trong việc xây dựng nề nếp
học tập.
2/ Tổ chức môi trường cho trẻ hoạt động tích cực, gây hứng thú, làm giàu cảm
xúc và vốn biểu tượng phong phú về đối tượng tạo hình
- Trang trí môi trường lớp học đẹp, mang tính thẩm mỹ cao và phù hợp với các
chủ đề, tạo sự mới mẻ thu hút tính tò mò, ham hiểu biết của trẻ.

Giáo viên: Nguyễn Thị Ánh Tuyết

Trường Mầm Non Vĩnh Hòa

12


Đề tài: Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng yêu thích hoạt động tạo hình

Giáo viên: Nguyễn Thị Ánh Tuyết

Trường Mầm Non Vĩnh Hòa

13



Đề tài: Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng yêu thích hoạt động tạo hình

- Bố trí góc tạo hình thích hợp với đầy đủ dụng cụ, vật liệu, tạo hình, cho phép
trẻ tự lựa chọn góc chơi của mình.
- Tổ chức các hoạt động đa dạng nhằm giúp trẻ tạo hình theo khả năng và sở
thích.

Giáo viên: Nguyễn Thị Ánh Tuyết

Trường Mầm Non Vĩnh Hòa

14


Đề tài: Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng yêu thích hoạt động tạo hình

Tạo điều kiện để trẻ thường xuyên tiếp xúc với môi trường xung quanh để
từng bước cung cấp các biểu tượng phong phú về đối tượng cho trẻ tự khám phá
bằng cách huy động sự tham gia của các giác quan, các qúa trình tâm lí khác nhau để
lĩnh hội các khía cạnh khác nhau của sự vật.
Tạo cơ hội để trẻ khám phá đối tượng (quan sát, nghe, hỏi, tiếp xúc và miêu
tả) và tự diễn đạt nhận thức cảm xúc của mình về đối tượng.
Tận dụng các thời điểm hợp lí trẻ chơi với các đồ vật, tri giác tranh ảnh nghệ
thuật.
Trong quá trình cung cấp biểu tượng về đối tượng tạo hình tôi chỉ cho trẻ thấy
được những nét đặc trưng nổi bật , những cái đẹp lý thú gần gũi trẻ. Đồng thời giúp
trẻ phân tích, so sánh tổng hợp tìm ra những đặc điểm riêng, chung của những
đồ vật cùng nhóm, cùng loại. Từ đó giúp trẻ tìm ra phương thức thể hiện trong
những tình huống khác nhau.
Ví dụ : Trẻ dùng các vật liệu khác nhau như: tăm bông, cúc áo, miếng xốp,

quả đậu bắp chấm vào màu nước để tạo thành “Vườn hoa” có bông cao, bông thấp,
bông đỏ, bông vàng

Giáo viên: Nguyễn Thị Ánh Tuyết

Trường Mầm Non Vĩnh Hòa

15


Đề tài: Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng yêu thích hoạt động tạo hình

Đặt và xắp xếp các vật liệu sao cho trẻ có thể thấy rõ và lấy được dễ dàng để
thực hiện hoạt động tạo hình vào bất cứ lúc nào trẻ thích và có thể trưng bày các sản
phẩm của mình.

Giáo viên: Nguyễn Thị Ánh Tuyết

Trường Mầm Non Vĩnh Hòa

16


Đề tài: Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng yêu thích hoạt động tạo hình

Tạo môi trường nghệ thuật xung quanh trẻ như: bầy đồ chơi đẹp, xắp xếp các
nguyên vật liệu, đồ dùng một cách hợp lý đẹp mắt,...Từ đây tạo cho trẻ cảm giác
thích thú và mong muốn được tái tạo.
3/ Phương pháp hướng dẫn phải dựa vào trẻ lấy trẻ làm trung tâm:
Trong giờ học nói chung và giờ học tạo hình nói riêng hãy để trẻ tự thể hiện,

cô luôn là người động viên, khuyến khích trẻ sáng tạo. Trẻ cần được động viên để
thể hiện ý muốn, tình cảm, cảm xúc và những hiểu biết của trẻ đối với sự vật, trẻ
muốn được lựa
chọn.
+ Cái trẻ muốn làm (nội dung)
+ Làm thế nào để đạt được (quá trình)
+ Cái hoàn thành sẽ như thế nào (kết quả, sản phẩm)
Mong muốn của trẻ cần được tự thể hiện với những phương tiện tạo hình khác
nhau.
Sự thể hiện mang tính cá nhân, bởi vì trẻ luôn tiếp cận theo đặc tính riêng của
mình.

Giáo viên: Nguyễn Thị Ánh Tuyết

Trường Mầm Non Vĩnh Hòa

17


Đề tài: Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng yêu thích hoạt động tạo hình

Tăng cường các câu hỏi gợi ý giúp trẻ củng cố và áp dụng những kinh nghiệm
đã lĩnh hội trong các hoạt động khác nhau, động viên trẻ suy nghĩ, thăm dò, tìm cách
giải quyết vấn đề của trẻ. Hãy để tự trẻ miêu tả những gì trẻ biết và có thể làm.
Ví dụ: “Hãy cho cô biết vì sao”, “Nếu như vậy thì sao”, “Vì sao cháu lại
biết”,
Với những cử chỉ, hành động, lời nói tạo ra cho trẻ thấy là trẻ được đánh giá
tốt (khá) qua việc làm của trẻ. Ví dụ: “Ôi cô rất thích tô màu ngôi trường này”, “Bức
tranh này trông đẹp quá!”
Dùng lời chỉ dẫn, trò chuyện và giải thích một cách thích hợp

- Những lời chỉ dẫn và giải thích của giáo viên khi cần thiết nhằm gợi ý cho trẻ
suy nghĩ, tưởng tượng và thể hiện vào sản phẩm tạo hình của mình một cách sáng
tạo.
- Những lời chỉ dẫn và giải thích của giáo viên có thể được thực hiện trước
hoặc trong khi tổ chức hoạt động tạo hình với cả lớp, với một nhóm hoặc cá nhân
trẻ.
- Những lời chỉ dẫn và giải thích của giáo viên ngắn gọn, rõ ràng, linh hoạt, đa
dạng và phù hợp với trẻ.
4/ Sử dụng tranh mẫu, sản phẩm mẫu làm tăng tính tích cực sáng tạo và hướng
sự chú ý của trẻ vào đối tượng quan sát.
- Lựa chọn mẫu :
+ Tranh mẫu, sản phẩm mẫu cần được lựa chọn cẩn thận, phải chứa đựng cả
những yếu tố thực, yếu tố thẩm mỹ, nghệ thuật như: Tính tạo hình, tính biểu cảm và
đặc biệt hấp dẫn, mới lạ, đa dạng, phù hợp với khả năng nhận thức của trẻ.
+ Các tác phẩm nghệ thuật được sử dụng làm mẫu như : Tranh truyện, ảnh chụp,
tranh dân gian, tranh sơn mài, tượng các tác phẩm điêu khắc và các sản phẩm thủ
công mỹ nghệ,… phải được lựa chọn phù hợp với trẻ, có sự thể hiện rõ ràng, rõ nét
các đặc điểm của sự vật như hình dáng, màu sắc, kích thước, hình khối, vị trí trong
không gian, giúp trẻ dễ quan sát. Không nên chọn những bức tranh hay sản phẩm
Giáo viên: Nguyễn Thị Ánh Tuyết

Trường Mầm Non Vĩnh Hòa

18


Đề tài: Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng yêu thích hoạt động tạo hình

mẫu có bố cục phức tạp với nhiều hình, nhiều mảng, nhiều chi tiết,…
- Sử dụng mẫu :

+ Cần hướng tới sự chú ý của trẻ không chỉ tới nội dung tác phẩm mà cần quan
tâm tới hình thức thể hiện. Cần tạo cho trẻ tập nhận xét, đánh giá thẩm mỹ của tác
phẩm bằng chính sự hiểu biết và khả năng biểu cảm của mình.
+ Tranh mẫu, sản phẩm mẫu cần được trưng bày trong lớp học một thời gian cho
trẻ quan sát nhiều lần trước khi trò chuyện về những mẫu đó.
5/ Sử dụng nguyên vật liệu tạo hình:
Khi thực hiện hoạt động tạo hình, nguyên vật liệu không thể thiếu được. Vậy để
hoạt động tạo hình có hiệu quả, việc sử dụng nguyên vật liệu tạo hình là vô cùng
quan trọng.
Nguyên vật liệu là những loại đồ dùng, dụng cụ dễ kiếm. Có thể trẻ tự kiếm như
lá cây, phế liệu hư, vỏ hộp, thùng catong, quần áo cũ, bông, vải vụn,… Chúng có thể
được sản xuất như: giấy, hồ dán, kéo, …
Sự đa dạng của nguyên vật liệu tạo hình để lựa chọn để khuyến khích khả năng
sáng tạo của trẻ. Hoạt động tạo hình phải thể hiện qua mầu sắc như: Tô, cắt, dán, vẽ,
nặn, …
Để đảm bảo khi sử dụng nguyên vật liệu tạo hình tôi cần cân nhắc những điểm
sau:
+ An toàn (không nhọn, không có cạnh sắc, không độc hại,…)
+ Rẻ tiền (những nguyên vật liệu mua ở địa phương)
+ Dễ kiếm: Ví dụ: vỏ ốc, hến, hạt na, bưởi, len, …)
+ Dễ bảo quản hay cất giữ
+ Dễ cầm: (phù hợp với tầm tay của trẻ)
+ Dễ cung cấp kinh nghiệm bao gồm cả giác quan.
+ Dễ sửa chữa
+ Tạo cơ hội để lựa chọn và sắp xếp nguyên vật liệu
+ Luôn quan sát sự tưởng tượng và sử dụng trí nhớ linh hoạt
Giáo viên: Nguyễn Thị Ánh Tuyết

Trường Mầm Non Vĩnh Hòa


19


Đề tài: Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng yêu thích hoạt động tạo hình

Vì từng đồ dùng, đồ chơi còn nhiều hạn chế tôi luôn vận động phụ huynh ủng hộ
nguyên
vật liệu, phế thải có sẵn ở địa phương.
Ví dụ: Bằng những hạt gạo, hạt đỗ, rơm, rạ, lá cây, vỏ hến, giấy vụ, … tôi có thể tạo
ra nhiều con vật nghộ nghĩnh, sinh động, những bức vẽ, các đề tài khác nhau.

Giáo viên: Nguyễn Thị Ánh Tuyết

Trường Mầm Non Vĩnh Hòa

20


Đề tài: Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng yêu thích hoạt động tạo hình

6/ Tích hợp các môn học khác:
Tích hợp là phương pháp đòi hỏi ở giáo viên sự sáng tạo linh hoạt và khéo léo
khi vận dụng, quá trình vận dụng tích hợp, cần lựa chọn nội dung phù hợp, logic,
tránh quá trình hoạt động trở lên rời rạc, chắp vá.
Ví dụ: Đối với tiết học “Tô màu ô tô” tôi chuẩn bị rất nhiều phương tiện giao
thông (đồ chơi) và chuẩn bị từ 2 – 4 tranh vẽ phương tiện giao thông
cho bé quan sát.
Khi vào bài cho trẻ hát bài “Em tập lái ôtô”. Sau đó tôi hỏi trẻ; Cả lớp vừa hát
bài gì?
Giáo viên: Nguyễn Thị Ánh Tuyết


Trường Mầm Non Vĩnh Hòa

21


Đề tài: Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng yêu thích hoạt động tạo hình

- Vậy trong lớp có những đồ chơi gì là phương tiện giao thông.
- Cho trẻ nói tên các phương tiện giao thông.
*. Sau đó tôi cho trẻ quan sát các bức tranh mà trẻ vừa được mô tả qua đồ chơi
trong lớp.
*. Giới thiệu và đàm thoại và làm mẫu cho trẻ xem
*. Trẻ thực hiện: Tôi mở băng có các bài hát trong chủ điểm gợi cho trẻ say
mê làm việc trong khi trẻ thực hiện, tôi đến từng bàn động viên khuyến khích đối với
những cháu
còn lúng túng, gợi ý cho trẻ thực hiện đúng theo yêu cầu của cô. Đối với trẻ khá tôi
gợi ý để trẻ có nhiều sáng tạo trong bài
7/ Đánh giá khen ngợi, động viên kịp thời:
Đánh giá khen ngợi, động viên kịp thời nhằm kích thích trẻ tích cực sáng tạo,
gây cho trẻ niềm tin, mong muốn hoàn thành công việc được tốt và làm thức dậy ở
trẻ cảm giác của sự thành công, giúp trẻ tích cực hoạt động, duy trì hứng thú của trẻ
trong suốt quá trình trẻ tạo hình.
- Giáo viên cần kịp thời đánh giá, khen ngợi và khai thác được cách giải quyết
vấn đề của từng cá nhân trẻ.
- Khi nhận xét sản phẩm tạo hình của trẻ cần gợi cảm xúc, hứng thú. Điều này
không chỉ nhằm thỏa mãm nhu cầu được đánh giá, khen ngợi mà còn gây ấn tượng
cho trẻ trong những hoạt động tiếp theo. Bên cạnh đó, kích thích trí tưởng tượng
phát triển khả năng biết lựa chọn, đánh giá công việc đạt được, có cái nhìn thẩm mỹ
và nhân ái đến các bài vẽ của bạn.

- Đối với những bài tạo hình chưa đẹp, giáo viên cũng phải biết chọn lọc, tìm
kiếm những điểm đạt mà trẻ đã cố gắng phù hợp với khả năng để động viên hoặc có
những lời nhận xét hóm hỉnh giúp trẻ nhận ra cái chưa đạt của mình mà vẫn không
cảm thấy buồn.
- Giáo viên phải dựa vào ý định tạo hình của trẻ, có cách nhìn, cách cảm nhận
như trẻ. Biết khai thác ý kiến khi trẻ nhận xét sản phẩm của bạn hay khi trẻ trình bày
Giáo viên: Nguyễn Thị Ánh Tuyết

Trường Mầm Non Vĩnh Hòa

22


Đề tài: Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng yêu thích hoạt động tạo hình

ý tưởng trong bài tạo hình của mình. Bên cạnh dó, giáo viên phải biết tìm kiếm, phát
hiện những nét độc đáp riêng của từng sản phẩm trong việc phối hợp từng màu sắc,
sự đa dạng của đường nét, hình khối để khen ngợi, kích thích trí tượng tượng của trẻ.
Giáo viên như một người bạn cùng tìm tòi, khám phá; cùng phát hiện, ngạc nhiên;
cùng cảm nhận, thưởng thức vẻ độc đáo, ngộ nghĩnh dễ thương trong từng sản phẩm
của trẻ.
- Việc đánh giá có thể được thực hiện ngay sau khi hoạt động tạo hình kết thúc,
hoặc có thể vào thời điểm khác khi mà trẻ đã sẵn sàng cho việc đánh giá. Với những
sản phẩm chưa hoàn thành, giáo viên vẫn tiến hành nhận xét, đánh giá và sau đó trẻ
tiếp tục hoàn thiện sản phẩm của mình ở góc tạo hình hoặc các thời điểm khác phù
hợp trong ngày (ví dụ hoạt động chiều, khoảng thời gian chờ bố mẹ trẻ đến đón).
Thậm chí tùy nội dung bài, giáo viên có thể cho trẻ mang bài về nhà tiếp tục hoàn
thiện rồi mang trở lại lớp. Ví dụ, bạn A tô màu xanh cho con thuyền đang trôi trên
mặt nước màu xanh biển. Nền trời bạn ấy cũng tô màu xanh. Cô đoán bạn A rất thích
màu xanh đúng không nào? Tuy nhiên, con hãy thử tô cánh buồm của con thuyền

màu rực rỡ hơn: đỏ hoặc da cam, con sẽ thấy cánh buồm và chiếc thuyền của mình
thật nổi bật đấy. Buổi tối về nhà con có thể thử lại nhé.
8/ Phối kết hợp với phụ huynh:
Để nâng cao hoạt động tạo hình cho trẻ và để có sự giáo dục đồng bộ giữa gia
đình và nhà trường là 1 việc làm hết sức cần thiết bởi tôi nhận thấy rằng tất cả mọi
khó khăn trong học tập không thể thiếu được vai trò giải quyết khó khăn của phụ
huynh.
Vì vậy ngay từ đầu năm học để phụ huynh hiểu thêm về hoạt động tạo hình tôi
thường xuyên gặp gỡ trao đổi với các bậc phụ huynh về tầm quan trọng của hoạt
động tạo hình trong trường mầm non nói chung và đổi mới trẻ 24 – 36 tháng nói
riêng. Hoạt động tạo hình không chỉ giúp trẻ khả năng thẩm mỹ, biết nhìn nhận cái
đẹp và đánh giá cái đẹp mà còn giúp trẻ rèn luyện đôi bàn tay khéo léo, vững chắc,
linh hoạt hơn tạo tiền đề cho các độ tuổi khác nhau.
Giáo viên: Nguyễn Thị Ánh Tuyết

Trường Mầm Non Vĩnh Hòa

23


Đề tài: Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng yêu thích hoạt động tạo hình

Bên cạnh đó trước khi tiến hành các đề tài tạo hình tôi thường xuyên trao đổi,
thông báo với phụ huynh về các đề tài để phụ huynh có thể trò chuyện với trẻ ở tại
gia đình về các đề tài đó, từ đó giúp trẻ hiểu trước, hiểu sâu hơn , có cảm xúc về đề
tài từ đó trẻ sẽ hứng thú hoạt động khi cô đưa đề tài đó ra.
Như vậy với biện pháp trên đã giúp phụ huynh nhận thức đúng đắn về tầm quan
trọng của môn học, từ đó tôi động viên khuyến khích mua thêm đồ dùng, giấy bút,
vở bé tập tô màu, tìm các hình ảnh sinh động trong sách báo, tạp chí để phụ huynh
có thể dạy trẻ. Nặn, tô màu, xé dán, chấm màu trang trí trên các tranh ảnh tạo cho trẻ

có kỹ năng hơn.
Nhắc nhở phụ huynh trẻ nên động viên khuyến khích trẻ kịp thời khi trẻ có sự cố
gắng.
VI. Kết quả:
Qua các biện pháp trên tôi nhận thấy các cháu có nhiều chuyển biến rõ nét. Trẻ
tích cực hoạt động và hứng thú hơn trong học tập, một số trẻ chưa chú ý như : (Bé
Thuận,Trà My, Lộc) nay đã tích cực tham gia học tốt hơn.
Hàng ngày tôi và trẻ cùng sưu tầm các nguyên vật liệu: Lượm lá khô ở sân
trường, lượm nắp chai… thì trẻ rất thích. Khi đưa trò chơi vào giờ hat động trẻ tham
gia nhiệt tình không nhàm chán, các trò chơi được xen kẽ giữa động và tĩnh, giúp
hoạt động giống như giờ chơi. Kết quả cháu mạnh dạn, tự tin vui tươi hơn .
Từ đầu năm việc kết hợp với phụ huynh còn gặp nhiều khó khăn nhưng nhờ
sự kiên trì lần lượt đã có nhiều phụ huynh tham gia đóng góp và thường xuyên dạy
cho trẻ ở nhà nên khi lên lớp trẻ rất mạnh dạn mổi khi trả lời cô.
Dạy trẻ mọi lúc mọi nơi trẻ biết thêm những kiến thức mà trên giờ họat động
chung Cô chưa kịp cung cấp hoặc chưa học thì trong giờ học trẻ được cung cấp nâng
cao hơn. Kết quả trẻ phát triển về nhận thức rất tốt so với trước đó.
Đa số phụ huynh đã bước đầu quan tâm rất nhiều trong việc học của các cháu,
hỗ trợ đồ dùng bằng nguyên vật liệu phế phẩm. Tích cực tham gia các hoạt động khi
cần có sự phối hợp và thật sự yên tâm hơn khi gửi con em vào trường.
Giáo viên: Nguyễn Thị Ánh Tuyết

Trường Mầm Non Vĩnh Hòa

24


Đề tài: Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng yêu thích hoạt động tạo hình

Tạo được môi trường phong phú phù hợp với nội dung của từng chủ điểm

Có kỹ năng tổ chức các hoạt động tạo hình một cách tự tin, linh hoạt
Lớp học được trang trí bằng các sản phẩm của trẻ, cô giáo đỡ vất vả khi mỗi
lần thay chủ điểm
Qua các đợt kiểm tra được nhà trường đánh giá xếp loại tốt.
V/ Bài học kinh nghiệm
Sau khi tiến hành các biện pháp trên bản thân tôi đã rút ra những bài học kinh
nghiệm sau:
- Bản thân tôi phải tự mình rèn học hỏi kinh nghiệm từ các đồng nghiệp, đầu
tư đồ dùng dạy học...
- Tích cực tìm hiểu và tự bồi dưỡng những kiến thức về nghệ thuật tạo hình.
Trong công tác chăm sóc – giáo dục trẻ :
+ Cần tạo môi trường thẩm mỹ cho trẻ hoạt động : Từ đồ dùng, đồ chơi được
bài trí đẹp mắt, ngộ nghĩnh,… đến các hoạt động của người lớn như : cách ăn mặc,
nói năng, dáng điệu và cách ứng xử giữa người lớn với nhau, giữa người lớn với trẻ
em… Tất cả được tổ chức sao cho đẹp mắt để khơi dậy ở trẻ cảm giác thích thú,
được tiếp xúc với cái đẹp và mong muốn tạo ra cái đẹp.
+ Tích cực cho trẻ tiếp xúc với thiên nhiên, để trẻ rèn luyện các giác quan,
tăng cường thu nhận các ấn tượng bên ngoài làm giàu ý tưởng tạo hình, tạo xảm xúc
và hứng thú ở trẻ.
+ Tạo cơ hội cho trẻ xem triển lãm và, tiếp xúc với các tác phẩm nghệ thuật
như những bức tranh, bức tượng nghệ thuật của các nghệ sỹ hay những bức tranh
dân gian Đông Hồ, Hàng Trống, tranh sơn mài và các loại đồ chơi dân gian, các sản
phẩm thủ công mỹ nghệ,….Thường xuyên hướng dẫn trẻ xem tranh truyện cổ tích.
Đặc biệt là những cuộc triển lãm tranh do chính các em tạo nên làm trẻ thích thú và
kích thích chúng tham gia vào hoạt động tạo hình.
+ Tận dụng các sản phẩm hay kiếm, sẵn có ở địa phương hay các sản phẩm
phế liệu để làm đồ dùng dạy học, đồ chơi và hướng dẫn trẻ cùng làm.
Giáo viên: Nguyễn Thị Ánh Tuyết

Trường Mầm Non Vĩnh Hòa


25


SKKN: Một số biện pháp để dạy tốt hoạt động vui chơi cho trẻ nhà trẻ từ 24 - 36 tháng

Chơi là một trong các hoạt động học tập của trẻ và có mục đích to lớn đối với sự phát triển toàn diện về nhân cách con người. Thông qua hoạt động vui chơi còn hình thành ở trẻ những chức năng tâm lý, những cơ sở ban đầu của nhân cách con người. » Xem thêm

Tóm tắt nội dung tài liệu

  1. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐỀ TÀI: MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỂ DẠY TỐT HOẠT ĐỘNG VUI CHƠI CHO TRẺ NHÀ TRẺ TỪ 24 – 36 THÁNG
  2. 1/LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Như chúng ta đã biết trẻ mầm non :" Học mà chơi, chơi mà học". Chơi là một trong các hoạt động học tập của trẻ và có mục đích to lớn đối với sự phát triển toàn diện về nhân cách con người. Thông qua hoạt động vui chơi còn hình thành ở trẻ những chức năng tâm lý, những cơ sở ban đầu của nhân cách con người. Không những thế mà cũng hình thành và phát triển ở trẻ các lĩnh vực sau: 1. Phát triển Thể chất 2. Phát triển Nhận thức 3. Phát triển Ngôn ngữ 4. Phát triển Tình cảm , quan hệ xã hội và thẩm mỹ Vì hoạt động vui chơi không thể thiếu đối với trể mầm non nên tôi chọn đề tài : “Một số biện phỏp để dạy tốt hoạt động vui chơi cho trẻ nhà trẻ từ 24-36 tháng ” . 2/ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU. Tôi chon đề tài : “Một số biện pháp để dạy tốt hoạt động vui chơi cho trẻ nhà trẻ từ 24-36 tháng ” nhằm mục đích giúp trẻ được vui chơi thoải mái,hoạt động tích cực .Đặc biệt là thông qua hoạt động vui chơi giup trẻ phát triển toàn diện về bốn lĩnh vực:Thể chất, Ngôn ngữ, Nhận thức, Tình cảm xã hội và thẩm mỹ. 3/ĐỐI TƢỢNG PHAM VI NGHIÊN CỨU. Nghiên cứu sâu về hoạt động vui chơi cho trẻ mầm non từ 24- 36 tháng tuổi trường mầm non hoa mai . 4/ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU -Tìm ra phương pháp, biện pháp hay nhất, tốt nhất giúp giáo viên chủ động trong việc dạy tốt hoạt động vui chơi cho trẻ nhà trẻ
  3. -Giúp trẻ được vui chơi một cách thoải mái ,tích cực nhất. 5/PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. - Phương pháp quan sát các hoạt động dạy của giáo viên,hoạt động chơi của học sinh -.Phương pháp trải nghiệm. -Qua nghiên cứu sách vở, chuyên đề,tài liệu có liên quan đến hoạt đông vui chơi của trẻ nhà trẻ . 6NÔI DUNG ĐỀ TÀI. -Nghiên cứu về cơ sở lí luận liên quan đến đề tài. -Tìm hiểu về thực trạng của trẻ từ 24-36 tháng tuổi,của giáo viên, của môn hoạt động vui chơi. -Đề ra biện pháp,giải pháp để thực hiện đề tài. .B NỘI DUNG CỦA ĐỀ TÀI NGHIấN CỨU Chƣơng I Cơ sở lí luận liên quan đến đề tài nghiên cứu. 1/Cơ sở pháp lí: Chương trỡnh giỏo dục mầm non đựoc biên soạn trên cơ sở quy định của luật giáo dục và đó được bộ trưởng bộ giáo dục và đào tạo kí ban hành theo thông tư số 17/2009/TT-BGDDT ngày 25/7/2009.Chương trỡnh giỏo dục mầm non được tiến hành nghiên cứu xây dựng từ năm 2002 theo quy định khoa học với sự tham gia của các nhà khoa học, nhà sư phạm ,cán bộ quản lớ giỏo dục ,giỏo viờn mầm non
  4. với mục tiờu là: giỳp trẻ em phỏt triển về thể chất, tỡnh cảm , trớ tuệ, thẩm mĩ, hỡnh thành những yếu tố ban đầu của nhõn cỏch . Với yờu cầu về nội dung giỏo dục mầm non là: phự hợp với sự phỏt triẻn tõm sinh lớ ở trẻ em , hài hũa giữa nuụi dưỡng , chăm sóc và giáo dục .Giúp trẻ em phát triển cơ thể cân đối, khỏe mạnh,nhanh nhẹn . Cung cấp kĩ năng sống phù hợp lứa tuổi. Giỳp trẻ em biết kớnh trọng , yờu mến, lễ phộp với ụng bà , cha mẹ , cụ giỏo .Yờu quý anh , chị, em, bạn bố. Thật thà, mạnh dạn, tự tin, hồn nhiờn, yờu thớch cái đẹp, ham hiểu biết thích đi học. Với yêu cầu về phương pháp giáo dục mầm non là: Đối với nhà trẻ phương pháp giáo dục phải chỳ trọng sự giao tiếp thường xuyên, thể hiện sự yêu thương , gắn bó của người lớn đối với trẻ. Chú ý đặc điểm cá nhân của trẻ để lựa chọn phương pháp giáo dục phù hợp .Tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ được tích cực hoạt động, giao lưu cảm xúc, hoạt động với đồ vật và vui chơi. 2/Cơ sở lí luận: Đối với trẻ mầm non “ học mà chơi, chơi mà học ” nhưng học phải đi đôi với hành, đó cũng là 1 trong nhưng phương tiện để phát triển trí thông minh cho trẻ ngay từ khi cũn nhỏ. Thụng qua hoạt động vui chơi cũn nhằm phỏt triển cho trẻ về mặt thể chất: rốn luyện sức khỏe, sự dẻo dai cho trẻ cung cấp cho trẻ hiểu biết về cơ thể mỡnh, tập cho trẻ 1 số kĩ năng giữ gỡn vệ sinh cơ thể, vệ sinh môi trường, tự phục vụ bản thân,… Rèn luyện và phát triển kĩ năng vận động và cỏc tố chất thể lực: nhanh nhẹn, dẻo dai, linh hoạt. Phát triển năng lực các giác quan thông qua đó trẻ được phát triển 1 cách hài hũa, được tiếp xỳc thực với cuộc sống của mỡnh, biết thể hiện năng lực, sự hiểu biết của bản thõn. VD: Trũ chơi: Máy Bay. Trũ chơi này giúp trẻ biết thay đổi vận động 1 cách kịp thời theo tớn hiệu, phát triển vận động chạy, ngồi xuống,đứng lên… Thông qua hoạt động vui chơi cũn phỏt triển cho trẻ về mặt nhận thức. Qua trũ chơi cung cấp cho trẻ hiểu biết về thế giới xung quanh và hành động hợp lí trong môi trường đó. Thông qua trũ chơi trẻ cũn nhận biết được màu sắc, kích
  5. thước,…Từ đó hỡnh thành và phát triền về năng lực, trí tuệ cho trẻ (Quan sát, phân tích, so sánh, phân loại). Phát triển ở trẻ tính tũ mũ, ham hiểu biết, khả năng chú ý, tưởng tượng từ nhỏ, khả năng sáng tạo, làm việc độc lập,… VD: Trũ chơi:- Thiếu bạn nào?, -Cỏi gỡ biến mất?, - Thờm gỡ thiếu gỡ?.......Qua cỏc trũ chơi này việc phát triển ở trẻ khả năng chú ý, quan sỏt, phõn tớch, so sỏnh. Thông qua hoạt động vui chơi cũn phỏt triển ngụn ngữ cho trẻ như rèn luyện kĩ năng nghe hiểu, trả lời khi được hỏi. Để giao tiếp với mọi người xung quanh. Qua đó trẻ cũng thu được những kinh nghiệm sống cho bản thõn. Trẻ cũn biết diễn đạt ý nghĩ và mong muốn của mỡnh, biết thể hiện tỡnh cảm, cảm xỳc của mỡnh đối với mọi người xung quanh, với đồ chơi, với cây,… hoa quả xung quanh trẻ. VD: Trũ chơi:- Bỳp bờ mặc gỡ?, - Con gỡ kờu thế nào?, - Cỏi gỡ trong tỳi?,… Cỏc trũ chơi này đều rèn luyện ngụn ngữ cho trẻ, phát triển kĩ năng nghe, hiểu, trả lời cõu hỏi. Thông qua hoạt động vui chơi cũn nhằm phỏt triển về mặt tỡnh cảm,quan hệ xả hội và thẩm mĩ cho trẻ : cung cấp cho trẻ một số hiểu biết về hiện tượng xó hội xung quanh trẻ.Từ đó hỡnh thành ở trẻ tỡnh cảm, thỏi độ tích cực với cộng đồng, với môi trường xung quanh trẻ.Giáo dục trẻ sự tự tin, tính tích cực, tính sáng tạo theo năng lực của bản thân. VD:Thụng qua trũ chơi :-Bỏc sĩ - Bỏn hàng. 3/Cơ sở thực tiễn: -Căn cứ vào thực tế, vào kết quả các tiết dạy hoạt động vui chơi -Căn cứ vào nhu cầu và sự hứng thỳ của trẻ.
  6. -Căn cứ vào sách hướng dẫn tổ chức thực hiện chương trỡnh giỏo dục mầm non nhà trẻ (3-36 t Chƣơng II Thực trạng của đề tài: 1/ khỏi quỏt phạm vi: Nghành giỏo dục huyện Sông Hinh trong những năm gần đây đó quan tõm nhiều hơn với bậc học mầm non . Để hũa nhập với sự đổi mới của các bậc học khác thỡ bậc học mầm non cũng đó tiến hành đổi mới để phù hợp với sự đổi mới chung của giáo dục cả nước ,cũng như của thế giới. Trường mầm non Hoa Mai đó và đang thực hiện chương trỡnh mầm non mới và là trường dẫn đầu trong khối mầm non của huyện nhà. 2/Thực trạng . Trường mầm non Hoa Mai đang từng bước phấn đấu đạt trường chuẩn quốc gia. Nhưng hiện nay trường cũn gặp nhiều khú khăn về cơ sở vật chất ,về trang thiết bị phục vụ cho việc dạy và học. Đồ dùng đồ chơi cho trẻ trải nghiệm, khám phá chưa phong phú. trong thời gian đầu thực hiện chưong trỡnh đổi mới việc tổ chức vui chơi cho trẻ cũn gặp nhiều khó khăn như cũn thiếu đồ dùng đồ chơi. Số trẻ trong một lớp đông . Cũn một số ớt giỏo viờn hiểu chưa sõu tác dụng cũng như cách tổ chức hoạt động vui chơi cho trẻ. 3/Nguyờn nhõn thực trạng : -Đồ dùng đồ chơi cho trẻ cũn chưa phong phú. -Các hoạt động chơi của trẻ chưa được chú trọng đúng mức. -Số trẻ trong lớp đông mà nhận thức của trẻ nhà trẻ cũn hạn chế nờn việc tổ chức hoạt động vui chơi cho trẻ cũn gặp khú khăn (quy định số trẻ cho một trũ chơi là từ 4-5 trẻ hoặc 6-8 trẻ cho một trũ chơi) nờn việc tổ chức cho trẻ hoạt động vui chơi
  7. Chƣơng III Biện pháp ,giải pháp chủ yếu để thực hiện đề tài. 1/Cơ sở để đề xuất giải pháp: Qua tỡm hiểu về tõm sinh lớ trẻ ở lứa tuổi 24-36 thỏng tuổi. Qua thực tế giảng dạy theo phương pháp khuyến khích tính độc lập và tính tích cưc,chủ động của trẻ,cùng với sự quan tâm của giáo viên đối với môn hoạt động vui chơi .Tôi có đưa ra một số biện pháp,giải pháp để dạy tốt môn hoạt động vui chơi . 2/Cỏc giải phỏp chủ yếu: *Để dạy tốt môn hoạt động vui chơi trước hết người giáo viên cần nắm được yêu cầu chính của hoạt động vui chơi là: -Trẻ phải tớch cực, chủ động, hứng thỳ trong khi chơi ,biết chơi hũa đồng cùng các bạn. -Trẻ biết giao tiếp và làm được một số thao tỏc liờn tiếp trong trũ chơi thao tác vai. -không ném vứt ,đập phá đồ chơi, biết cùng cô thu dọn đồ dùng đồ chơi vào nơi quy định. Để từ đó có phương pháp dạy tốt. *Để khắc phục tỡnh trạng thực tế của trường lớp là : -Đồ dùng đồ chơi cũn thiếu:Thỡ cỏc giỏo viờn cần cố gắng hết sức mỡnh để làm mới, làm bổ sung những đồ dùng cũn thiếu,đó hư hỏng. Hàng năm trường đó tổ chức thi đồ dùng dạy học -Đó cũng là dịp để cho các giáo viên bổ sung những đồ dùng cũn thiếu. -Số trẻ trong lớp đông mà việc tổ chức hoạt động vui chơi cho trẻ như vậy sẽ gặp khó khăn(quy định số trẻ cho một trũ chơi là từ 4-5 trẻ hoặc 6-8 trẻ cho một trũ chơi). Để khắc phục tỡnh trạng này thỡ cỏc cụ giỏo phải chia nhỏ số trẻ ra thỡ mới thực hiện được việc tổ chức vui chơi cho trẻ.
  8. - Để giáo viên hiêủ sâu hơn nữa tác dụng , cũng như cách tổ chức giờ hoạt đông vui chơi cho trẻ nhà trẻ thỡ trước hết giáo viên cần nắm được tác dụng của việc tổ chức hoạt động vui chơi cho trẻ là: Thụng qua hoạt động vui chơi nhằm giúp trẻ phát triển trớ thụng minh, ham hiểu biết, phỏt triển cho trẻ về mặt thể chất : rèn luyện sức khỏe, sự dẻo dai cho trẻ cung cấp cho trẻ hiểu biết về cơ thể mỡnh, tập cho trẻ 1 số kĩ năng giữ gỡn vệ sinh cơ thể, vệ sinh môi trường, tự phục vụ bản thân,… Rốn luyện và phát triển kĩ năng vận động và các tố chất thể lực: nhanh nhẹn, dẻo dai, linh hoạt. Phát triển năng lực các giác quan thông qua đó trẻ được phát triển một cách hài hũa, được tiếp xúc thực với cuộc sống của mỡnh, biết thể hiện năng lực, sự hiểu biết của bản thõn…. Tiếp theo giáo viên phải nắm được mục tiờu của giỏo dục mầm non là: giỳp trẻ em phỏt triển về thể chất, tỡnh cảm , trớ tuệ, thẩm mĩ, hỡnh thành những yếu tố ban đầu của nhân cách .Với yêu cầu về nội dung giáo dục mầm non là: phự hợp với sự phỏt triển tõm sinh lớ ở trẻ em , hài hũa giữa nuụi dưỡng , chăm sóc và giáo dục .Giúp trẻ em phát triển cơ thể cân đối, khỏe mạnh, nhanh nhẹn . Cung cấp kĩ năng sống phù hợp lứa tuổi.Kớch thớch tớnh tũ mũ, ham hiểu biết, thích đi học. Với yêu cầu về phương pháp giáo dục mầm non là: Đối với nhà trẻ phương pháp giáo dục phải chú trọng sự giao tiếp thường xuyên, thể hiện sự yêu thương , gắn bó của người lớn đối với trẻ. Chú ý đặc điểm cá nhân của trẻ để lựa chọn phương phỏp giỏo dục phự hợp .Tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ được tích cực hoạt động, giao lưu cảm xúc, hoạt động với đồ vật và vui chơi. Tiếp theo là Giáo viên phải nắm được yêu cầu chính của hoạt động vui chơi, nắm được yêu cầu cụ thể của từng bài ,phải linh hoạt, phối hợp giữa phương pháp cũ và mới trong cách tổ chức giờ hoạt động vui chơi để trẻ không cảm thấy nhàm chán. Biết khắc phục những khó khăn của trường lớp.Biết chọn trũ chơi phù hợp với điều kiện ở trường lớp,điều kiện ở địa phương .Biết duy trỡ tớnh tớch cực ở trẻ, biết giúp đỡ, tham gia chơi cùng trẻ khi cần thiết, biết thay đổi đồ chơi để tránh gây nhàm chán cho trẻ…Có như vậy giờ hoạt động vui chơi sẽ đạt hiệu quả cao. *Để học sinh khụng cảm thấy nhàm chỏn trong giờ hoạt động vui chơi thỡ cụ giỏo cần nắm vững cỏc bước sau :
  9. -Giỏo viờn giới thiệu tên góc chơi hoặc tên trũ chơi. -Giỏo viờn giới thiệu nội dung chơi đối với hoạt động chơi ở góc hoặc quy định sân chơi, cách chơi đối với trũ chơi .(Tựy theo trũ chơi mà giỏo viờn làm mẫu kốm theo giải thớch hoặc chỉ giải thích cách chơi cho trẻ hiểu , rồi cùng chơi với trẻ) VD:Trũ chơi :Gà trong vườn rau. Đối với trũ chơi này giỏo viờn chỉ cần giới thiệu tờn trũ chơi, quy định sân chơi, cách chơi ,rồi cùng trẻ chơi -chứ không cần làm mẫu cách chơi. VD:Trũ chơi:Cắp cua bỏ giỏ. Đối với trũ chơi này đũi hỏi sự khộo lộo của cỏc ngún tay nờn khụng phải trẻ nào cũng chơi được trũ chơi một cỏch dễ dàng –Vỡ vậy giỏo viờn cần làm mẫu có giải thích cách chơi để trẻ dễ hỡnh dung cách chơi vỡ trẻ chơi được trũ chơi thỡ trẻ mới hứng thú chơi . -Giáo viên phải biết bao quát, giúp đỡ, tham gia khi cần thiết như: cung cấp đồ chơi, bổ sung kiến thức , chỉ bảo kĩ năng , uốn nắn hành vi…đúng lúc ,kịp thời cho trẻ . VD:Trũ chơi :Bác sĩ. Đối với trũ chơi này giáo viên nên giúp đỡ trẻ một số câu giao tiếp giữa bác sĩ và bệnh nhân như hỏi han về bệnh tật, dặn dũ uống thuốc…Nếu trẻ cú hành vi nộm, vứt ,đập phá đồ chơi cô phải là người uốn nắn hành vi đó ngay, kịp thời . VD:Trẻ chơi ở 3 góc thỡ giỏo viờn nờn bao quỏt chung cả 3gúc để có sự giúp đỡ kịp thời về cách chơi hoặc gợi ý trẻ về hướng chơi, giúp trẻ nghĩ ra nhiều cách chơi, trẻ sẽ hứng thú chơi hơn, hoặc cụ sẽ uốn nắn gúp ý kịp thời những hành vi chưa đúng như: Ném ,vứt ,đập, giành đồ chơi với bạn…. Tựy theo trũ chơi mà giáo viờn có sự tham gia ,giúp đỡ,chỉ bảo,uốn nắn trẻ . -Duy trỡ hoạt động tích cực ở trẻ : giáo viên có thể tham gia vào hoạt động chơi của trẻ ở các góc chơi hoặc các trũ chơi để kịp thời giúp đỡ trẻ một số câu giao tiếp hoặc giúp đỡ trẻ về hướng phát triển của trũ chơi giúp trẻ chơi tích cực, sáng
  10. tạo.Muốn được như vậy giỏo viờn cần biết cỏch giới thiệu trũ chơi, tham gia khi cần thiết, bao quỏt tốt, quản lớ tốt quỏ trỡnh chơi của trẻ. *Giới thiệu trũ chơi ,góc chơi : Là một bước không thể thiếu được nó giỳp trẻ làm quen với điều kiện chơi trong lớp, giúp trẻ chủ động tỡm kiếm đồ chơi, thu dọn và cất đồ chơi đúng nơi quy định. Nhưng giới thiệu phải tiến hành ngay từ đầu giờ chơi, tùy theo từng trường hợp cụ thể là chơi ở góc hay chơi trũ chơi, chơi trong nhà hay chơi ngoài trời để giáo viên có sự chủ động trong việc giới thiệu cách chơi . -Đồ chơi cho trẻ chơi phải đảm bảo an toàn ,vệ sinh, đảm bảo tính thẩm mĩ , đồ chơi để vào cỏc gúc tựy thuộc theo chủ điểm, tựy thuộc vào mục đích, vào thời điểm cụ thể, đồ chơi trong góc nên thay đổi luân phiên để tránh gây nhàm chán cho trẻ. *Ngoài hoạt động chơi ở các góc giáo viên cần tổ chức cho trẻ chơi cỏc trũ chơi như: +Trũ chơi để phát triển ngụn ngữ: Bỳp bờ mặc gỡ? Con gỡ kờu thế nào Tiếng kờu của cỏi gỡ?... +Trũ chơi để nhận biết phân biệt: -Tỡm đúng màu. -Tỡm đúng hỡnh -Hỡnh khối gỡ trong tỳi + Trũ chơi để luyện khéo tay : Tay đẹp . Cua bũ. Xõu hạt ….
  11. +Trũ chơi vân động : Mèo và chim sẻ. Chim sẻ và ụtụ…. +Trũ chơi thao tác vai:Nấu ăn Bỏn hàng Bỏc sĩ. +Trũ chơi dân gian: Chi chi chành chành. Lộn cầu vồng. Kéo cưa lừa xẻ…. Những trũ chơi này có thể tổ chức trong nhà hoặc ngoài trời . Nếu tổ chức được các trũ chơi này ở ngoài trời cho trẻ sẽ giúp trẻ được hít thở không khí trong lành, đựơc sưởi nắng, thỏa món nhu cầu vận động của trẻ, nhu cầu khỏm phỏ thiờn nhiờn của trẻ. Nhưng hoạt động ngoài trời có thể thay đổi tùy theo thời tiết, Theo sự hứng thú của trẻ trong thời gian tổ chức hoạt động chơi ở ngoài trời thỡ giỏo viờn nờn tổ chức cỏc trũ chơi vận động, trũ chơi dõn gian. Giỏo viờn phải bao quỏt, chỉ dẫn cho trẻ chơi an toàn hiệu quả, dạy trẻ biết tận dụng môi trường để rốn luyện thể lực . Nếu tổ chức tốt hoạt động ở ngoài trời cho trẻ sẽ tạo cho trẻ cảm xúc tốt khi trẻ được chơi theo ý thớch . Qua hoạt động vui chơi giáo dục trẻ biết yêu lao động, biết giúp đỡ bạn bè, làm việc đến nơi đến chốn … nhằm phỏt triển toàn diện cho trẻ về mọi mặt để hoàn thiện dần nhân cách. C.KẾT QUẢ ÁP DỤNG ĐỀ TÀI SAU MỘT NĂM THỰC HIỆN: Qua một năm thực hiện đề tài đạt được các kết quả sau: - Giáo viên đó hiểu sõu hơn về tác dụng cũng như cách tổ chức hoạt động vui chơi đối với trẻ nhà trẻ từ 24-36 thỏng. - Giáo viên đó khắc phục được một số khó khăn của trường, lớp. Chuẩn bị đầy đủ đồ dùng đồ chơi, nguyên vật liệu cho trẻ được vui chơi.
  12. -Giáo viên biết linh hoạt, kết hợp giữa phương pháp cũ và phương pháp mới -Khuyến khích được tính tích cực ở trẻ, động viên trẻ tham gia vào hoạt động chung. -Tạo điều kiện cho trẻ khám phá,trải nghiệm. -Trẻ tập trung chỳ ý vào nội dung cụ giỏo đó hướng dẫn . -Trẻ đó biết chơi hũa đồng với bạn. Không vứt, ném, đập phá đồ dùng đồ chơi. -Giúp trẻ tích lũy kinh nghiệm phong phú hơn. D. Kết luận và kiờn nghị : 1/Kết luận: Trờn đây là SKKN:> nhằm giỳp cỏc giỏo viờn nhà trẻ thấy rừ hơn tác dụng và cách tổ chức tốt hoạt động vui chơi cho trẻ nhà trẻ . Rất mong sự gúp ý của cấp trờn bảng sỏng kiến của tụi được hoàn thiện hơn. 2/Kiến nghị: -Tụi rất mong cấp trờn hỗ trợ, cấp phỏt thật nhiều đồ chơi, tranh ảnh, lụ tụ, sỏch bỏo, tài liệu, băng hỡnh, liên quan đến các hoạt động học, chơi của trẻ nhà trẻ . Hai riờng ngày2 thỏng 11 năm2010 Người viết Lõm Thị Hoà
  13. 1 A.PHẦN MỞ ĐẦU 1.Lí do chọn đề tài. 2.Mục đích nghiên cứu. 3.đối tượng phạm vi ngiên cứu. 4.nhiệm vụ nghiờn cứu. 5.Phương pháp nghiên cứu. 6.nội dung đề tài. 2 b.NỘI DUNG ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU Chƣơng 1: Cơ sở lí luận liên quan đến đề tài nghiên cứu. 1.Cơ sở pháp lí. 2.Cơ sở lí luận 3.Cơ sở thực tiễn. Chƣơng 2: Thực trạng của đề tài. 1.khỏi quỏt phạm vi. 2.Thực trạng. 3. Nguyờn nhõn thực trạng. Chƣơng 3: Biện pháp giải pháp chủ yếu của đề tài.
  14. 1.Cơ sở đề xuất giải pháp. 2.Cỏc giải phỏp chủ yếu. 3.Tổ chức triẻn khai thực hiện 3 C.KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1.Kết luận. 2.Kiến nghị. 4 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

Ngôn ngữ có vai trò rất lớn trong cuộc sống của con người. Nhờ ngôn ngữ mà con người có thể trao đổi với nhau những hiểu biết, truyền cho nhau những kinh nghiêm, tâm sự với nhau những điều thầm kín.. Bác Hồ của chúng ta đã dạy: “Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn, tôn trọng nó”
Trong công tác giáo dục thế hệ mầm non cho đất nước, chúng ta càng thấy rõ vai trò của ngôn ngữ đối với việc giáo dục trẻ thơ.
Dạy tiếng mẹ đẻ cho trẻ lứa tuổi mầm non đặc biệt là lứa tuổi nhà trẻ 24- 36 tháng tuổi có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Ngôn ngữ của trẻ phát triển tốt sẽ giúp trẻ nhận thức và giao tiếp tốt góp phần quan trọng vào việc hình thành và
phát triển nhân cách cho trẻ. Việc phát triển ngôn ngữ mạch lạc trong giao tiếp sẽ dễ dàng tiếp cận với các môn khoa học khác ở độ tuổi mẫu giáo: môi trường xung quanh, làm quen với toán, âm nhạc, tạo hình… Mà điều tôi muốn đề cập ở đây là để ngôn ngữ của trẻ phát triển thuận lợi, một trong những điều kiện quan trọng là trẻ tích lũy được nhiều vốn từ và trên cơ sở hiểu biết đầy đủ ý nghĩa của những từ đó, trẻ biết sử dụng” số vốn” đó một cách thành thạo.
Nhưng trên thực tế, trể 24- 36 tháng tuổi ở lớp tôi các cháu dùng từ không chính xác, nói ngọng, nói không đủ câu, nói câu không trọn nghĩa chiếm một số ượng không nhỏ và rất khó cho việc trẻ tiếp cận các môn học khác sau này bởi trẻ một phần nghéo nàn về vốn từ, một phần trẻ không biết diễn đạt sao cho mạch lạc.
Xuất phát từ những lý do trên mà tôi chọn đề tài: “Kinh nghiệm phát triển vốn từ cho trẻ lứa tuổi 24- 36 tháng tuổi” làm đề tài nghiên cứu.

II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
1.Cơ sở lý luận của vần đề: Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội đặc biệt vì nó ra đời và tồn tại cùng với sự hình thành và phát triển của xã hội loài người, ngôn ngữ dùng để phục vụ ,mọi thành viên trong xã hội từ việc học tập, lao động đến việc vui chơi giải trí. Có thể nói rằng trong bất kì lình vực hoạt động nào của con người cũng cần đến ngôn ngữ.
Ngôn ngữ giúp cho người trao đổi tư tưởng tình cảm, bộc lộ những cảm xúc và xác lập những mối quan hệ giữa thành viên này với thành viên khác trong xã hội.Ngôn ngữ có thể nói là một thứ công cụ để tổ chức xã hội,để duy trì mối quan hệ giữa người với người trong xã hội. Quá trình phát triển ngôn ngữ là quá trình cung cấp từ ngữ cho trẻ, góp phần là phong phú ngôn ngữ đẩy mạnh quá trình phát triển trí tuệ và tình cảm đạo đức cho trẻ, Có thể nói rằng rèn luyện và phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non là góp phần tích cực vào việc trang bị cho thế hệ mầm non một phương tiện mạnh mẽ để tiếp thu kinh nghiệm quý báu của thế hệ cha anh, đồng thời tạo điều kiện cho các cháu lĩnh hội các kiến thức, những hiểu biết mới lạ về thế giới xung quanh.
Ngôn ngữ giữ vai trò quan trọng như vậy trong cuộc sống, nhưng là thế nào để ngôn ngữ phát triển và muốn có ngôn ngữ phát triển thì chúng ta không thể nói đến việc phát triển vốn từ cho trẻ. Từ là đơn vị có sẵn và cơ bản của ngôn ngữ, là vật liệu chủ yếu tạo nên câu, xây dựng lời nói. Trong cuộc sống không có vốn từ thì không có ngôn ngữ hoặc vốn từ chậm phát triển thì ngôn ngữ cũng chậm phát triển và ngược lại. Vốn từ phát triển phong phú thì ngôn ngữ cũng phát triển phong phú. Khi con người biết sử dụng nhiều loại từ một cách chặt chẽ thì họ sẽ có một cách giao tiếp vững vàng tự tin trong bất kỳ lĩnh vực nào của xã hội.

Để có vốn từ phát triển trước tiên ta phải bắt đầu phát triển ngôn ngữ cho rẻ ngay từ lứa tuổi mầm non vì ở lứa tuổi này phát triển vốn từ là giúp trẻ nắm được nhiều từ, hiểu được ý nghĩa của từ, biết sử dụng từ trong giao tiếp. Phát triển từ cho trẻ là quá trình hình thành giúp trẻ làm quen với các từ mới, củng cố vốn từ làm cho vốn từ phong phú tích cực hóa ngôn ngữ cho trẻ.Quá trình này iên quan chặt chẽ với giai đoạn nhận thức tiếp theo của trẻ để hình thành các biểu tượng về thế giới xung quanh..

Đặc biệt trẻ ở lứa tuổi 24- 36 tháng tuổi, giai đoạn này người ta gọi là giai đoạntiền ngôn ngữ vì đặc điểm sinh lý ở lứa tuổi này có vùng ngôn ngữ bắt đầu hình thành và phát triển mạnh, do đó mà trẻ được tác động mạnh mẽ về ngôn ngữ từ phía môi trường xung quanh trẻ, thì vùng ngôn ngữ của trẻ có điều kiện phát triển nhanh. Nhưng trong thực tế môi trường gia đình:ông, bà., bố, mẹ…hay môi trường xã hội: cô giáo còn ít quan tâm đến việc phát triển vốn từ cho trẻ nên nhìn chung vốn từ của trẻ còn nhiều hạn chế. Ngoài ra tôi tự tìm tòi biện pháp đúc rút kinh nghiệm từ thực tế dạy trẻ ở các nội dung và chọn đề tài: “Kinh nghiệm phát triển vốn từ cho trẻ lứa tuổi 24- 36 tháng tuổi”
2. Thực trạng của vấn đề:
2.1. Thuận lợi:
– Lớp được chia theo đúng độ tuổi quy định
– Trẻ đi học chuyên cần
– Đồ dùng phục vụ cho việc phát triển vốn từ cho trẻ phong phú về hình ảnh, màu sắc hấp dẫn( tranh ảnh, vật thật.. )
– Luôn được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của BGH nhà trường.
– Giáo viên nắm vững phương pháp giảng dạy bộ môn, được bồi dưỡng thường xuyên và tham gia học tập tại các lớp chuyên đề do sở, phòng tổ chức.
– Giáo viên nhiệt tình, sáng tạo làm đồ dùng phục vụ cho việc cung cấp và phát triển vốn từ cho trẻ.
– Trình đồ của giáo viên đều đạt chuẩn và trên chuẩn.
4 2.2 . Khó khăn:
– Trẻ 24- 36 tháng tuổi do tôi phụ trách là độ tuổi còn non nớt, các cháu bắt đầu đi học còn khóc nhiều, chưa quen với các cô và các bạn, chưa thích nghi với điều kiên sinh hoạt và các hoạt động ở lớp, các cháu không cùng tháng tuổi, mỗi cháu đều có sở thích và cá tính khác nhau.
– Trí nhớ của trẻ còn nhiều hạn chế, trẻ chưa biết hết khối lượng các âm tiếp thu cũng như trật tự các từ khi nhắc lại câu của người lớn. Vì thế trẻ thường xuyên bỏ bớt từ, bớt âm khi nói.
– 85% kinh nghiệm sống của trẻ còn nghèo nàn, nhận thức còn hạn chế dẫn đến tình trạng trẻ thường dùng từ không chính xác.
– 60% trẻ nói phát âm sai do ảnh hưởng ngôn ngữ của người lớn xung quanh
– Ở lớp nhà trẻ, thời gian chăm sóc trẻ chiếm đa số nên việc giáo viên chú ý phát triển vốn từ cho trẻ đôi khi còn gặp nhiều khó khăn.
– Đa số phụ huynh đều bận công việc hoặc có những lý do khách quan nào đó ít có thời gian trò chuyện với trẻ và nghe trẻ nói. Trẻ được đáp ứng đầy đủ về nhu cầu mà trẻ cần.
+ VD: Trẻ chỉ cần chỉ, cần nhìn vào những gì mình thích thì được đáp ứng ngay mà không cần phải dùng lời để yêu cầu hoặc xin. Đây cũng là một trong những nguyên nhân của việc vốn từ của trẻ rất nghèo nàn.
– Đứng trước một số khó khăn như vậy, tôi đã tìm tòi, suy nghĩ và nghiên cứu tài liệu để tìm ra một số biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ và qua thực tiễn dạy trẻ hàng ngày, trong những năm học vừa qua, tôi đã rút ra một số kinh nghiệm sau:
3. Một số biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ.
3.1. Khảo sát trẻ đầu năm:
Đây là biện pháp theo tôi là rất cần thiết. Qua khảo sát tôi có thể nắm rõ những mặt ưu điểm và hạn chế của trẻ.Bên cạnh đó khảo sát trẻ trên lớp khiến tôi và học sinh của mình có thể hiểu nhau hơn.
Khảo sát đàu năm:

Đề tài sáng kiến kinh nghiệm 24 -- 36 tháng

5 3.2. Tìm hiểu đặc điểm phát triển vốn từ của trẻ nhà trẻ
– Muốn phát triển vốn từ cho trẻ, theo tôi điều đầu tiên chúng ta phải hiểu được phát triển vốn từ cho trẻ là gì ? Phát triển vốn từ cho trẻ giúp trẻ nắm vững được nhiều từ, hiểu ý nghĩa của từ và biết sử dụng từ trong các tình huống giao tiếp. Để làm được như vậy tôi phải dựa trên các cơ sở lý luận sau: 3.2.1. Cơ sở ngôn ngữ
– Đặc điểm phát triển vốn từ của trẻ nhà trẻ: Vốn từ của trẻ tăng nhanh, số lượng từ chủ động của trẻ từ 500- 600 từ. Trong vốn từ của trẻ có tất cả các loại từ đơn, từ ghép.ở trẻ có cả từ ghép 3- 4 tiếng bên cạnh đó trẻ có nhu cầu giao tiếp với mọi người, trẻ thích tìm hiểu những điều mới lạ trong cuộc sống xung quanh, những từ các cháu được sử dụng hầu hết là những từ chỉ tên gọi, những gì gần gũi xung quanh mà hàng ngày trẻ tiếp xúc. Ngoài ra, trẻ cũng nói được một số từ chỉ hành động, chỉ những công việc của bản thân và mọi người xung quanh, chỉ hành động của những con vật mà trẻ biết.

Ví dụ :
Máy bay – Máy bay bay
Tàu hỏa – Tàu hỏa chạy
Con cá – Con cá bơi
Bố cháu – Bố cháu đi làm

Tôi nhận thấy vốn từ của trẻ tuy phát triển nhưng vẫn còn hạn chế bộ máy phát âm của trẻ đang hoàn thiện dần nên khi trẻ nói, trẻ hay nói chậm, hay nói kéo dài giọng,đôi khi còn ậm, ừ, ê, a, không mạch lạc. Để giúp trẻ phát triển vốn từ, tôi thấy người giáo viên cần phải nắm vững vốn từ của trẻ. Mặt khác, các cô giáo phải nói to, rõ ràng, mạch lạc, dễ nghe.
3.2.2. Cơ sở tâm lý: Tư duy của trẻ ở lứa tuổi nhà trẻ là tư duy trực quan. Thời kỳ này, khả năng chi giác về các sự vật hiện tượng bắt đầu được hoàn thiện.Trẻ hay bắt chước những cử chỉ và lời nói của người khác, do vậy ngôn ngữ của cô giáo phải trong
sáng và chính xác để trẻ nói theo. 3.2.3. Cơ sở giáo dục:
Ngôn ngữ của trẻ chỉ được hình thành và phát triển qua giao tiếp với con người và sự vật hiện tượng xung quanh.
Để thực hiện điều đó phải thông qua nhiều phương tiện khác nhau như qua các giờ học, các trò chơi, dạo chơi ngoài trời vàsinh hoạt hàng ngày, rèn luyện và phát triển vốn từ cho trẻ, tập cho trẻ biết nghe, hiểu và phát âm chính xác các âm của tiếng mẹ đẻ, hướng dẫn trẻ biết cách diễn đạt ý muốn của mình cho người khác hiểu.Vì vậy khi cho trẻ tiếp xúc với các sự vật hiện tượng thì phải cho trẻ biết gọi tên,đặc điểm của đối tượng, không những thế, giáo viên dạy trẻ biết nói câu dầy đủ, rõ nghĩa, dạy trẻ phát âm chuẩn của tiếng việt, đảm bảo các 6 nguyên tắc của giáo dục học tính khoa học, tính hệ thống, tính vừa sức, tính tiếp thu.
Dựa vào những cơ sở lý luận trên, đối chiếu với tình hình thực tế, tôi nhận thấy sự chênh lệch về vốn từ của trẻ ở cùng một lứa tuổi trong lớp khá lớn. Qua quá trình tìm hiểu, tôi nhận thấy vốn từ của trẻ không phụ thuộc vào điều kiện vật chất, kinh tế gia đình mà trước hết liên quan rất nhiều đến thới gian trò chuyện với trẻ hay không?Cô và cha mẹ có lắng nghe bé kể chuyện về sinh hoạt và bạn bè hay không? Cô có thường xuyên kể chuyện cho bé nghe và hướng dẫn bé kể lại không?…Tất cả những điều đó không chỉ làm tăng vốn từ của trẻ, sự hiểu biết nghĩa của từ, cách dùng từ của trẻ mà còn làm phong phú hiểu biết và
xúc cảm của trẻ.

Xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn trên tôi đã mạnh dạn áp dụng một số biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ ở lớp thông qua một số hoạt động sau: 3.3. Phát triển vốn từ cho trẻ thông qua hoạt động học:
Phát triển vốn từ cho trẻ ở trường Mầm Non là công tác giáo dục có kế hoạch, có mục đích, có tổ chức và phải mang tính hệ thống nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ như một phương tiện giao tiếp quan trọng vì thế chúng ta phải dạy cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi, trên những tiết học cụ thể, trong đó phát triển ngôn ngữ, vốn từ phải được đặt lên vị trí hàng đầu. 3.3.1. Thông qua giờ nhận biết tập nói:
Đây là môn học quan trọng nhất đối với sự phát triển ngôn ngữ và cung cấp từ vựng cho trẻ.
Trẻ lứa tuổi 24- 36 tháng tuồi đang bắt đầu học nói, bộ máy phát âm chưa hoàn chỉnh, vì vậy trẻ thường nói một từ, nói ngọng, nói lắp. Cho nên trong tiết học cô phải chuẩn bị đồ dùng trực quan đẹp, hấp dẫn để gây hứng thú cho trẻ.
Bên cạnh đó cô cũng phải chuẩn bị một hệ thống câu hỏi rõ ràng , ngắn gọn, trong khi trẻ trả lời cô hướng dẫn trẻ nói đúng từ, đủ câu, không nói câu cụt lủn hoặc cộc lóc.
Ví dụ :
Trong bài nhận biết quả dưa,quả cam, quả đu đủ ” Cô muốn cung cấp từ ” Mắt dứa” cho trẻ Cô phải chuẩn bị đầy đủ các loại quả thật, để trẻ sử dụng các giác quan: sờ, nhìn, nếm, ngửi,… nhằm phát huy được tính tích cực của tư duy, rèn khả năng ghi nhớ có chủ đích…
Đề giúp trẻ hứng thú tập trung vào đối tượng quan sát, cô cần đưa ra một hệnm thống câu hỏi:
+ Đây là quả gì? ( Đây là quả dứa ạ )
+ Quả dứa có màu gì ( Màu vàng )
+ Đây là cái gì của quả dứa (Vỏ dứa )
7 + Vỏ dứa như thế nào ?( Vỏ dứa có mắt ạ )
Như vậy nhờ có sự giao tiếp giữa cô và trẻ đã giúp trẻ phát huy được tính tích cực của tư duy, rèn khả năng ghi nhớ, phát triển năng lực quan sát, phát triển các giác quan, kích thích lòng ham hiểu biết tìm tòi khám phá về những điều bí ẩn của các sự vật xung quanh.Qua đó củng cố, mở rộng vốn hiểu biết, làm giầu vốn từ cho trẻ. 3.3.2. .Qua giờ thơ, truyện.
Trên tiết học khi cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học là phát triển ngôn ngư nói cho trẻ và còn hình thành phát triển ở trẻ kỹ năng nói mạch lạc mà muốn làm được như vây trẻ phải có vốn từ phong phú hay nói cách khác là trẻ cũng học thêm được các từ mới qua giờ học thơ truyện.
Khi tiếp xúc với bài thơ, câu chuyện là trẻ đã được tri giác các bức tranh có hình ảnh và từ ngữ mới tương ứng với nội dung bức tranh.

Ví dụ1:
Trẻ nghe câu chuyện ” Bác gấu đen và hai chú thỏ” Cô muốn cung cấp cho trẻ từ ” Ướt lướt thướt” Cô có thể cho trẻ xem tranh, mô hình và giải thích từ ” ướt lướt thướt”. Bên cạnh đó cô cũng chuẩn bị một số hệ thống câu hỏi giúp trẻ nhớ được nội dung
truyện và từ vừa học.
+ Bác gấu đen trong câu chuyện cô vừa kể đi đâu ?( Đi chơi rừng )
+ Khi gặp trời mưa , bác gấu đen bị làm sao ? ( Ướt lướt thướt )
Cô kể 1 -2 lần giúp trẻ hiểu tác phẩm và đặt tiếp hệ thống câu hỏi hướng vào việc hiểu biết các hành động của nhân vật để trẻ hiều việc nào nên làm, việc nào không nên làm.
+ Qua câu chuyện, con yêu quý ai ? ( Bác gấu đen, bạn thỏ trắng )
( Vì bạn thỏ trắng và bác gấu đen là những người tốt bụng )
Ví dụ 2 :
Qua bài thơ “Cây bắp cải ” Cô muốn cung cấp cho trẻ từ ” Sắp vòng quanh”
Cô có thể cho trẻ quan sát vật thật. Cho trẻ được xem,được sờ… các lá bắp cải sắp vòng quanh như thế nào?Cô vừa giải thích vừa chỉ cho trẻ xem và cho trẻ cùng làm động tác mô phỏng các là được xếp vòng quanh với nhau tạo thành cây bắp cải xanh. Bên cạnh đó cô cũng chuẩn bị một hệ thống câu hỏi :
+ Cô vừa đọc cho các con nghe bài thơ gị ? Cây bắp cải
+ Cây bắp cải trong bài thơ được tác giả miêu tả đẹp như thế nào ? ( Xanh man mát )
+ Lá bắp cải trong bài thơ được tác giả miêu tả như thế nào ? ( Sắp vòng quanh)
Như vậy thơ truyện không những kích thích nhận thức có hình ảnh của trẻ
mà còn dạy trẻ thể hiện và mô phỏng những động tác tương ứng với nhân vật 8 trong bài thơ, câu truyện.Khi trẻ đã biết kể lại truyện cùng với co điều đó chứng tỏ trẻ đã biết ghi nhớ cốt truyện và biết sử dụng ngôn ngữ nói là phương tiện, lĩnh hội kinh nghiệm tiếp thu kiến thức, biết sử dụng nhiều từ mới thể hiện sự tương ứng mới nội dung câu truyện đó. 3.3.3.. Qua giờ âm nhạc
Các tiết học âm nhạc trẻ được tiếp xúc nhiều với đồ vật ( Trống , lắc, phách tre và nhiều vật liệu ) trẻ được học những giai điệu vui tươi kết hợp với các loại hoạt động ( Vận động theo bài hát một cách nhịp nhàng. Để làm được như vậy đó là nhờ sự hiểu biết, nhận thức, vốn từ, kỹ năng nhất là sự giao tiếp bằng ngôn ngữ của trể được tích lũy và lĩnh hội, phát triển tính nghệ thuật, giúp trẻ yêu âm nhạc.
Qua những giờ học hát, vận động theo nhạc, trẻ đã biết sử dụng những hình ảnh đep của bài hát.

Ví dụ :
Hát và vận động bài ” Con voi”
Trẻ biết sử dụng động tác minh họa đơn giản như:
Trông đằng xa kia có con chi to ghê: Trẻ dùng một ngón tay vẫy vẫy
Sao trông giống như xe hơi : Hai tay tạo hình chữ nhật ở trước ngực
Lăn lăn bánh xe đi chơi : Hai tay quay vòng tròn
À thì ra con voi :Dùng tay chỉ kết hợp với vẫy nhẹ
Vậy mà…đuôi trên đầu: Dùng tay phải đặt giữa đỉnh đầu vẫy nhẹ. 3.4 . Phát triển vốn từ của trẻ thông qua chơi.
Đây có thể coi là một trong những hình thức quan trọng nhất. Bởi giờ chơi có tác dụng rất lớn trong việc phát triển vốn từ, đặc biệt là tích cực hóa vốn từ cho trẻ. Thời gian chơi của trẻ chiếm nhiều nhất trong thời gian trẻ ở nhà trẻ, là thời gian trẻ được chơi thoải mái nhất. Trong quá trình chơi trẻ được sử dụng các loại từ khác nhau, có điều kiện học và sử dụng các từ có nội dung rất khác nhau.

Ví dụ :
Trò chơi bế em
Búp bê của bạn ăn chưa ? ( Rồi ạ )
Bạn đã cho búp bê ăn lúc nào vậy? ( Vừa ăn xong )
Điều đó cho thấy giờ chơi không chỉ dạy trẻ kỹ năng chơi mà còn dạy trẻ nghe hiểu, giao tiếp cùng nhau
Trong quá trình chơi, trẻ được thực hiện nhiều hành động khác nhau với đồ chơi như vậy trẻ phải sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp và phát triển lời nói cho trẻ.

Ví dụ :
Tài ơi ! Con đang xếp gì đấy ? ( Con xếp đoàn tàu )
9 Con xếp đoàn tàu bằng những hình gì? (Hình vuông, hình chữ nhật, hình tròn ạ)
Như vậy trò chơi sáng tạo cũng góp phần phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Trong quá trình chơi trẻ bắt buộc phải giao tiếp với nhau do vậy vốn từ của trẻ được phát triển ngày một phong phú.

Ví dụ :
Trò chơi bế em, cô nhập vai làm mẹ cho búp bê bú, cho búp bê ăn, búp bê ngủ trẻ sẽ bắt chước những lời cô nói như : ” Con của mẹ ngoan quá!”
Biết hát ru ” à ơi ” cho em bé ngủ
Ngoài trò chơi, phản ánh sinh hoạt, trong giờ chơi, cô tổ chức cho trẻ chơi những trò chơi học tập nhằm phát triển vốn từ cho trẻ.

Ví dụ :
Trò chơi với động từ, danh từ.
Cô nói động từ, trẻ ghép các danh từ chỉ người, con vật, sự vật thích hợp với động từ đó hoặc ngược lại.

Đề tài sáng kiến kinh nghiệm 24 -- 36 tháng

– Trò chơi với các tính từ:
Cô nói tính từ chỉ màu sắc của các sự vật, phẩm chất con người… cháu nói danh từ phù hợp với các tính từ đó ( hoặc ngược lại )

Đề tài sáng kiến kinh nghiệm 24 -- 36 tháng

– Trò chơi bắt chước tiếng kêu của các con vật:

Cô nói Trẻ kêu
Con mèo Mèo meo
Con vịt Cạp cạp
Con chó Gâu gâu
– Trò chơi đoán đặc điểm của các con vât:

Cô nói Trẻ nói
Con gà mái Có hai chân
Con chó Có bốn chân

Trong quá trình chơi trẻ được thực hiện nhiều lần, nhiều hành động khác nhau, như vậy trẻ phải sử dụng ngôn ngữ để tìm tòi, khám phá cách chơi, luậtchơi.
Cô giáo có vai trò quan trọng thúc đẩy, kích thích trẻ sử dụng ngôn ngữ và phát triển lời nói mạch lạc, đúng ngữ pháp của trẻ. 3.5. Qua giờ đón trả trẻ.
– Cô phải tích cực trò chuyện cùng trẻ và yêu cầu trẻ trả lời các câu hỏi của cô rõ ràng. Trò chuyện với trẻ là hình thức đơn giản nhất để cung cấp vốn từ và phát triển ngôn ngữ cho trẻ, đặc biệt là phát triển ngôn ngữ mạch lạc. Bởi qua trò chuyện với trẻ, cô cung cấp, mở rộng ” vốn từ” cho trẻ.

Ví dụ:
Bó con tên gì ? ( Bố con tên là Tuán ạ )
Sáng nay ai đưa con đi học ?( Mẹ con ạ )
Mẹ con đi bằng gì ? ( Xe đap )
Xe đạp kêu như thế nào ? ( Kính koong )
Nhà con có những ai ? ( Ông, bà, bố, mẹ )

Như vậy khi trẻ mạnh dạn trò chuyện cùng với cô nghĩa là trẻ đã ” vốn từ vựng” của mình, ngôn ngữ của trẻ nhờ đó mà được mở rộntriển hơn
Bên cạnh đó cô cũng thường xuyên đọc thơ, kể chuyện cho khuyến khích trẻ phát âm và yêu cầu trẻ trả lời một số câu hỏi đơn giản

Ví dụ:
Khi cô đọc cho trẻ nghe câu chuyện ” Thỏ con không vâng lời”
Cô vừa đọc cho con nghe câu chuyện gì ( Thỏ con không vang lời ạ )
Trong câu chuyện cô vừa đọc có những ai ? ( Thỏ con, thỏ mẹ..)

Khi không nhớ đường về nhà thỏ con đã làm gì ? ( Khóc hu..hu…hu )
3.6. Thông qua các hoạt động khác:
Cung cấp vốn từ cho trẻ thông qua chế độ sinh hoạt hàng ngày.
3.6.1. Trong giờ ăn:
Trẻ tiếp nhận được số lượng những từ ngữ mới góp phần làm giầu vốn từ cho trẻ.
Ví dụ :
Cô giới thiệu món ăn, hỏi trẻ những chất dinh dưỡng có trong thức ăn. Cô mời cả lớp ăn cơm. Trẻ mời lại.
3.6.2. Trong giờ ngủ:
Cô hát những ca khúc thân thương để hiểu những quy tắc trong giờ ngủ.
Ví dụ:
Cô hát bài ” Giờ đi ngủ” Khi lắng nghe cô hát thì trẻ nằm đúng tư thế, không nói chuyện, không nằm sấp.
3.6.3. Khi cho trẻ dạo chơi thăm quan:
Dạo chơi thăm quan là loại tiết học đặc biệt nhằm phát triển vốn từ cho trẻ.Trong giờ dạo chơi, thăm quan, trẻ được trực tiếp quan sát các sự vật hiện tượng phong phú của cuộc sống.Mục đích của dạo chơi, tham quan là mở rộng tầm hiểu biết cho trẻ, trên cơ sở đó cung cấp, củng cố một số lượng lớn vốn từ cho trẻ.
Để dạo chơi, thàm quan có hiệu quả, cô giáo cần phải chuẩn bị tốt nội dung cho trẻ quan sát, những từ, câu cần dạy trẻ. Những câu hỏi yêu cầu trẻ trả lời, những phương pháp, biện pháp cần tích cực hóa ngôn ngữ cho trẻ.

Ví dụ:
Cho trẻ quan sát con gà trống.
Cô phải chọn được vị trí để con gà trống cho mọi trẻ đều quan sát được.
Bên cạnh đó cô cũng cần chuẩn bị một số hệ thống câu hỏi như:
+ Đây là con gì ?
+ Các con nhìn thấy con gà trống đang làm gì?
+ Con gà trống đang ăn gì đấy?
+ Con gà trống có dáng đi như thế nào?
Thường sau một thời gian đi thăm quan về, cô tổ chức đàm thoại về nội dung thăm quan nhằm củng cố kiến thức thu được trong buổi thăm quan,củng cố và tích cực hóa vốn từ cho trẻ.
Bên cạnh đó cô luôn sửa sai câu nói của trẻ ở mọi lúc mọi nơi đề giúp trẻ có một nguồn vốn từ phong phú, đa dạng.

3.7. Kết hợp với phụ huynh
Để vốn từ của trẻ phát triển tốt điều không thể thiếu được đó là nhờ sự đóng góp của gia đình
Cô thường xuyên gặp gỡ nói chuyện về tình hình hoạt động của trẻ trong lớp qua đó phụ huynh nắm bắt được các nội dung chương trình giáo dục hiện bhành đồng thời hàng ngày cô cũng trao đổi với phụ huynh về ý nghĩa của việc phát triển vốn từ cho trẻ. Đề phối hợp cùng giáo viên trong việc phát triển vốn từ cho trẻ thì phụ huynh hàng ngày dành thời gian thường xuyên trò chuyện cùng trẻ cho trẻ được tiếp xúc nhiều hơn với các sự vật hiện tượng xung quanh, lắng nnghe và trả lời các câu hỏi của trẻ
Đối với những cháu mói học nói thì vài trò của phụ huynh trong việc phối hợp với các cô giáo trong việc trò chuyện nhiều với trẻ là càng cần thiết bởi nó giúp trẻ được vận dụng những kiến thức đã học vào cuộc sống của trẻ, trẻ được giao tiếp, được sửa phát âm, sửa ngọng.
Có như vậy tiếng nói tích cực của trẻ mới được hoàn thiện và trong sáng.
4. Kết quả.
Trải qua quá trình thực hiện bền bỉ, liên tục, trẻ lớp tôi đã có những chuyển biến rõ rệt, phần lớn số trẻ trong lớp đã có một số vốn từ rất khá, các cháu nói năng mạch lạc, rõ ràng, biết cách diễn đạt ý muốn của mình, mạnh dạn, tự tin hơn trong giao tiếp, vốn từ của trẻ đã phong phú hơn rất nhiều so với kết quả đầu năm tôi đã khảo sát.

Đề tài sáng kiến kinh nghiệm 24 -- 36 tháng

Bên cạnh đó ở lớp tôi có một số cháu đã sử dụng vốn từ các cô cung cấp cũng rất hay và ngộ nghĩnh trong sinh hoạt hàng ngày.
+ Trong giờ hoạt động ngoài trời, cô cho trẻ quan sát vườn hoa, nhiều cháu đã phát hiện ra bông hoa hồng nhung có cánh hoa ” sắp vòng quanh”. Cách hiểu của các cháu tuy còn nhiều hạn chế nhưng cháu đã biết sử dụng từ ” Sắp vòng quanh” trong giờ văn học để ứng dụng vào cuộc sống hàng ngày.
+ Trong giờ đón trả trẻ, phụ huynh hay kể với các cô rằng hôm trước cho cháu đi chơi công viên khi thấy con cá sấu bò từ dưới nước đi lên cháu bỗng kêu vui sướng ” Mẹ ơi ! Trông con cá sấu ướt lướt thướt kìa”
Như vậy các cháu ở lớp tôi đã có những chuyển biến rõ rệt về phát triển vốn từ. Điều rất mừng là sau một năm ” vốn từ” của các cháu không chỉ tăng lên cả về số lượng và chất lượng mà các cháu còn biết vận dụng những từ được học ở trên lớp vào sinh hoạt hàng ngày và sử dụng chúng rất hiệu quả.
Phụ huynh đa số hiểu về ý nghĩ của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ.

III. KẾT LUẬN – KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Phát triển vốn từ cho trẻ ở trường mầm non và đặc biệt là lứa tuổi nhà trẻ là vấn đề rất quan trọng và cần thiết, mức độ phát triển vốn từ của trẻ còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau.
Tôi nhận thấy việc rèn luyện và phát triển vốn từ cho trẻ là cả quá trình liên tục và có hệ thống đòi hỏi giáo viên phải kiên trì, bền bì, khắc phục khó khăn để tìm ra phương tiện, điều kiên cần thiết cho sự phát triển toàn diện của các cháu, hơn nữa cô giáo là người gương mẫu để trẻ noi theo, điều này đã góp phần bồi dưỡng thế hệ măng non của đất nước, thực hiện mục tiêu của ngành.
Vậy muốn có được kết quả trong việc phát triển vốn từ cho trẻ qua quá trình thực hiện tôi rút ra một số bài học kinh nghiệm sau :
– Giáo viên cẩn hiểu rõ tầm quan trọng của ngôn ngữ với việc hình thành và phát triển nhân cách trẻ, không ngừng học tập để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tự rèn luyện ngôn ngữ của mình để phát âm chuẩn Tiếng Việt.
– Đề phát triển ngôn ngữ của trẻ một cách toàn diện thì cô giao cẩn phải thực hiện ba nhiệm vụ:
+ Làm giầu vốn từ của trẻ qua việc hướng dẫn trẻ quan sát, đàm thoại, hướng dẫn trẻ chơi, kể chuyện và đọc truyện cho trẻ nghe.
+ Củng cố vốn từ cho trẻ
+ Củng cố vốn từ cho trẻ
+ Tích cực hóa vốn từ cho trẻ
– Giáo viên phải biết phối hợp chặt chẽ ba nội dung trên để góp phần tạo điều kiện cho trẻ lĩnh hội những điều mới lạ về thế giới xung quanh.
– Giáo viên luôn tạo không khí vui tươi, thoải mái cho trẻ, động viên trẻ đi học đều, tạo điều kiện quan tâm đến những trẻ nhút nhát,dành thời gian gần gũi, trò chuyện vói trẻ để trẻ mạnh dạn, tự tin tham gia các hoạt động tập thể giúp trẻ
được giao tiếp nhiều hơn.
– Cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường để giáo viên nắm vững đặc điểm tâm sinh lý của trẻ để từ đó có kế hoạch phát triển vốn từ.
– Tổ chức nhiều trò chơi sử dụng ngôn ngữ
– Cô giáo tạo điều kiện cho trẻ nghe nhiều và nói chuyện nhiều với trẻ, luôn tìm cách thúc đẩy trẻ sử dụng ngôn ngữ một cách chủ động.
– Tích cực cho trẻ tiếp cận và làm quen với thiên nhiên và phát triển khả năng quan sát của trẻ, giúp trẻ củng cố và tư duy hóa các biểu tượng ngôn từ.
– Vận động phụ huynh đóng góp các loại hoa, cây cảnh, vật nuôi để xây dựng góc thiên nhiên phong phú, thông qua các tiết học, cô kết hợp với nội dung phát triển ngôn ngữ cho trẻ phù hợp.
Tóm lại, trong tất cả các hoạt động hàng ngày của trẻ ở trường cô phải tích cực trò chuyện với trẻ, hỏi trẻ để trẻ trả lời, nếu trẻ không trả lời được cô phải biết sử dụng từ trong tình huống giao tiếp.
2. Khuyến nghị
– Đề cho vốn từ của trẻ 24- 36 tháng tuổi được phát triển hơn nữa, theo tôi cần phải được sự quan tâm của ngành giáo dục đào tạo trong việc phổ biến đến tập thể các giáo viên những bài thơ, câu truyện,bài hát, trò chơi có những từ giầu hình ảnh, giầu âm thanh…..
– Ban giám hiệu nhà trường cần bổ xung những truyện, thơ, bài hát, câu đố, mới của sở, phòng ban hành.
– Phụ huynh và nhà trường làm ” Xã hội hóa giáo dục” để giúp con em mình có nhiều điều kiện để học tập, trải nghiệm nhiều hơn. Trên đây là một số kinh nghiệm mà tôi đã áp dụng trong việc phát triển vốn từ của trẻ lứa tuổi nhà trẻ trong năm học vừa qua. Tôi rất mong được sự góp ý của ban giám hiệu và các bạn đồng nghiệp để tôi ngày càng có kinh nghiệm dạy dỗ các cháu tốt hơn

Gửi bởi Hà Vũ in SKKN mầm non