Đề tài sáng kiến kinh nghiệm 24 -- 36 tháng
Mẫu 1: Sáng kiến kinh nghiệm phát triển ngôn ngữ cho trẻ.A/ PHẦN MỞ ĐẦU Show
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Như chúng ta đã biết trong cuộc sống chúng ta ai cũng phải sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp với mọi người và để nhận thức thế giới xung quanh. Ngôn ngữ chính là phương tiện giao tiếp giữa con người với con người, là phương tiện cho việc dạy và học. Ngôn ngữ nói, đọc, viết có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc phát triển nhân cách của trẻ mầm non nói riêng, của con người và xã hội nói chung. Lứa tuổi mầm non là thời kỳ phát triển ngôn ngữ tốt nhất. Là giai đoạn có nhiều điều kiện thuận lợi nhất cho sự lĩnh hội ngôn ngữ nói và các kỹ năng nghe, hiểu, trả lời câu hỏi của trẻ. Phát triển ngôn ngữ và giao tiếp có ảnh hưởng đến tất cả các lĩnh vực phát triển khác của trẻ. Ngôn ngữ chính là công cụ để tư duy vì thế ngôn ngữ có ý nghĩa quan trọng đến việc phát triển nhận thức. giải quyết vấn đề …..của trẻ. Đối với trẻ 24-36 tháng thì ngôn ngữ, nhận thức của trẻ còn rất nhiều hạn chế. Chính vì vậy mà tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp để phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng” 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp để phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng” nhằm giúp trẻ phát triển khả năng nghe, hiểu, trả lời câu hỏi một cách có logich, có trình tự, chính xác. - Giúp trẻ mạnh dạn tự tin trước mọi người. - Làm phong phú vốn từ cho trẻ. - Giúp giáo viên hiểu được tầm quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ từ đó có những kế hoạch cụ thể về việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ. 3. ĐỐI TƯỢNG PHẠM VI NGHIÊN CỨU Nghiên cứu trong phạm vi phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24 -36 tháng 4. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU: Tìm ra những giải pháp tốt nhất để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ một cách tốt nhất. 5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: - Phương pháp quan sát các hoạt động trong ngày của trẻ. - Phương pháp quan sát các hoạt động dạy và học. - Qua nghiên cứu các tài liệu tham khảo có liên quan đến đề tài. 6. NỘI DUNG ĐỀ TÀI: - Cơ sở lí luận liên quan đến đề tài. - Tìm hiểu về thực trạng của đề tài. - Đề ra các biện pháp giải pháp. B. NỘI DUNG CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI. 1. Cơ sở pháp lí: Chương trình giáo dục mầm non đựoc biên soạn trên cơ sở quy định của luật giáo dục và đã được bộ trưởng bộ giáo dục và đào tạo kí ban hành theo thông tư số 17/2009/TT-BGDDT ngày 25/7/2009.Chương trình giáo dục mầm non được tiến hành nghiên cứu xây dựng từ năm 2002 theo quy định khoa học với sự tham gia của các nhà khoa học, nhà sư phạm. cán bộ quản lí giáo dục, giáo viên mầm non với mục tiêu là: giúp trẻ em phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mĩ, hình thành những yếu tố ban đầu của nhân cách. Với yêu cầu về nội dung giáo dục mầm non là: phù hợp với sự phát triẻn tâm sinh lí ở trẻ em, hài hòa giữa nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục. Giúp trẻ em phát triển cơ thể cân đối, khỏe mạnh,nhanh nhẹn. Cung cấp kĩ năng sống phù hợp lứa tuổi. Giúp trẻ em biết kính trọng, yêu mến, lễ phép với ông bà, cha mẹ, cô giáo. Yêu quý anh, chị, em, bạn bè. Thật thà, mạnh dạn, tự tin, hồn nhiên, yêu thích cái đẹp, ham hiểu biết thích đi học. Với yêu cầu về phương pháp giáo dục mầm non là: Đối với nhà trẻ phương pháp giáo dục phải chú trọng sự giao tiếp thường xuyên, thể hiện sự yêu thương , gắn bó của người lớn đối với trẻ. Chú ý đặc điểm cá nhân của trẻ để lựa chọn phương pháp giáo dục phù hợp. Tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ được tích cực hoạt động, giao lưu cảm xúc..... 2. Cơ sở lí luận: Trong cuộc sống chúng ta ai cũng phải sử dụng ngôn ngữ dể giao tiếp với mọi người xung quanh và ngôn ngữ chính là phương tiện cho việc dạy và học. Đối với trẻ mầm non thì qua giao tiếp bằng ngôn ngữ và tư duy trẻ thu được các kinh nghiệm sống làm phong phú thêm sự hiểu biết của trẻ.cụ thể trẻ nhà trẻ thì nhận thức và ngôn ngữ của trẻ còn hạn chế, trẻ mới đang tập nói, có trẻ mới nói được câu 2-3 từ ,có trẻ thì đã nói được câu 4-6 từ, có trẻ nói chưa trọn vẹn được câu, trẻ chưa diễn đạt được ý muốn của mình bằng những câu đơn giản… chính vì vậy mà phát triển ngôn ngữ cho trẻ là việc làm cần thiết. Đối với trẻ nhà trẻ phát triển ngôn ngữ chính là việc phát triển các khả năng nghe, hiểu, nói của trẻ. Để phát triển các khả năng này thì việc dạy trẻ đọc thơ, kể chuyện, tập nói, trò chuyện, giao tiếp với trẻ thông qua các hoạt động giáo dục trẻ trong ngày chính là việc làm giúp trẻ phát triển ngôn ngữ. 3. Cơ sở thực tiễn: Căn cứ vào thực tế, kết quả các tiết dạy thơ, chuyện, tập nói. Căn cứ vào nhu cầu cần được giao tiếp, trò chuyện của trẻ. Căn cứ vào sách hướng dẫn tổ chức thực hiện chương trình CSGD trẻ. Chương II: THỰC TRẠNG CỦA ĐỀ TÀI. 1. Khái quát phạm vi: Ngành giáo dục huyện …….. trong những năm gần đây đã quan tâm nhiều hơn với bậc học mầm non. Để hòa nhập cùng với sự đổi mới của các bậc học khác thì bậc học mầm non cũng đã tiến hành đổi mới để phù hợp với sự đổi mới chung của giáo dục cả nước, cũng như của thế giới. Trường mầm non ……..được sự chỉ đạo của sở giáo dục đào tạo tỉnh …….. đã và đang thực hiện chương trình mầm non mới. 2. Thực trạng: Trường mầm non ……..là trường điểm của huyện …….. và là một trong những trường dẫn đầu trong khối mầm non của tỉnh, của huyện nhà. Đã đạt trường chuẩn quốc gia mức độ 1- năm 20…….. *Thuận lợi: - Được sự quan tâm giúp đỡ của ban giám hiệu nhà trường - Về cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho việc dạy và học tương đối đầy đủ. - Giáo viên đạt trình độ chuẩn và trên chuẩn 100%. Nhiệt tình công tác, đoàn kết giúp đỡ nhau trong việc chăm sóc giáo dục trẻ. *Khó khăn. - Trẻ chưa mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp - Vốn từ của trẻ còn rất ít . - Trình độ nhận thức của trẻ trong một lớp không đồng đều. - Trí nhớ của trẻ còn hạn chế chính vì vậy mà trẻ chưa biết cách sắp xếp trật tự các từ trong câu nên khi phát âm trẻ thường bỏ bớt từ. Cách diễn đạt lời nói của trẻ chưa tốt . 3. Nguyên nhân thực trạng: - Trình độ nhận thức của trẻ trong một lớp không đồng đều( vì có trẻ trong lớp sinh tháng 1-2 nhưng có trẻ trong lớp sinh tháng 10 -11-12). Tháng tuổi của trẻ chênh lệch nhau về tháng sinh quá xa ở lứa tuổi này sẽ dẫn đến sự chênh lệch về trình độ nhận thức, sự hiểu biết, ngôn ngữ.. - Đặc điểm của trẻ nhà trẻ lứa tuổi 24-36 tháng rất thích được trò chuyện, giao tiếp, thích được nói, nhưng ngôn ngữ, vốn từ của trẻ còn rất hạn chế, còn sử dụng ngôn ngữ thụ động nhiều. - Chưa được tác động, kích thích kịp thời để trẻ mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp. Chương III: BIỆN PHÁP, GIẢI PHÁP ĐỂ THỰC HIỆN ĐỀ TÀI I. Cơ sở để đề xuất giải pháp: - Qua tìm hiểu tâm sinh lí trẻ ở lứa tuổi 24/36 tháng tuổi. - Qua thực tế giảng dạy, quan sát những giờ hoạt động học và các hoạt động khác của trẻ trong ngày. Tôi có đưa ra một số biện pháp, giải pháp để phát triển ngôn ngữ cho trẻ 24/36 tháng tuổi. II. Các biện pháp, giải pháp chủ yếu: Trẻ ở lứa tuổi 24/36 tháng tuổi còn nhỏ rất hiếu động, thích tìm tòi, khám phá mọi thứ xung quanh.Trẻ thường có những thắc mắc trước những đồ vật.hiện tượng mà trẻ nhìn thấy, nghe thấy, trẻ thường đặt ra rất nhiều câu hỏi như: Ai đây? Cái gì đây? Con gì đây? ….. Để giải đáp được những thắc mắc hàng ngày người lớn cần trả lời những câu hỏi của trẻ rõ ràng, ngắn gọn đồng thời cần cung cấp cho trẻ thêm hiểu biết về thế giới xung quanh bằng ngôn ngữ giao tiếp mạch lạc. Chính vì vậy mà mỗi giáo viên chăm sóc giáo dục trẻ cần trú trọng đến việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ , đó là nhịêm vụ quan trọng hàng đầu . Bởi ngôn ngữ là phương tiện để trẻ tiếp thu kiến thức về thế giới xung quanh được dễ dàng và hiệu quả nhất: 1. Giáo viên cần hiểu tâm sinh lý của trẻ: *Đặc điểm phát âm: Trẻ đã phát âm đượccác âm khác nhau. Phát âm được các âm của lời nói nhưng vẫn còn ê a. Trẻ hay phát âm sai ở những từ khó, những từ có 2/ 3 âm tiết như: Lựu/ lịu, hươu/ hiu, hoa sen / hoa xem, thuyền buồm/ thiền bồm…. *Đặc điểm vốn từ: Vốn từ của trẻ còn rất ít. Danh từ và động từ ở trẻ chiếm ưu thế. Trẻ đã sử dụng chính xác các từ chỉ đồ vật con vật, hành động trong giao tiếp quen thuộc hàng ngày. Những các từ chỉ khái niệm tương đối như: Hôm qua, hôm nay, ngày mai……trẻ sử dụng chưa chính xác. Một số trẻ đã biết sử dụng các từ chỉ màu sắc như: màu xanh, màu đỏ ,màu vàng…. Đã biết sử dụng các từ thể hiện sự lễ phép với người lớn trong giao tiếp như: Cảm ơn cô, vâng ,dạ… .............. 1. Biện pháp giúp trẻ 24-36 tháng nhận biết, phân biệt màu sắcTên đề tài: “Một số biện pháp giúp trẻ 24-36 tháng nhận biết, phân biệt 3 màu xanh, đỏ, vàng tại trường mầm non Kiến Hưng”
Download tài liệu SKKN mầm non giải A cấp huyện: Một số biện pháp giúp trẻ 24 36 tháng ham thích đến lớp họcBạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (24.17 MB, 20 trang ) SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TỈNH THANH HÓA thực tế trẻ trong độ tuổi mầm non nói chung và nhà trẻ 25-36 tháng nói riêng đến lớp đang còn là nghĩa vụ tôi trăn trở muốn tìm ra nhiều biện pháp hay để trẻ lớp tôi lớp nhà trẻ ham thích hơn đến lớp học hàng ngày. Qua quá trình đứng lớp và kinh nghiệm thực tế ở các năm học trước. Năm học 2014 - 2015 này tôi được nhà trường phân công đứng lớp nhà trẻ 25-36 tháng cùng công tác kiêm nghiệm tổ trưởng chuyên môn tổ nhà trẻ. Bước vào năm học mới mỗi giáo viên chúng tôi ai cũng có một tinh thần trách nhiệm cao đối với lớp học của mình, với nhà trường và các cháu học sinh. Nhưng thực tế khi bước vào những ngày đầu đón trẻ của năm học thật sự mỗi chúng tôi đã phải cố gắng hết mình vì công việc vì các cháu. Bởi các cháu nhà trẻ đây là thời gian mà các cháu bước đầu rời xa vòng tay cha mẹ, đến với một môi trường mới với những người mà bé chưa từng gặp. Các cháu đi học khóc rất nhiều. có những cháu đến lớp còn nôn trớ ra cả người cô giáo, thậm chí đánh cả cô giáo… thật sự những người giáo viên mầm non chúng tôi những ngày này cảm thấy rất mệt mỏi. Nhưng là giáo viên mới nhưng tôi rất yêu nghề mến trẻ, nhiều trẻ mới đến lớp không chịu vào lớp học, ngày sau đó không dám đến trường vì lạ bạn, sợ cô. Về phần phụ huynh thì không dám tin con mình có đi học được hay không, sợ con khóc nhiều khi xa ba mẹ. Làm sao để phụ huynh yên tâm, vui vẻ khi trao con cho các cô? Tôi đã thực hiện vài biện pháp nhỏ để có thể làm phụ huynh yên lòng và trẻ đến lớp mà không sợ sệt, qua vài ngày sau sẽ ham thích đi học và về nhà tôi suy nghĩ mãi với trách nhiệm của mình là tổ trưởng tổ nhà trẻ, hơn nữa lại là một giáo viên chủ nhiệm lớp tôi phải làm sao nghĩ cáh để các cháu hứng thú, thích đến lớp học ngay từ những ngày đầu, các cháu bớt khóc, quen dần với môi trường ở lớp để làm tiền đề cho mình và các tổ viên của tổ mình. Hơn nữa trong một lớp học có bao nhiêu trẻ thì có bấy nhiêu sự khác biệt cá nhân. Những sự khác biệt này bao 2 gồm cả về thể chất, năng lực, xu hướng, hứng thú. Và tất cả các trẻ đều có quyền đòi hỏi được quan tâm đáp ứng nhu cầu bản thân. Bên cạnh đó các nhà giáo dục cũng thấy rằng về bản chất, phạm vi năng lực tiềm tàng của trẻ rộng hơn rất nhiều những gì chúng thể hiện ở lớp, và để có thể làm bộc lộ năng lực tiềm ẩn này, trẻ cần có môi trường học tập cho phép chúng được học tập mọi lúc mọi nơi học theo nhiều cách khác nhau. Để nuôi dưỡng trí thông minh là chăm sóc, bảo vệ và kích thích trẻ trong quá trình phát triển, nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng trẻ cần có kinh nghiệm học từ những ngày đầu tên của cuộc đời. Vì vậy sự nuôi dưỡng trí lực của trẻ có thể bắt đầu ngay từ những ngày sau khi trẻ được sinh ra. Đó là một quá trình lâu dài đòi hỏi rất nhiều sự âu yếm, kiên trì và hiểu biết về chăm sóc và dạy bảo của cha mẹ, ông bà, cô giáo. Khi trẻ đến lớp, mỗi trẻ là một cơ thể duy nhất, do đó trẻ sẽ hành động trong một môi trường theo cách của mình. Chính vì vậy cô giáo cần tạo cho trẻ một tâm thế tốt khi ở lớp, một khong khí tình cảm yêu thương, tôn trọng trẻ. Điều này giúp trẻ biết nghe lời cô và phát triển khả năng bẩm sinh sẵn có của mình, hứng thú nhận thức càng cao trẻ càng thể hiện rõ hơn năng lực của bản thân. Thậm chí hứng thú có thể làm biến đổi một cách đáng kể hiệu quả hoạt động của trẻ. Chính vì lý do trên mà tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Một số biện pháp giúp trẻ 24 - 36 tháng ham thích đến lớp học”. B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. CƠ SỞ LÝ LUẬN: Xuất phát từ tâm lý của trẻ nhà trẻ lúc này trẻ vừa sống trong môi trường gia đình, bước đầu trẻ phải đi học, được tiếp xúc với nhiều người trong xã hội, trẻ 24 - 36 tháng do tôi phụ trách là độ tuổi còn non nớt, khóc nhiều vì xa cha mẹ, chưa quen với cô và các bạn, chưa thích nghi với điều kiện sinh hoạt và các hoạt động ở lớp. các cháu không cùng tháng tuổi, mỗi cháu đều có sở thích và tính cách khác nhau. Đa số phụ huynh buôn bán tự do hay tính chất công việc chiếm nhiều thời gian, một số phụ huynh do bận rộn công việc kiếm sống nên chưa thực sự quan tâm đến con em mình vì vậy phụ huynh nhờ cậy việc dạy dỗ con cái cho cô giáo ở trườngvà có một số phụ huynh lại thương con thấy con khóc nhiều, con nôn trớ lại đưa con về không cho cháu đi học nữa. Vì thế để các cháu thích được đi học và các bậc phụ huynh yên lòng gửi lớp thu hút được đông các cháu đi học tôi quyết định chọn đề tài này để đưa ra một số biện pháp tốt nhất giúp trẻ thích được đến lớp cùng cô giáo và các bạn: Nhằm giúp các trẻ mới đến lớp không rụt rè, sợ sệt và thích đi học để các bậc phụ huynh an tâm trong những ngày đầu tiên con mình xa bố mẹ. 3 II. THỰC TRẠNG Trong thực tế những ngày đầu đón trẻ tôi nhận thấy tình hình ở lớp tôi như sau: 1.Thuận lợi: - Được sự chỉ đạo sát sao về chuyên môn cũng như nghiệp vụ của phòng giáo dục huyện Nga Sơn cũng như sự quan tâm tạo điều kiện về cơ sở vật chất của địa phương và ban giám hiệu nhà trường mầm non xã Nga Bạch đã được đảm bảo. Hiện nay trường có đầy đủ đồ dùng đồ chơi, trang thiết bị phục vụ các môn học cũng như việc vui chơi của trẻ. Để tạo cho trẻ không khí đến lớp tốt hơn. - Đầu năm học nhà trường ưu tiên bố trí giáo viên cho nhóm nhà trẻ để cùng chúng tôi tiếp xúc giao lưu với trẻ và phụ huynh để hiểu thêm về tính cách cũng như sở thích của trẻ. - Nhà trường bổ sung mua đồ dùng đồ chơi cho lớp. - Bản thân tôi cũng cần cố gắng rất nhiều trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ. 2. Khó khăn: Nhiều trẻ mới đi học còn khóc nhè, không chịu vào lớp, cô bế không chịu, thậm chí còn đánh mạnh vào ngực cô, như vậy sẽ rất khó khăn trong việc dạy dỗ, chăm sóc và quản lý trẻ. Cụ thể như cháu Bảo Long, Bảo Thi, Khánh Ly, Ngân Khánh… ngày nào đến lớp bé cũng khóc và nôn trớ rất nhiều. đòi chạy ra cổng về nhà, có phụ huynh thấy thế không muốn cho con đi học nữa thương con và cho con về như phụ huynh cháu Thùy Dương, Ngân Khánh, Khánh Ly…điều này gây khó khăn rất lớn trong việc dạy trẻ và giáo dục đối với các trẻ khác. Trong những ngày đó, nhiều cô phải tất bật từ sáng đến trưa, nào dỗ dành, ẵm bồng, kéo co, vật vã với trẻ. Các cháu khóc, quấy, giãy, đạp, thậm chí đánh cả cô. Đến giờ ăn thì trẻ khóc, không chịu ngồi ăn, rồi ho, ói. Đến giờ ngủ cô giáo phải ẵm ru ngủ. Có trẻ mệt quá ngủ thiếp đi, có trẻ không chịu ngủ thì cô phải ẵm ra sân chơi vì sợ ảnh hưởng đến cháu khác. Tình trạng này kéo dài sẽ ảnh hưởng không tốt đối với trẻ: sụt cân, bệnh, sợ hãi đám đông, sợ tiếp xúc với nhiều người, trở nên nhút nhát, trầm uất... Các cô giáo cũng không sung sướng gì khi phải liên tục lau sàn lớp (do học sinh ói, tè...), có cô hai tay bế hai cháu (còn 2-3 cháu khác vừa khóc vừa bám lấy áo cô đòi bế), có cô thì một tay bế cháu này, tay kia lấy khăn giấy chùi mũi cho một cháu khác...“Thường chỉ một, hai tuần là ổn. Cũng có bé dễ chịu, chỉ khóc 2-3 ngày. Nhưng cũng có bé khó lắm, cả tháng mới thích nghi được”. Có lẽ hình ảnh của ngày đầu tiên quá kinh khủng đã khiến các cháu khó thích nghi với lớp học. Một lớp học có hơn 20 cháu khóc rền rĩ, các bé cứ gào lên: “Mẹ ơi! Mẹ ơi”, bé thì chạy ra cửa lớp giơ hai tay lên: “Bế a, bế a”, có bé còn ói hết ra sàn lớp, rồi tè, ị ra quần... Các cô giáo cứ luôn chân luôn tay vừa dỗ dành, vừa dọn đồ ói, thay quần áo cho các cháu... Học sinh đông, việc nhiều nên các cô không thể dỗ dành tất cả các cháu trong lớp. 4 Từ tình hình đó tôi đã nghĩ ra nhiều cách để khắc phục tình trạng này. 3. Kết quả ban đầu: Tổng số trẻ 32 Nội dung - Trẻ ham thích đến lớp - Trẻ chưa chưa ham thích đến lớp - Trẻ không muốn đến lớp Số lượng 8 12 12 Tỷ lệ 25% 37, 5% 37, 5% Với kết quả trên tôi thấy băn khoăn với trẻ lớp mình. Để trẻ có kết quả tốt hơn tôi quyết định chọn đề tài “Một số biện pháp giúp trẻ 25 - 36 tháng ham thích đến lớp”. III. CÁC BIỆN PHÁP ĐỂ TỔ CHỨC THỰC HIỆN. Từ thực trạng của trẻ nhà trẻ nói chung và lớp tôi nói riêng về việc giúp trẻ thích được đến lớp cùng cô giáo và các bạn tôi đã đưa ra một số biện pháp sau: 1: Điều tra thực tiễn để nắm bắt tâm lý của trẻ, tạo được niềm tin với trẻ và phụ huynh. - Trong giờ đón và trả trẻ: Việc thường xuyên quan sát và điều tra thực tiễn giúp cho giáo viên nhìn nhận chính xác được về tình trạng thực tiễn của lớp mình từ đó đưa ra các hoạt động điều chỉnh đến từng cá nhân trẻ bởi vì mỗi trẻ có một tính cách khác nhau. Trò chuyện với phụ huynh về trẻ để biêt bé thích ăn những gì không ăn gì và ngủ như thế nào. Những ngày đầu tiên đến trường cô giáo phải là người bạn đáng tin cậy của trẻ. Khi được ba mẹ đưa đến lớp những ngày đầu tiên trẻ thường ôm chặt lấy ba mẹ không muốn rời xa và nhìn xung quanh một cách dò xét. Nếu lúc đó cô giáo đến ôm chầm và tách rời trẻ ra khỏi tay mẹ thì tôi nghĩ trẻ sẽ rất ghét và rất sợ cô, sợ đi học. Chính vì thế khi tiếp xúc lần đầu tiên với trẻ tôi chỉ chào hỏi, cười và làm quen bằng những câu hỏi đơn giản thân mật như: “Con tên gì?”, “Con mấy tuổi?”, “Con có muốn vào lớp chơi cùng cô và các bạn không?”… Sau đó trò chuyện với phụ huynh và từ từ vuốt ve trẻ, kế đến là nắm tay trẻ thật nhẹ nhàng, đó là bước khởi đầu để trẻ cảm thấy an lòng. Sau đó trưng bày đồ chơi hoặc tổ chức cho cả lớp cùng chơi một trò chơi nào đó nhằm gây hứng thú cho trẻ và quan sát biểu hiện của trẻ. Tuy nhiên nhiều trẻ vẫn chỉ ngồi trong lòng mẹ mà không chịu chơi cùng bạn. Tôi vẫn tiếp tục cùng phụ huynh trò chuyện về thói quen, tập quán của trẻ để dễ dàng thích nghi với trẻ, cho đến khi trẻ cảm thấy sự gần gũi giữa mẹ và cô, từ đó trẻ sẽ chơi với cô và các bạn trong lớp. Mặt khác, việc tuyên truyền với các bậc phụ huynh yên tâm khi gửi con cho các cô để phụ huynh yên tâm để con mình ở lại cho cô giáo. Từ những tình trạng thực tế đã giúp tôi tìm ra một số biện pháp tốt để giúp trẻ thích nghi với lớp được tốt hơn. Đầu năm trẻ của tôi khóc rất nhiều, khi đón trẻ 5 tôi thường an ủi phụ huynh trước tiên vì họ rất thương con lo lắng cho con, sợ con sẽ khóc nhiều làm ảnh hưởng không tốt đến sức khoẻ. Những lời động viên sẽ giúp họ an tâm hơn và khi nhận trẻ từ tay ba mẹ tôi nắm tay trẻ, ở gần bên trẻ và nói chuyện thật nhẹ nhàng. Đối với các cháu lần đầu tiên đến trường, thường ôm chặt lấy bố mẹ không chịu rời, tôi không vội vàng tách cháu ra khỏi vòng tay phụ huynh ngay mà chỉ đến chào hỏi phụ huynh, trò chuyện, mỉm cười với trẻ để làm quen trẻ tránh cho trẻ bị hụt hẫng và có cảm giác bị bỏ rơi. Tuy nhiên nhiều trẻ vẫn chỉ ngồi trong lòng bố mẹ mà không chịu chơi cùng bạn. Tôi vẫn tiếp tục cùng phụ huynh trò chuyện về thói quen, tập quán, sở thích của trẻ để dễ dàng tìm kiếm biện pháp thích nghi với trẻ, cho đến khi trẻ cảm thấy sự gần gũi giữa mẹ và cô, từ đó trẻ sẽ chơi với cô và các bạn trong lớp. Trẻ mới đi học còn khóc không chịu vào lớp Hình ảnh cô giào trò chuyện cùng phụ huynh về trẻ 6 Từ khi sử dụng biện pháp trên vào đối với học sinh của lớp mình tôi thấy các cháu có sự tiến bộ rõ rệt đạt kết quả rất tốt. Lớp tôi có 32 học sinh số cháu hứng thú đi học đạt 28 cháu bằng 88% so với số trẻ của lớp. 2: Chuẩn bị nhiều đồ chơi hấp dẫn cho trẻ chơi. Tôi tổ chức cho cả lớp cùng chơi một trò chơi nhỏ nào đó nhằm gây hứng thú cho trẻ và quan sát biểu hiện của trẻ mới vào lớp. Để kích thích sự sáng tạo ham học hỏi của những trẻ hiếu động tôi giới thiệu cho trẻ tham gia chơi ở góc xây dựng tạo sự hứng thú cho trẻ. Sau đó tiếp tục cho các cháu chơi ở những góc chơi khác. Trưng bày ở các góc chơi nhiều đồ chơi hấp dẫn do nhà trường mua sắm phục vụ cho các cháu. Ngoài ra tôi còn tận dụng thời gian rảnh của mình làm ra nhiều đồ dùng đồ chơi từ những nguyên vật liệu từ phế thải như hộp sữa chua tạo ra những con vật ngộ nghĩnh, những chiếc đu quay như thường ngày bé chơi. Từ những bìa cat tông cùng những mảnh xốp vụn tạo nên những cây hoa xinh xắn… kích thích trẻ chú ý và thích chơi. Hình ảnh đồ chơi tự tạo từ nguyên vật liệu phế thải Mặt khác tôi nhập vai cùng chơi với trẻ để tạo sự thân thiện gần gũi và để trẻ dễ dàng thích ứng với vai chơi của mình. 7 Bé chơi với đồ chơi 3: Tạo ra môi trường đẹp thu hút sự chú ý trẻ. Trong một lớp học có bao nhiêu trẻ thì có bấy nhiêu sự khác biệt cá nhân. Những sự khác biệt này bao gồm cả về thể chất, năng lực, xu hướng, hứng thú. Và tất cả các trẻ đều có quyền đòi hỏi được quan tâm đáp ứng nhu cầu bản thân. Bên cạnh đó các nhà giáo dục cũng thấy rằng về bản chất, phạm vi năng lực tiềm tàng của trẻ rộng hơn rất nhiều những gì chúng thể hiện ở lớp, và để có thể làm bộc lộ năng lực tiềm ẩn này, trẻ cần có môi trường học tập cho phép chúng được học tập mọi lúc mọi nơi học theo nhiều cách khác nhau. Khi trẻ đến lớp, mỗi trẻ là một cơ thể duy nhất, do đó trẻ sẽ hành động trong một môi trường theo cách của mình. Chính vì vậy cô giáo cần tạo cho trẻ một tâm thế tốt khi ở lớp, một khong khí tình cảm yêu thương, tôn trọng trẻ. Điều này giúp trẻ biết nghe lời cô và phát triển khả năng bẩm sinh sẵn có của mình, hứng thú nhận thức càng cao trẻ càng thể hiện rõ hơn năng lực của bản thân. Thậm chí hứng thú có thể làm biến đổi một cách đáng kể hiệu quả hoạt động của trẻ. Đối với lớp nhà trẻ 24 - 36 tháng thì hoạt động với đồ vật là hoạt động mang tính chủ đạo. Chính những hoạt động này tạo nên sự biến đổi về chất trong tâm lý của trẻ làm cho các hoạt động khác nhau mang một màu sắc riêng của nó. Trong trường mầm non HĐVĐV luôn có sự hướng dẫn, tổ chức của cô giáo. trẻ được học tập và tiếp thu tri thức dưới hình thức chơi mà học - học mà chơi. Trên giờ học trẻ được học các kỹ năng còn trong các giờ hoạt động khác trẻ được ứng dụng các kỹ năng đó. Hoạt động ở các góc là hoạt động cá nhân hoặc một nhóm trẻ nên trẻ có cơ hội lựa chọn hoạt động mà trẻ ưa thích, trẻ được tự do giao tiếp, tự do chọn đồ chơi, được trải nghiệm cảm giác hứng thú qua các trò chơi giúp trẻ tự 8 tin. Vì thế việc xây dựng môi trường giáo dục cũng là điều rất quan trọng đối với trẻ mầm non đặc biệt là đối với trẻ ở lứa tuổi 25 - 36 tháng. * Môi trường ngoài lớp học. Yếu tố trường lớp cũng là yếu tố cần thiết cho sự ham thích đi học của trẻ. Trường Mầm Non Nga Bạch có không gian rộng rãi, thoáng mát, khu vực chơi ngoài trời sạch sẽ, đồ chơi phong phú thu hút được trẻ. Hình ảnh về môi trường bên ngoài trường mầm non Nga Bạch - Nga sơn Tôi sẽ dắt trẻ ra sân chơi, tổ chức nhiều trò chơi dân gian như mèo đuổi chuột, dung dăng dung dẻ…, hoặc chơi các trò chơi vận động đơn giản như đi cà kheo bằng lon, nhảy lò cò…, hay chỉ cần trò chuyện hoặc cho trẻ xem cảnh vật xung quanh sân trường, cho trẻ chơi đu quay, chơi bập bênh, kể chuyện cho bé nghe, việc này sẽ gây hứng thú và chiếm được nhiều cảm tình của trẻ. Hình ảnh trẻ chơi đồ chơi ngoài trời, chơi trò chơi dân gian * Môi trường trong lớp học Ngoài việc xây dựng môi trường giáo dục ngoài trời thì việc xây dựng môi trường giáo dục trong lớp cần chú trọng hơn nhiều.Vì thế để trẻ thích được đến 9 lớp tôi cùng với giáo viên của lớp trang trí, xây dựng môi trường giáo dục của mình thật đẹp bằng những nguyên vật liệu sẵn có của địa phương như mo cau tạo nên những bông hoa với sắc màu rực rỡ của màu sơn cùng với nhụy hoa vàng xinh xắn của hộp váng sữa mà trẻ đã sử dụng xong để lại vỏ cho cô làm đồ dùng, phù hợp với lứa tuổi của trẻ lớp tôi, phù hợp với chủ đề chủ điểm tạo không gian mới lạ đẹp mắt để các cháu quên đi cái nỗi nhớ bố mẹ, làm quen môi trường mới tốt hơn. Hình ảnh : Xây dựng môi trường lớp học Bố trí các góc chơi phù hợp khoảng cách giữa góc động và tĩnh bố trí hợp lý cùng những hình ảnh ngộ nghĩnh, đẹp mắt với trẻ. Cô giáo cần sang tạo thêm nhiều góc chơi, góc thiên nhiên, góc tạo hình… có nhiều đồ dùng đẹp mắt để lôi cuốn trẻ. Khi dắt trẻ trở vào lớp, tôi cùng trẻ dạo quanh lớp, gợi hỏi trẻ những đồ vật, đồ chơi này tên là gì để trẻ trả lời, nếu trẻ trả lời không được hoặc không thích trả lời, tôi sẽ gợi ý và giúp trẻ trả lời. Hình ảnh trẻ hoạt động ở các góc 10 Ngoài những đồ dùng đồ chơi mà nhà trường đã phát tôi còn làm ra những đồ chơi tự tạo từ những nguyên phế liệu bỏ đi được phụ huynh cùng các cháu mang đến lớp để cùng cô làm nên những đồ dùng ngộ nghĩnh như hộp thạch rau câu làm thành những chiếc cốc, chén, hay cái bát hoặc những hộp sữa chua lànhững con vật ngộ nghĩnh như con lợn cho trẻ chơi. Hình ảnh những con vật ngộ nghĩnh Để khi bế trẻ vào lớp, tôi cùng trẻ dạo quanh lớp, gợi hỏi những đồ vật, đồ chơi này tên là gì để trẻ trả lời, nếu trẻ trả lời không được hoặc không thích trả lời, tôi sẽ gợi ý và giúp trẻ trả lời dần dần dần trẻ ngoan lên đi học không khóc nữa. Ngoài việc trang trí xây dựng môi trường giáo dục đẹp thì trường lớp phải, thoáng mát, sạch sẽ được lau chùi thường xuyên bằng xà phòng thơm, nhiều đồ chơi hấp dẫn, thu hút trẻ. Từ khi sử dụng biện pháp trên vào đối với học sinh của lớp mình tôi thấy các cháu có sự tiến bộ rõ rệt đạt kết quả rất tốt. Lớp tôi có 32 học sinh số cháu hứng thú đi học đạt 29 cháu bằng 91% so với số trẻ của lớp. 4: Tập cho trẻ quen với nề nếp mới bắt đầu từ những thói quen cũ của trẻ. - Đối với giờ ăn Có thể vài ngày đầu, tôi vẫn sẽ chiều theo nhiều thói quen không tốt của trẻ như: không ăn thịt, rau, đậu, ăn rất ít cơm, hay giờ ngủ phải bế lên vai ru ngủ - nằm bên cạnh cháu mới ngủ, tiêu tiểu trong quần… Tôi sẽ từ từ tập dần thói quen cho trẻ đến khi trẻ quen dần và hiểu chuyện tôi sẽ đưa trẻ vào nề nếp ăn ngủ, vệ sinh. Nếu trẻ không muốn ăn nữa hoặc muốn ói cô phải ngưng cho trẻ ăn vì nếu nôn thức ăn, trẻ sẽ rất sợ thức ăn ở trường. Khi đó cô sẽ cho trẻ uống sữa nhằm bù lại phần ăn cho trẻ. Vài ngày sau cho trẻ ăn tăng dần lên vài muỗng cơm hoặc cháo, trẻ sẽ dễ thích nghi với thức ăn ở trường, sau đó sẽ ăn nhanh gọn và hết suất. Không cho trẻ ăn quà vặt trước giờ ăn để tạo sự thèm ăn cho trẻ. 11 - Đối với giờ ngủ: Cháu chưa quen với giấc ngủ ở trường hay có cháu ở nhà không chịu ngủ trưa tôi dỗ cháu, bế cháu để đưa cháu dần vào giấc ngủ. Đến giờ với lớp tôi giờ ăn ngủ của các cháu rất là ngoan, vào nề nếp ăn xong rửa tay đi vệ sinh và vào chỗ của mình nằm ngủ rất ngoan đôi khi không cần cô phải nhắc nhở. Hình ảnh: Giờ ngủ của bé Là giáo viên của lớp tôi luôn tạo không khí vui tơi, thoải mái cho trẻ, động viên trẻ đi học đều, tạo điều kiện quan tâm đến những trẻ nhút nhát, giành thời gian gần gũi, trò chuyện với trẻ để trẻ mạnh dạn, tự tin tham gia các hoạt động tập thể giúp trẻ đợc giao tiếp nhiều hơn. 5: Tạo sự gần gũi thân thiện với trẻ. Tôi luôn cố gắng trở thành người bạn tin cậy của trẻ khi đến lớp, luôn thu hút trẻ vào những trò chơi nhỏ, hay vào những bài thơ, câu chuyện, ca dao, đồng dao nhằm tạo sự quen thuộc như trẻ đang ở nhà với mẹ. Giờ ngủ nếu trẻ chưa chịu ngủ, tôi cũng không ép trẻ vào nằm chung với các bạn, tôi sẽ để trẻ tự do ngồi đâu trẻ thích, khi đó tôi sẽ đến nói với trẻ lại đây nằm chơi với cô, con chỉ cần nằm chơi tí xíu khi nào các bạn ngủ dậy cô sẽ cho con về. Hoặc tôi sẽ ngồi thuyết phục trẻ đến khi trẻ thấy buồn ngủ thì lúc đó tôi sẽ để trẻ vào gối nằm. Khi đón trẻ tôi cũng thường dặn phụ huynh đón trẻ đúng giờ để trẻ tập quen dần với môi trường mới và sẽ không có cảm giác bị bố mẹ bỏ lại trường. Hình ảnh trẻ vui đến lớp cùng cô giáo 12 6: Hết lòng mến trẻ yêu nghề. Ngoài những biện pháp giúp trẻ thích nghi sớm với trường lớp Mầm non từ những kinh nghiệm thực tiễn và kinh nghiệm học hỏi từ đồng nghiệp tôi đã áp dụng trong những năm học qua, tôi còn đến với trẻ của bằng chính tình thương của mình, bằng lòng yêu nghề, yêu trẻ như chính con đẻ của mình, luôn hoà mình vào thế giới của trẻ, luôn đáp ứng kịp thời những nhu cầu của trẻ nhưng không vượt qua giới hạn, chăm sóc, yêu thương trò chuyện để mỗi ngày trẻ đến lớp càng có thêm nhiều niềm vui, trẻ yêu thích đến lớp và ngày càng ngoan ngoãn lễ phép hơn. Thậm chí có những cháu bị ốm đầu dán cao hạ sốt nhưng sáng ngủ dậy vẫn đòi bố mẹ cho con đi học với cô giáo và các bạn chứ không chịu ở nhà. Sau khi các trẻ mới đã quen trường, quen lớp, quen bạn, tôi bắt đầu dạy trẻ cách chào hỏi cô khi đến lớp, chào mẹ con đi học và thưa ba mẹ khi đi học về, biết nói cảm ơn khi cô và mẹ cho quà, sữa, bánh…. Từ khi sử dụng biện pháp trên vào đối với học sinh của lớp mình tôi thấy các cháu có sự tiến bộ rõ rệt đạt kết quả rất tốt. Lớp tôi có 32 học sinh số cháu hứng thú đi học đạt 29 cháu bằng 91% so với số trẻ của lớp. 7: Tạo sự thích thú với trẻ qua giờ học, dạo chơi. - Sau khi các cháu đã quen với môi trường lớp học, quen cô quen trường, quen lớp, quen bạn, tôi bắt đầu dạy trẻ cách chào hỏi cô khi đến lớp, khi ra về, chào mẹ con đi học và thưa bố mẹ con đi học về, biết nói cảm ơn khi cô và mẹ cho quà, phát sữa. Từ đó dần đưa trẻ vào nề nếp học tập qua từng hoạt động học trong ngày tạo sự hứng thú thoải mái không gây áp lực cho trẻ trong các hoạt động học. Với nhiều hấp dẫn trẻ như: cô giáo đón bé trong những ngày hội ngày lễ cô cài hoa lên áo bé hay tặng bong bóng cho bé. Có thể tổ chức các góc chơi gây hứng thú cho trẻ như tô màu, vẽ, múa lân… Qua các giờ học ngoài việc truyền tải kiến thức đến các cháu, thu hút các cháu vào bài dạy của mình để các cháu không còn khóc và khi về nhà đòi bố mẹ ngày mai con lại đi học với cô giáo. Tôi đã học tập nghiên cứu rất nhiều qua tài liệu, công nghệ thông tin để tích lũy học hỏi kinh nghiệm cho mình những kiến thức hay cách lên lớp tốt tạo sự thoải mái cho trẻ khi học tập không tạo áp lực với trẻ. Ví dụ: Qua giờ học vui nhộn như âm nhạc. Tùy vào từng chủ đề tôi áp dụng làm những chiếc mũ xinh, hay những bộ quần áo ngộ nghĩnh, cho trình diễn thời trang. Từ đó trẻ rất thích và hăng say học bài không tạo áp lực cho trẻ. 13 Hình ảnh: Trẻ đang hoạt động học. Qua giờ văn học: Cô giáo luôn là người bạn tin cậy của trẻ khi đến lớp, luôn thu hút trẻ vào những bài thơ câu chuyện, ca dao, đồng dao, hát ru nhằm tạo sự quen thuộc như trẻ đang ở nhà với mẹ. Ngoài ra tôi còn sử dụng công nghệ thông tin sử dụng Power Point áp dụng vào những bài dạy khiến hình ảnh thêm sinh động rõ nét. Thay đổi nhiều hình thức trên bài dạy như các câu truyện vừa sử dụng Power Point vừa sử dụng tranh, mô hình kết hợp hài hòa để tạo sự tò mò đối với trẻ từ đó mỗi khi lên lớp tôi cảm thấy tự tin phấn khởi hơn khi thấy các cháu chăm chú học tập. Hình ảnh: Trẻ đang hoạt dộng học Đối với những giờ học trầm: như nhận biết tập nói, hoạt động với đồ vật tôi thường kết hợp các hoạt động âm nhạc, hay các trò chơi vào cho tiết học sinh động không tạo sự nhàm chán đối với trẻ. Hỏi trẻ những câu hỏi đơn giản kích thích trẻ trả lời. Tạo cho trẻ sự hứng thú khi học bài. Sử dụng những đồ chơi gây hứng thú đối với trẻ. - Về màu sắc: Sử dụng ba màu cơ bản để trẻ dễ ràng nhận biết ngoài ra còn mở rộng một số màu khác để trẻ nhận biệt thêm. 14 - Chất liệu: Sử dụng nhiều chất liệu dễ kiếm dễ tìm. - Đồ chơi đảm bảo tính giáo dục an toàn đối với trẻ. Ví dụ: Hay đối với giờ học tạo hình: Từ hoạt động tạo hình mà trẻ biết được thế giới tự nhiên, cuộc sống con người vô cùng phong phú đa dạng và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau từ đó trẻ sẽ tái tạo những cảnh vật bằng sự cảm nhận ban đầu đầy ngộ nghĩnh hồn nhiên, đáng yêu của tâm hồn trẻ thơ thông qua các sản phẩm của trẻ. Hoạt động tạo hình giúp trẻ hiểu một cách sâu sắc về các mối quan hệ về sự vật, hiện tượng xung quanh trẻ. Từ đó trẻ có thái độ tình cảm, các hành vi ứng xử tốt qua việc thể hiện các sản phẩm tạo hình. Dạy vẽ còn giúp cho trẻ bước đầu làm quen với các phương tiện và ngôn ngữ tạo hình như: Phát triển khả năng tri giác đồ vật về hình dáng, đường nét, cấu trúc, màu sắc, hình thành cho trẻ các thao tác tư duy nhằm phát triển khả năng sáng tạo. Với trẻ lứa tuổi nhà trẻ hoạt động tạo hình bao gồm vẽ tô màu…thông qua hoạt động này giúp trẻ tìm hiểu khám phá, tái tạo lại những sự vật hiện tượng của thế giới xung quanh hình thành cho trẻ xúc cảm, tình cảm, trẻ nhận thức được cái đẹp, biết yêu quý sáng tạo ra cái đẹp, biết trân trọng những sản phẩm của mình làm ra, từ đó trẻ biết yêu lao động, biết giữ gìn đồ dùng đồ chơi. Hình ảnh trẻ đang hoạt động tạo hình * Giờ dạo chơi: - Tiếp đến tôi sẽ bế trẻ ra sân chơi, trò chuyện hoặc cho trẻ xem cảnh vật xung quanh sân trường, chơi đu quay, chơi nhà bóng… kể chuyện cho bé nghe, việc này sẽ gây hứng thú và cảm tình của trẻ. Tổ chức các trò chơi quen thuộc như trò chơi dân gian: mèo đuổi chuột, chi chi chành chành, dung dăng dung dẻ…. mà trẻ đã được bố mẹ đã cho trẻ chơi rồi khi trẻ đã quen dần ở các buổi tiếp theo tôi mới tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi mới. Trò chuyện cùng với trẻ theo các chủ đề mà cô giáo đã dạy. 15 Hình ảnh: Trẻ dạo chơi cùng cô ngoài trời. Từ khi sử dụng biện pháp trên vào đối với học sinh của lớp mình tôi thấy các cháu có sự tiến bộ rõ rệt đạt kết quả rất tốt. Lớp tôi có 32 học sinh số cháu hứng thú đi học đạt 29 cháu bằng 91% so với số trẻ của lớp. 8: Tuyên truyền kết hợp với phụ huynh. Để cùng cô giáo đưa các cháu vào nề nếp học tập hứng thú đi học thì mỗi phụ huynh cũng góp phần không nhỏ. Tôi cùng với giáo viên phụ củ lớp luôn động viên phụ huynh đưa con đi học đều để tạp cho các cháu thói quen trong học tập. Trước hết, nhà trường phải giúp phụ huynh nắm được quy định của trường, chế độ ăn, lịch sinh hoạt của học sinh. Sau đó, cha mẹ sẽ tập cho bé sinh hoạt ở nhà gần giống như ở trường (ví dụ: 7g30 là hết đón bé tập cho cháu thới quen ăn sáng để đi học đúng giờ), tập cho bé một số thói quen ăn, ngủ, vệ sinh... (khi ăn không làm rơi vãi cơm, ngủ trên sạp giường chứ không nằm võng hay nôi, biết ngồi bô...). Nói chuyện với bé về những điều thú vị ở trường mầm non (chứ đừng dọa: “Con hư ba mẹ sẽ cho con đi trường mầm non” tạo ấn tượng không tốt cho bé). Song song đó, hằng ngày phụ huynh cũng nên đưa bé đến trường chơi vào giờ trả trẻ. Bé sẽ chơi ngoài sân hoặc vào trong lớp học để làm quen với cô giáo, với đồ dùng, đồ chơi... Cùng cô động viên khích lệ trẻ phối kết hợp liên hồi biết được những phản ứng của trẻ để có cách khắc phục có hiệu quả hơn. Phụ huynh - Chụp ảnh của trẻ gửi cô giáo để cô dán ảnh của trẻ vào góc hoạt động trong ngày của trẻ. Tôi động viên phụ huynh mỗi tuần một tối cho các cháu học bài như vẽ tranh tùy vào sở thích mỗi cháu. Cháu thích vẽ gì nên để cháy vẽ bố mẹ nên hướng dẫn cháu tô vẽ thế nào cho đẹp. Hay cho trẻ hát cho bố mẹ, cả nhà cùng nghe động viên khích lệ trẻ. Sáng mai trao đổi cùng cô giáo động viên khuyến khích trẻ, đưa sản phẩm trẻ làm cho cô để cô trang trí lớp. Dùng chính đồ dùng mà trẻ mang đến cho trẻ chơi. - Cho phụ huynh xem những sản phẩm tạo hình của trẻ mà trẻ làm được trong giờ học. Điều đó vừa tạo cho phụ huynh sự tin tưởng ở cô giáo vừa tạo cho cho trẻ sự thoải mái thích thú và muốn được đi học. 16 Từ những biện pháp trên mà các cháu lớp tôi kể cả việc đến lớp cũng như trong học tập đều đạt kết quả rất tốt. Điển hình như ở hội thi ‘Bé khỏe - Bé khéo tay” cấp trường các cháu dự thi với phần thi năng khiếu Aerobic đầy tự tin trên sân khấu. Biễu diễn một cách tự nhiên đúng nhạc, điệu múa uyển chuyển không kém các anh chị lớp lớn. Hình ảnh : Trẻ dự thi năng khiếu Aerobic. Các bé không những thể hiện tốt ở phần thi màn chào hỏi mà còn rất tự tin ở những phần thi tiếp theo như thi cá nhan, thi chung sức. Thể hiện hết khả năng của mình với bản lĩnh đầy tự tin của các bé. Và lớp tôi cũng đạt giải 3 cấp trường. Hình ảnh: Bé dự thi phần thi cá nhân Nhìn các cháu nhà trẻ đi thi ai cũng nghĩ rằng cháu nhỏ như thế thì đi thi làm sao có người còn nói đùa ‘lên thi khóc ấy’ nhưng khi nhìn các cháu tự tin 17 lên biểu diễn màn chào hỏi cũng như các phần thi tiếp theo ai cũng nhìn nhau cười khen ‘bé mà giỏi thật’. Điều đó cũng làm cho phụ huynh yên tâm và phấn khởi rất nhiều khi gửi con cho cô giáo. Lớp tôi cũng dần thu hút được rất đông các cháu đến lớp học. và một điều thường không hay thấy ở lớp nhà trẻ đó là các cháu lớp tôi còn đi học rất đều. Từ khi sử dụng biện pháp trên vào đối với học sinh của lớp mình tôi thấy các cháu có sự tiến bộ rõ rệt đạt kết quả rất tốt. lớp tôi có 32 học sinh số cháu hứng thú đi học đạt 30 cháu bằng 94% so với số trẻ của lớp số phụ huynh phấn khởi cùng con em mình đạt 100%. Từ đây tôi cảm thấy rất vui và phấn khởi khi mình đã đưa ra được những biện pháp để giúp các cháu thích được đến lớp hơn. IV. KIỂM NGHIỆM: Qua một thời gian áp dụng những biện pháp trên, cùng với sự chỉ đạo của Ban giám hiệu nhà trường, sự hổ trợ góp ý của các bạn đồng nghiệp trong trường. Lớp học của tôi đã thu hoạch được những kết quả như sau: - Đối với giáo viên: + Nắm chắc tâm lý của từng trẻ, phương pháp giúp cho trẻ thích đến lớp. + Có nhiều kinh nghiệm trong việc chiêu sinh trẻ đến lớp học. + Nâng cao kinh nghiệm trong giảng dạy, cũng như trong việc chăm sóc trẻ hàng ngày.. - Đối với trẻ: + Qua một thời gian áp dụng những biện pháp trên tôi nhận thấy trẻ tôi đang dạy có khả năng giao tiếp mạnh dạn hơn, thích được đi học hơn. Có cháu bị ốm, sốt bố mẹ bảo con ốm nghỉ ở nhà với mẹ nhưng không đồng ý và đòi mẹ đến lớp để học bài cùng cô giáo và các bạn. + Biết thể hiện tình cảm giao lưu giữa bạn bè, giữa trẻ và cô, thích chơi cùng bạn và biết được nhiệm vụ của mình và bạn trong khi chơi, có thái độ tự giác cùng bạn đến góc chơi, hứng thú trong khi chơi và có ý thức giữ gìn đồ dùng, đồ chơi. Biết chia sẻ phân vai chơi cùng nhau một cách hòa đồng hơn. Sau khi áp đầu năm dụng các biện pháp của mình vào việc giúp trẻ ham thích đến lớp học kết quả đạt được trên trẻ so với kết quả khảo sát. Trẻ hứng thú đi hoc Tổng số trẻ Kết quả đầu Kết quả cuối năm năm SL % SL % 32 8 25 29 91 Trẻ chưa hứng thú đi học Kết quả đầu Kết quả năm cuối năm SL % SL % 24 75 3 9 Có được kết quả trên là nhờ sự quan tâm giúp đỡ của Ban giám hiệu nhà trường đã tạo điều kiện về cơ sỡ vật chất cũng như mọi điều kiện, góp ý cho tôi 18 và thường xuyên thăm lớp của các trường bạn để tôi học hỏi đúc rút kinh nghiệm vào việc giúp trẻ thích đến lớp. C. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT * Kết luận: Sau khi nghiên cứu đề tài trên, cũng như áp dụng một số biện pháp trên vào việc ‘đưa trẻ thích được đến lớp học’của lớp tôi nói riêng tôi đã rút ra được một số kinh nghiệm: - khảo sát để trẻ nắm chắc tình hình tâm lý trẻ nhất là trẻ nhà trẻ. - Giáo viên luôn nghiên cứu kỹ các phương pháp để hướng dẫn trẻ thực hiện. - Cần học hỏi và nâng cao nghệ thuật lên lớp, trong cách ứng xử tình huống sư phạm. Dạy trẻ có kế hoạch bồi dưỡng thêm những trẻ yếu hơn tiếp thu chậm. Luôn khuyến khích động viên khen ngợi trẻ tạo sự hứng thú cho trẻ. - Xây dựng môi trường học tập. - Kết hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ làm đồ dùng đồ chơi phục vụ cho viêc chơi và học của trẻ. Hơn nữa việc đưa trẻ thích đến lớp là vô cùng quan trọng hàng ngày đối với trẻ. Vì thế là một giáo viên cần xác định đây là nhiệm vụ quan trọng phải khắc phục mọi khó khăn chuẩn bị tốt đồ dùng, đồ chơi để tổ chức cho trẻ hoạt động hàng ngày tạo điều kiện cho trẻ được tiếp xúc với các hoạt động hàng ngày bằng nhiều hình thức khác nhau. Qua việc thực hiện áp dụng biện pháp mới tôi thấy trẻ thích chơi hơn, sáng tạo hơn, linh động hơn, nhanh nhẹn hơn, thay vào sự nhàm chán của trẻ ở những năm học trước bằng những sự hứng thú, tập trung, giúp trẻ chơi với đồ chơi thể hiện được sự khéo léo, sự giao lưu giữa bạn bè và trẻ. Giúp cho giáo viên thêm phần khéo léo, sáng tạo trong việc tìm ra các giải pháp để thực hiện tốt chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ. Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ của bản thân đã áp dụng vào việc đưa trẻ ham thích được đến lớp và cũng có một số kinh nghiệm rút ra từ thực tế của lớp học để áp dụng vào. Bản thân tôi sẽ cố gắng học hỏi hơn nữa để tìm ra những giải pháp tối ưu nhằm đáp ứng nhu cầu cho trẻ theo chương trình hiện hành. Từ những cơ sở thực tiễn trên, tôi nhận ra rằng giữa giáo viên, nhà trường, gia đình trẻ phải có sự thống nhất trong toàn bộ quá trình chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em ở cả hai môi trường: trường mầm non và gia đình. Trẻ mầm non còn rất non nớt, không thể tự phát triển mà có vai trò dẫn dắt của người lớn .Vì vậy việc giáo dục mầm non phải thể hiện được vai trò chủ đạo của giáo viên, đưa ra những yêu cầu phù hợp với đặc điểm cá nhân, vốn sống của trẻ. Qua các bước phân tích trên, tôi đã rất đạt hiệu quả trong việc thu nhận trẻ mới và rất 19 mong sẽ có nhiều phụ huynh tin yêu gửi con luôn an tâm về cách chăm sóc, giáo dục trẻ theo các hướng đã đề ra. *Ý kiến đề xuất. - Đối với phòng giáo dục. Đề nghị với phòng giáo dục huyện nga sơn và các cấp trên quan tâm hơn nữa đến các tài liệu dùng đồ chơi phục vụ cho hoạt động hàng ngày của trẻ nhà trẻ. Để giáo viên có tài liệu tham khảo nâng cao nghiệp vụ của mình. - Đối với nhà trường Đề nghị ban giám hiệu trường tạo điều kiện cho chị em được dự giờ thăm lớp nhiều hơn. Đặc biệt là đối với hoạt động giúp trẻ ham thích đi học để chị em học hỏi vận dụng kiến thức vào thực tế cho mình tốt hơn. Do đặc thù nghề nghiệp làm cả ngày, học sinh thì nhỏ nên thời gian chăm sóc trẻ nhiều. Thời gian dành cho việc học tập, tham khảo tài liệu cũng như làm đồ dùng còn rất hạn chế, Kiến nghị các cấp cho nhà trường được hợp đồng thêm giáo viên để tạo điều kiện giáo viên làm việc và học tập được tốt hơn. Nga Bạch, ngày 22 tháng 3 năm 2015 XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. Người viết Hoàng Thị Thanh Thủy 20 SKKN một số biện pháp giúp trẻ 24 36 tháng yêu thích hoạt động tạo hìnhBạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.44 MB, 28 trang ) Đề tài: Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng yêu thích hoạt động tạo hình 7/ Đánh giá khen ngợi, động viên kịp thời: ………………………Trang 21 8/ Phối kết hợp với phụ huynh: …………………………………Trang 22 Giáo viên: Nguyễn Thị Ánh Tuyết Trường Mầm Non Vĩnh Hòa 1 Đề tài: Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng yêu thích hoạt động tạo hình VI. Kết quả: …………………………………………………………….Trang 23 V/ Bài học kinh nghiệm ………………………………………………..Trang 23 VI. Kiến nghị: ………………………………………………………….Trang 24 TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………………………………Trang 25 PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ Giáo viên: Nguyễn Thị Ánh Tuyết Trường Mầm Non Vĩnh Hòa 2 Đề tài: Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng yêu thích hoạt động tạo hình 1. Lý do chọn đề tài Trẻ mầm non luôn rất nhạy cảm với cái đẹp xung quanh, đây là thời kỳ phát triển những cảm xúc thẩm mỹ – đó là những cảm xúc tích cực được nảy sinh khi trẻ tiếp xúc trực tiếp với cái đẹp trong các nghệ thuật trong đó có nghệ thuật tạo hình. Hoạt động tạo hình có vai trò rất lớn đối với sự nhận thức cho trẻ. Thông qua hoạt động tạo hình trẻ có cơ hội tìm hiểu, nghiên cứu các đối tượng miêu tả để có được hiểu biết, hình dung về đối tượng đó, từ đó trẻ xây dựng các đối tượng. Hoạt động tạo hình là phương tiện để phát triển tư duy, trí nhớ, tưởng tượng… điều đó giúp tăng thêm vốn hiểu biết của trẻ. Hoạt động tạo hình cũng là con đường để giáo dục tình cảm – xã hội cho trẻ mầm non. Trẻ được tiếp thu cái đẹp qua hoạt động tạo hình, trẻ trực tiếp trải nghiệm các xúc cảm, các trạng thái tình cảm trong giao tiếp, học hỏi về các kỹ năng xã hội và trẻ biết cách đánh giá các hành vi xã hội. Qua hoạt động tạo hình giúp trẻ có thói quen tự giác làm việc. Hoạt động tạo hình đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển thẩm mỹ cho trẻ. Hoạt động tạo hình là một trong những hoạt động nghệ thuật. Hoạt động này giúp cho trẻ có điều kiện thuận lợi nhất cho sự phát triển của cảm giác, tri giác thẩm mỹ, giúp trẻ nhận ra màu sắc, hình dạng, đường nét, tỷ lệ, sự sắp xếp trong không gian…nhận thấy được cái đặc trưng và nét đẹp trong sự vật, hiện tượng mà trẻ miêu tả. Hoạt động tạo hình giúp phát triển thể chất cho trẻ mầm non. Hoạt động tạo hình giúp cho đôi bàn tay của trẻ linh hoạt, phát triển khả năng kết hợp khéo léo của đôi tay và đôi mắt. Hoạt động tạo hình giúp phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Trẻ tạo ra sản phẩm tạo hình muốn giới thiệu về hoạt động đó, qua đó làm tăng thêm vốn từ và ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ. Qua hoạt động tạo hình còn giúp trẻ vững vàng hơn khi bước vào trường phổ thông. Hoạt động này giúp cho trẻ biết những kiến thức sơ đẳng về tự Giáo viên: Nguyễn Thị Ánh Tuyết Trường Mầm Non Vĩnh Hòa 3 Đề tài: Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng yêu thích hoạt động tạo hình nhiên, xã hội để trẻ nhanh chóng bắt kịp cùng các môn học ở trường tiểu học. Giúp trẻ có thói quen nề nếp học tập. Hoạt động tạo hình cùng với các hoạt động khác giúp cho sự phát triển toàn diện của trẻ. Vậy nên chúng ta cần tạo môi trường đặc biệt là môi trường kích thích tính tò mò, ham hiểu biết, muốn tạo ra cái đẹp cho trẻ tham gia một cách tích cực nhất. Hoạt động tạo hình trong trường mầm non với mục đích giúp trẻ nhận ra vẻ đẹp của các sự vật hiện tượng xung quanh trẻ, từ đó giáo dục trẻ biết ứng xử với cái đẹp, làm nảy sinh cho trẻ nhu cầu tái tạo và sáng tạo ra cái đẹp. Cũng như các hoạt động khác, hoạt động tạo hình cung cấp cho trẻ các biểu tượng về sự vật hiện tượng, phát triển thể lực cho trẻ, giáo dục đạo đức và kỹ năng giao tiếp xã hội, kỹ năng lao động cho trẻ.Trẻ mầm non có tâm hồn nhạy cảm với thế giới xung quanh bởi thế giới xung quanh chứa đựng bao điều mới lạ hấp dẫn. Trẻ thường tỏ ra dễ xúc cảm với cảnh vật xung quanh, trẻ dễ bị cuốn hút trước cảnh vật có nhiều màu sắc. Một bông hoa đẹp, một bức tranh sinh động, một đồ chơi ngộ nghĩnh cũng có thể gây cảm xúc cho trẻ. Với đặc điểm như vậy nên năng khiếu nghệ thuật thường được nảy sinh ngay từ tuổi ấu thơ. Trẻ biết đánh giá, khái quát, phản ánh ấn tượng của bản thân không phụ thuộc vào thực tế. Trẻ rất thích sử dụng màu sặc sỡ mang tính chất phản ánh biểu tượng, mỗi sản phẩm của trẻ mang một nội dung, một tên gọi khác nhau. Trong thực tế việc tổ chức các hoạt động tạo hình cho trẻ 24 – 36 tháng đã mang lại hiệu quả tới việc phát triển cho trẻ. Song phương pháp đó chưa thực sự đáp ứng và đem lại kết quả mà tôi mong đợi. Các phương pháp hoạt động tạo hình đang được sử dụng còn mang tính áp đặt. Chưa tạo được hứng thú cho trẻ, chưa khơi gợi được sự yêu thích của trẻ.Giáo viên thường chú ý đến sản phẩm trẻ làm ra, ít chú ý đến kỹ năng tạo hình, quá trình làm ra sản phẩm; giáo viên thiếu sự linh hoạt, sáng tạo trong tổ chức hoạt động tạo hình. Mặt khác sự hứng thú, kĩ năng tạo ra sản phẩm tạo hình của trẻ chưa cao, nhiều trẻ chưa biết đặt tên sản phẩm làm ra. Giáo viên: Nguyễn Thị Ánh Tuyết Trường Mầm Non Vĩnh Hòa 4 Đề tài: Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng yêu thích hoạt động tạo hình Nhận thức rõ trách nhiệm to lớn của giáo viên mầm non nhất là giáo viên nhà trẻ trong giai đoạn phát triển hiện nay tất cả các hoạt động giáo dục đều đảm bảo: “ Lấy trẻ làm trung tâm” là một giáo viên nhà trẻ tôi với mong muốn làm như thế nào để trẻ có thể yêu thích và học tốt môn tạo hình, tôi đã nghiên cứu và đưa vào vận dụng “Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng yêu thích hoạt động tạo hình”. 2. Mục đích của đề tài: Đề xuất và lý giải một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng yêu thích hoạt động tạo hình. 3. Bản chất cần được làm rõ của đề tài: Nghiên cứu cơ sở lý luận về khả năng tạo hình của trẻ và thực trạng khả năng tạo hình của trẻ. Nghiên cứu đưa ra các giải pháp để giúp trẻ 24 – 36 tháng yêu thích hoạt động tạo hình. 4. Chọn đối tượng cho quá trình nghiên cứu: Biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng yêu thích hoạt động tạo hình. 5. Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp lý luận: Đọc, phân tích, tổng hợp các tài liệu có liên quan nhằm xây dựng cơ sở lý luận cho việc viết đề tài sáng kiến kinh nghiệm. - Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tài liệu về phương pháp dạy tạo hình cho trẻ. - Phương pháp quan sát: Quan sát hoạt động tạo hình của trẻ, qua đó cũng đánh giá được khả năng tạo hình của trẻ. - Phương pháp toán học: Sử dụng phương pháp toán học để đánh giá kết quả, tính phần trăm. 6. Giới hạn về không gian của đối tượng nghiên cứu: Bài sáng kiến lấy đối tượng là học sinh Nhóm trẻ A Trường Mầm non Vĩnh Hòa Giáo viên: Nguyễn Thị Ánh Tuyết Trường Mầm Non Vĩnh Hòa 5 Đề tài: Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng yêu thích hoạt động tạo hình 7. Phạm vi, kế hoạch nghiên cứu: Nghiên cứu trong phạm vi trường, thời gian từ tháng 5 năm 2016 đến tháng 1năm 2017. PHẦN II: NỘI DUNG I. Cơ sở lý luận: 1. Đặc điểm tâm sinh lý của trẻ 24 – 36 tháng trong hoạt động tạo hình: Ngay từ tháng đầu tiên của cuộc đời, nhu cầu tiếp nhận ấn tượng từ thế giới bên ngoài của trẻ đã được này sinh, trẻ thường chăm chú tìm hiểu thế giới xung quanh, lắng nghe những âm thanh, tiếng động mạnh ở bên ngoài. Dần dần lớn lên khả năng tiếp nhận những những ấn tượng từ thế giới bên ngoài ngày càng tốt hơn. Trẻ đã bắt đầu sử dụng đôi bàn tay, ngón tay để tạo ra sản phẩm, tất nhiên đằng sau đôi bàn tay là hoạt động cuả bộ não. Hoạt động tạo hình của trẻ ở lứa tuổi này mới là bước đầu, tạo điều kiện cho trẻ làm quen với hình, khối, màu sắc đơn giản. Nói đúng hơn hoạt động tạo hình ở lứa tuổi này chủ yếu là hoạt động vui chơi với hình, với màu, qua đó phát triển dần ở trẻ khả năng quan sát, khả năng vận động, giúp cho hoàn thiện cơ, khớp, đồng thời tạo điều kiện cho trẻ sử dụng từ trong giao tiếp. Trẻ 24 – 36 tháng hoạt động của bàn tay, ngón tay tương đối linh hoạt và khéo léo, khả năng quan sát ghi nhớ và chú ý đã có chủ định, các đặc điểm đặc trưng hình thành ở trẻ tương đối đầy đủ (hình dáng, màu sắc…), lứa tuổi này đang trong giai đoạn phát triển tư duy trực quan hành động và tư duy trực quan hình tượng. Mọi hoạt động diễn ra xung quanh trẻ đều là những đối tượng gây sự chú ý cho trẻ và kích thích trẻ bắt chước theo do nhu cầu tìm tòi khám phá ở trẻ cao. Tuy nhiên khả năng của trẻ còn hạn chế, trẻ dễ dao động đặc biệt trong hoạt động nặn, vẽ, … quan sát tranh ảnh… Khả năng nhận thức của trẻ 24 – 36 tháng Giáo viên: Nguyễn Thị Ánh Tuyết Trường Mầm Non Vĩnh Hòa 6 Đề tài: Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng yêu thích hoạt động tạo hình Về cảm giác, tri giác: Ở lứa tuổi này trẻ bước đầu có tập làm chủ tri giác của mình, biết tập chung tri giác của mình theo sự hướng dẫn của người lớn, biết kiểm tra kết quả tri giác của mình và đã có khả năng điều chỉnh tri giác theo hướng đúng. Về ghi nhớ: Trẻ 24 – 36 tháng ghi nhớ có chủ định bắt đầu hình thành và phát triển. Về tư duy: Tư duy trực quan hình tượng phát triển mạnh và chiếm ưu thế, trẻ giải quyết các hiện tượng tư duy bằng hành động cụ thể của mình trên cơ sở trẻ được tích lũy các hình ảnh, biểu tượng ở xung quanh trẻ. Trong tư duy đã bước đầu suy luận nhưng chỉ dựa vào các biểu tượng, các kinh nghiệm cụ thể, vì vậy có thể trẻ suy luận chưa chính xác chưa đúng. Theo quan điểm của rất nhiều nhà khoa học, cách tốt nhất để học khoa học là phải làm khoa học. Đối với trẻ mầm non làm khoa học cũng chính là quá trình khám phá nó. Đây là những hoạt động “Tìm kiếm để phát hiện ra cái mới, cái ẩn giấu”. Ở đó giáo viên tạo điều kiện, cơ hội và tổ chức các hoạt động để cho trẻ tích cực tìm tòi, phát hiện những điều thú vị về các sự vật, hiện tượng xung quanh trẻ. Ngoài ra giáo viên còn luôn phải tạo ra các tình huống, môi trường nhằm tổ chức các hoạt động cho trẻ tiếp xúc, trải nghiệm với các sự vật, hiện tượng của môi trường xung quanh, thông qua đó tích luỹ những hiểu biết của trẻ về đặc điểm, thuộc tính sự vật, hiện tượng, các mối quan hệ qua lại, sự thay đổi và phát triển của chúng. Điều quan trọng hơn cả là thông qua các hoạt động khám phá này trẻ học được các kĩ năng quan sát, so sánh phân loại, đo lường, phán đoán, giải quyết vấn đề, chuyển tải ý kiến của mình và đưa ra kết luận. 2. Kỹ năng của trẻ 24 – 36 tháng trong hoạt động tạo hình: Khi sinh ra không phải ai cũng có những năng khiếu bẩm sinh, nhất là trong lĩnh vực nghệ thuật (tạo hình). Những hoạt động tạo hình của trẻ do người lớn giáo dục và môi trường sống xung quanh ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển tài năng của trẻ. Giáo viên: Nguyễn Thị Ánh Tuyết Trường Mầm Non Vĩnh Hòa 7 Đề tài: Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng yêu thích hoạt động tạo hình Hoạt động tạo hình của trẻ 24 – 36 tháng mang tính thụ động, kỹ năng thực hiện các bài tập còn vụng về chưa chính xác, sản phẩm thể hiện theo ý thích chủ quan, thái độcủa trẻ “thực hiện theo ý nghĩ” mang tính chất vui chơi. Vì vậy để trẻ có kỹ năng tạo hình cần có sự hướng dẫn của cô giáo nhàm phát triển và rèn luyện những kỹ năng cơ bản cho trẻ. Kỹ năng là yếu tố rất quan trọng để giúp trẻ tạo ra sản phẩm một cách tự tin, có kỹnăng trẻ có khả năng điều khiển điều chỉnh hành động để thực hiện kế hoạch đã định. Tuy vậy kỹ năng của trẻ 24 – 36 tháng phát triển còn ở mức độ trung bình, để thuận tiện cho việc phát triển ở giai đoạn lứa tuổi sau thì trước hết trẻ phải trang bị tốt kỹ năng cơ bản và hành thạo ở giai đoạn lứa tuổi này. 3. Vai trò của hoạt động tạo hình với sự phát triển của trẻ: Hoạt động dạy trẻ hoạt động tạo hình đóng vai trò vô cùng quan trọng, nó giúp trẻ: Phát triển nhận thức Trong hoạt động tạo hình, trẻ từ 0-6 tuổi có nhiều cơ hội tìm hiểu, nghiên cứu các đối tượng miêu tả để có được hiểu biết, sự hình dung về các đối tượng đó, từ đó xây dựng các biểu tượng. Bởi vậy, có thể khẳng định rằng, hoạt động tạo hình là một trong những phương tiện tích cực để phát triển ở trẻ khả năng hoạt động trí tuệ như: óc quan sát, trí nhớ, tư duy, tưởng tượng. Nhờ hoạt động tạo hình mà vốn hiểu biết của trẻ về thế giới xung quanh được tăng lên, ngày càng trở nên “giàu có” hơn cả về lượng và chất. Hoạt động tạo hình với các quá trình tìm hiểu, đánh giá đối tượng miêu tả và sản phẩm tạo hình sẽ tạo điều kiện phát triển ở trẻ vốn từ, lời nói hình tượng truyền cảm và phát triển ở trẻ ngôn ngữ mạch lạc Phát triển giáo dục tình cảm- xã hội Giáo viên: Nguyễn Thị Ánh Tuyết Trường Mầm Non Vĩnh Hòa 8 Đề tài: Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng yêu thích hoạt động tạo hình Tham gia vào hoạt động tạo hình, trẻ có nhiều điều kiện tiếp thu cái đẹp, cái tốt trong xã hội, trải nghiệm các xúc cảm, tình cảm trong giao tiếp, học hỏi về các kỹ năng xã hội và đánh giá các hành vi văn hóa- xã hội qua các hình tượng, các sự kiện, hiện tượng được miêu tả. Nội dung của tạo hình là con đường dẫn dắt trẻ nhanh chóng hòa nhập vào xã hội xung quanh. Tham gia vào hoạt động tạo hình, trẻ sẽ trải nghiệm những xúc cảm đặc biệt như tình yêu thương, lòng mong muốn làm điều tốt cho người khác. Đó chính là điều kiện để hình thành ở trẻ tính chu đáo, ý thức cộng đồng, biết chia sẻ, quan tâm chăm sóc tới người khác và các kỹ năng giao tiếp xã hội. Quá trình hoạt động sáng tạo ra sản phẩm sẽ giúp trẻ được rèn luyện các kỹ năng hoạt động thực tiễn, thói quen làm việc một cách tự giác, tính tích cực. Phát triển thẩm mỹ cho trẻ Với tư cách là một hoạt động nghệ thuật, hoạt động tạo hình tạo nên những điều kiện thuận lợi nhất cho sự phát triển của cảm giác, tri giác thẩm mỹ: việc quan sát, tìm hiểu các sự vật, hiện tượng giúp trẻ nhận ra các đặc điểm thẩm mỹ (hình dáng, màu sắc, cấu trúc, tỷ lệ, sự sắp xếp không gian,…) nhận ra được những nét độc đáo, tạo nên sức hấp dẫn của đối tượng miêu tả. Sự thể hiện nội dung tạo hình bằng phương tiện truyền cảm mang tính trực quan (đường nét, hình dạng, màu sắc,…) sẽ làm cho các cảm xúc thẩm mỹ của trẻ ngày càng trở nên sâu sắc hơn, trí tưởng tượng mang tính nghệ thuật của trẻ ngày càng phong phú. Sự phản ánh hiện thực và biểu lộ tình cảm qua các phương tiện truyền cảm đặc trưng cho loại hình nghệ thuật vật thể như đường nét, hình dạng, màu sắc, bố cục, không gian,… chính là con đường lĩnh hội các kinh nghiệm văn hóa thẩm mỹ rất phù hợp với lứa tuổi của trẻ em, trên cơ sở đó mà hình thành thị hiếu thẩm mỹ sau này. Phát triển thế chất của trẻ Giáo viên: Nguyễn Thị Ánh Tuyết Trường Mầm Non Vĩnh Hòa 9 Đề tài: Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng yêu thích hoạt động tạo hình Hoạt động tạo hình sẽ giúp phát triển ở trẻ khả năng phối hợp, điều chỉnh hoạt động của mắt và tay, rèn luyện sự khéo léo, linh hoạt trong vận động của tay, từ đó giúp cho việc học viết của trẻ ở tiểu học sẽ đạt kết quả tốt. Chuẩn bị cho trẻ đi học ở trường phổ thông Hoạt động tạo hình góp phần không nhỏ trong việc chuẩn bị cho trẻ một kiến thức sơ đẳng về tự nhiên, xã hội, về khoa học- kỹ thuật để giúp trẻ nhanh chóng làm quen với các môn học mới ở tiểu học. Hoạt động tạo hình góp phần chuẩn bị về tân lý cho trẻ bước vào học tập tại trường tiểu học: hoạt động này giáo dục ở trẻ lòng ham muốn tiếp thu những điều mới lạ, những phương thức hoạt động mới, giúp trẻ hình thành thói quen học tập một cách có mục đích, có tổ chức, biết lắng nghe và thực hiện lời chỉ bảo của cô giáo. Hoạt động tạo hình là môi trường cho trẻ rèn luyện năng lực điều khiển hành vi của mình thực hiện nhiệm vụ đã đề ra. II. Thực trạng hoạt động tạo hình của trẻ 24 – 36 tháng: Hoạt động tạo hình giúp trẻ phát triển toàn diện và có thêm nhiều hiểu biết về thế giới xung quanh trẻ. Tuy nhiên qua thực hiện trong các năm học giáo viên chúng ta còn gặp những thuận lợi và khó khăn sau: 1. Thuận lợi Bản thân tôi trong quá trình học tập đã có những cảm nhận sâu sắc về nội dung làm sao giúp trẻ yêu thích và học tốt hoạt động tạo hình. Qua đó giúp trẻ phát triển toàn diện về các mặt : Nhận thức, thẩm mĩ, thể chất, đạo đức, ngôn ngữ một cách tốt nhất. Có sự quan tâm, chỉ đạo, hướng dẫn của ban giám hiệu về tổ chức hoạt động tạo hình cho trẻ. Luôn nhận được sự giúp đỡ, những kinh nghiệm của đồng nghiệp. Về cơ sở vật chất đầy đủ để phục vụ cho việc dạy và học môn tạo hình. Giáo viên: Nguyễn Thị Ánh Tuyết Trường Mầm Non Vĩnh Hòa 10 Đề tài: Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng yêu thích hoạt động tạo hình Nhà trường có môi trường cảnh quan sư phạm đẹpgópphần rất lớn cho trẻ quan sát, từ đó cung cấp cho trẻ những biểu tượng thể hiện sự hiểu biết của mình về thế giới xung quanh. Bản thân tôi có trình độ đại học sư phạm, nhiều năm được phân công dạy lớp nhóm trẻ 24 – 36 tháng nên đã đúc rút được một số kinh nghiệm từ việc từ việc dạy trẻ môn tạo hình. 2. Khó khăn: Do vốn kinh nghiệm sống của trẻ 24 – 36 tháng còn ít, khả năng tậptrung, chú ý chưa cao, trẻ chưa biết sử dụng hết khả năng của mình để khám phá về thế giới xung quanh. Nhận thức của một số phụ huynh học sinh về môn học chưa đúng. Bên cạnh một số phụ huynh nhiệt tình hỗ trợ đồ dùng phế liệu, đồ chơi cho trẻ. Còn một số phụ huynh chưa quan tâm gì đến việc học và chơi của con em mình. Bên cạnh đó đa số phụ huynh lo sợ con tiếp xúc với các nguyên vật liệu từ thiên nhiên, từ phế liệu sẽ làm trẻ bệnh, nguy hiểm cho trẻ nên thường cấm trẻ không cho trẻ chơi, hoạt động Số trẻ trong lớp chưa đồng đều về chất lượng, số ít cháu còn nhút nhát trong khi thể hiện ý tưởng của mình. Vì vậy, muốn cho trẻ yêu thích và học tốt hoạt động tạo hình giáo viên cần phải phát huy tính chủ động, tích cực hoạt động của trẻ sao cho hoạt động dạy và học phải là hoạt động hợp tác giữa giáo viên và trẻ đảm bảo luôn “ lấy trẻ làm trung tâm”, có như vậy thì việc dạy học mới đạt hiệu quả tối ưu đối với sự phát triển của trẻ nhằm giúp cho tiết học đạt kết quả tốt hơn. III. Biện pháp thực hiện: Mục đích của hoạt động tạo hình nhằm giúp trẻ cảm nhận vẻ đẹp của sự vật, hiện tượng qua đường nét, cách sắp xếp, bố trí các hình khối, phát triển khả năng tri giác về màu sắc, hình dạng, bố cục… Đặc biệt, hoạt động tạo hình phát triển khả năng cảm nhận cái đẹp trong thiên nhiên, nghệ thuật, trong cuộc sống, khơi gợi ở trẻ Giáo viên: Nguyễn Thị Ánh Tuyết Trường Mầm Non Vĩnh Hòa 11 Đề tài: Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng yêu thích hoạt động tạo hình những cảm xúc, tình cảm thẩm mỹ và hứng thú tham gia vào các hoạt động nghệ thuật. Vì vậy để giúp trẻ yêu thích và học tốt hoạt động tạo hình, tôi không ngại tìm tòi, ứng dụng các kiến thức, phương pháp đổi mới như sau: 1/ Xây dựng nề nếp học tập trong giờ học trên lớp. Nề nếp của trẻ là bước đầu của một tiết học, nếu chúng ta không đưa trẻ vào nề nếp thì giờ học không đạt kết quả cao. Khi trẻ có nề nếp tốt cùng với sự hướng dẫn khoa học của cô ngay ban đầu trẻ đã say mê với giờ học, luôn thể hiện cảm xúc, trí tưởng tượng cho hoạt đông nghệ thuật. Tôi đã rèn luyện nề nếp bằng cách: Xếp xen kẽ cháu mạnh dạn với cháu nhút nhát, cháu nam xen cháu nữ. Chia tổ, đặt tên cho tổ “tổ màu xanh, tổ màu vàng, tổ màu đỏ.Tôi luôn động viên trẻ trong tiết học, uốn nắn tác phong ngồi học cho trẻ, trẻ ngồi đúng tư thế, không nói chuyện, không nói leo, nói phải xin phép cô, tập nói rõ ràng, mạch lạc, đủ câu,… Với những biện pháp trên trẻ đã có thói quen tốt trong việc xây dựng nề nếp học tập. 2/ Tổ chức môi trường cho trẻ hoạt động tích cực, gây hứng thú, làm giàu cảm xúc và vốn biểu tượng phong phú về đối tượng tạo hình - Trang trí môi trường lớp học đẹp, mang tính thẩm mỹ cao và phù hợp với các chủ đề, tạo sự mới mẻ thu hút tính tò mò, ham hiểu biết của trẻ. Giáo viên: Nguyễn Thị Ánh Tuyết Trường Mầm Non Vĩnh Hòa 12 Đề tài: Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng yêu thích hoạt động tạo hình Giáo viên: Nguyễn Thị Ánh Tuyết Trường Mầm Non Vĩnh Hòa 13 Đề tài: Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng yêu thích hoạt động tạo hình - Bố trí góc tạo hình thích hợp với đầy đủ dụng cụ, vật liệu, tạo hình, cho phép trẻ tự lựa chọn góc chơi của mình. - Tổ chức các hoạt động đa dạng nhằm giúp trẻ tạo hình theo khả năng và sở thích. Giáo viên: Nguyễn Thị Ánh Tuyết Trường Mầm Non Vĩnh Hòa 14 Đề tài: Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng yêu thích hoạt động tạo hình Tạo điều kiện để trẻ thường xuyên tiếp xúc với môi trường xung quanh để từng bước cung cấp các biểu tượng phong phú về đối tượng cho trẻ tự khám phá bằng cách huy động sự tham gia của các giác quan, các qúa trình tâm lí khác nhau để lĩnh hội các khía cạnh khác nhau của sự vật. Tạo cơ hội để trẻ khám phá đối tượng (quan sát, nghe, hỏi, tiếp xúc và miêu tả) và tự diễn đạt nhận thức cảm xúc của mình về đối tượng. Tận dụng các thời điểm hợp lí trẻ chơi với các đồ vật, tri giác tranh ảnh nghệ thuật. Trong quá trình cung cấp biểu tượng về đối tượng tạo hình tôi chỉ cho trẻ thấy được những nét đặc trưng nổi bật , những cái đẹp lý thú gần gũi trẻ. Đồng thời giúp trẻ phân tích, so sánh tổng hợp tìm ra những đặc điểm riêng, chung của những đồ vật cùng nhóm, cùng loại. Từ đó giúp trẻ tìm ra phương thức thể hiện trong những tình huống khác nhau. Ví dụ : Trẻ dùng các vật liệu khác nhau như: tăm bông, cúc áo, miếng xốp, quả đậu bắp chấm vào màu nước để tạo thành “Vườn hoa” có bông cao, bông thấp, bông đỏ, bông vàng Giáo viên: Nguyễn Thị Ánh Tuyết Trường Mầm Non Vĩnh Hòa 15 Đề tài: Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng yêu thích hoạt động tạo hình Đặt và xắp xếp các vật liệu sao cho trẻ có thể thấy rõ và lấy được dễ dàng để thực hiện hoạt động tạo hình vào bất cứ lúc nào trẻ thích và có thể trưng bày các sản phẩm của mình. Giáo viên: Nguyễn Thị Ánh Tuyết Trường Mầm Non Vĩnh Hòa 16 Đề tài: Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng yêu thích hoạt động tạo hình Tạo môi trường nghệ thuật xung quanh trẻ như: bầy đồ chơi đẹp, xắp xếp các nguyên vật liệu, đồ dùng một cách hợp lý đẹp mắt,...Từ đây tạo cho trẻ cảm giác thích thú và mong muốn được tái tạo. 3/ Phương pháp hướng dẫn phải dựa vào trẻ lấy trẻ làm trung tâm: Trong giờ học nói chung và giờ học tạo hình nói riêng hãy để trẻ tự thể hiện, cô luôn là người động viên, khuyến khích trẻ sáng tạo. Trẻ cần được động viên để thể hiện ý muốn, tình cảm, cảm xúc và những hiểu biết của trẻ đối với sự vật, trẻ muốn được lựa chọn. + Cái trẻ muốn làm (nội dung) + Làm thế nào để đạt được (quá trình) + Cái hoàn thành sẽ như thế nào (kết quả, sản phẩm) Mong muốn của trẻ cần được tự thể hiện với những phương tiện tạo hình khác nhau. Sự thể hiện mang tính cá nhân, bởi vì trẻ luôn tiếp cận theo đặc tính riêng của mình. Giáo viên: Nguyễn Thị Ánh Tuyết Trường Mầm Non Vĩnh Hòa 17 Đề tài: Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng yêu thích hoạt động tạo hình Tăng cường các câu hỏi gợi ý giúp trẻ củng cố và áp dụng những kinh nghiệm đã lĩnh hội trong các hoạt động khác nhau, động viên trẻ suy nghĩ, thăm dò, tìm cách giải quyết vấn đề của trẻ. Hãy để tự trẻ miêu tả những gì trẻ biết và có thể làm. Ví dụ: “Hãy cho cô biết vì sao”, “Nếu như vậy thì sao”, “Vì sao cháu lại biết”, Với những cử chỉ, hành động, lời nói tạo ra cho trẻ thấy là trẻ được đánh giá tốt (khá) qua việc làm của trẻ. Ví dụ: “Ôi cô rất thích tô màu ngôi trường này”, “Bức tranh này trông đẹp quá!” Dùng lời chỉ dẫn, trò chuyện và giải thích một cách thích hợp - Những lời chỉ dẫn và giải thích của giáo viên khi cần thiết nhằm gợi ý cho trẻ suy nghĩ, tưởng tượng và thể hiện vào sản phẩm tạo hình của mình một cách sáng tạo. - Những lời chỉ dẫn và giải thích của giáo viên có thể được thực hiện trước hoặc trong khi tổ chức hoạt động tạo hình với cả lớp, với một nhóm hoặc cá nhân trẻ. - Những lời chỉ dẫn và giải thích của giáo viên ngắn gọn, rõ ràng, linh hoạt, đa dạng và phù hợp với trẻ. 4/ Sử dụng tranh mẫu, sản phẩm mẫu làm tăng tính tích cực sáng tạo và hướng sự chú ý của trẻ vào đối tượng quan sát. - Lựa chọn mẫu : + Tranh mẫu, sản phẩm mẫu cần được lựa chọn cẩn thận, phải chứa đựng cả những yếu tố thực, yếu tố thẩm mỹ, nghệ thuật như: Tính tạo hình, tính biểu cảm và đặc biệt hấp dẫn, mới lạ, đa dạng, phù hợp với khả năng nhận thức của trẻ. + Các tác phẩm nghệ thuật được sử dụng làm mẫu như : Tranh truyện, ảnh chụp, tranh dân gian, tranh sơn mài, tượng các tác phẩm điêu khắc và các sản phẩm thủ công mỹ nghệ,… phải được lựa chọn phù hợp với trẻ, có sự thể hiện rõ ràng, rõ nét các đặc điểm của sự vật như hình dáng, màu sắc, kích thước, hình khối, vị trí trong không gian, giúp trẻ dễ quan sát. Không nên chọn những bức tranh hay sản phẩm Giáo viên: Nguyễn Thị Ánh Tuyết Trường Mầm Non Vĩnh Hòa 18 Đề tài: Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng yêu thích hoạt động tạo hình mẫu có bố cục phức tạp với nhiều hình, nhiều mảng, nhiều chi tiết,… - Sử dụng mẫu : + Cần hướng tới sự chú ý của trẻ không chỉ tới nội dung tác phẩm mà cần quan tâm tới hình thức thể hiện. Cần tạo cho trẻ tập nhận xét, đánh giá thẩm mỹ của tác phẩm bằng chính sự hiểu biết và khả năng biểu cảm của mình. + Tranh mẫu, sản phẩm mẫu cần được trưng bày trong lớp học một thời gian cho trẻ quan sát nhiều lần trước khi trò chuyện về những mẫu đó. 5/ Sử dụng nguyên vật liệu tạo hình: Khi thực hiện hoạt động tạo hình, nguyên vật liệu không thể thiếu được. Vậy để hoạt động tạo hình có hiệu quả, việc sử dụng nguyên vật liệu tạo hình là vô cùng quan trọng. Nguyên vật liệu là những loại đồ dùng, dụng cụ dễ kiếm. Có thể trẻ tự kiếm như lá cây, phế liệu hư, vỏ hộp, thùng catong, quần áo cũ, bông, vải vụn,… Chúng có thể được sản xuất như: giấy, hồ dán, kéo, … Sự đa dạng của nguyên vật liệu tạo hình để lựa chọn để khuyến khích khả năng sáng tạo của trẻ. Hoạt động tạo hình phải thể hiện qua mầu sắc như: Tô, cắt, dán, vẽ, nặn, … Để đảm bảo khi sử dụng nguyên vật liệu tạo hình tôi cần cân nhắc những điểm sau: + An toàn (không nhọn, không có cạnh sắc, không độc hại,…) + Rẻ tiền (những nguyên vật liệu mua ở địa phương) + Dễ kiếm: Ví dụ: vỏ ốc, hến, hạt na, bưởi, len, …) + Dễ bảo quản hay cất giữ + Dễ cầm: (phù hợp với tầm tay của trẻ) + Dễ cung cấp kinh nghiệm bao gồm cả giác quan. + Dễ sửa chữa + Tạo cơ hội để lựa chọn và sắp xếp nguyên vật liệu + Luôn quan sát sự tưởng tượng và sử dụng trí nhớ linh hoạt Giáo viên: Nguyễn Thị Ánh Tuyết Trường Mầm Non Vĩnh Hòa 19 Đề tài: Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng yêu thích hoạt động tạo hình Vì từng đồ dùng, đồ chơi còn nhiều hạn chế tôi luôn vận động phụ huynh ủng hộ nguyên vật liệu, phế thải có sẵn ở địa phương. Ví dụ: Bằng những hạt gạo, hạt đỗ, rơm, rạ, lá cây, vỏ hến, giấy vụ, … tôi có thể tạo ra nhiều con vật nghộ nghĩnh, sinh động, những bức vẽ, các đề tài khác nhau. Giáo viên: Nguyễn Thị Ánh Tuyết Trường Mầm Non Vĩnh Hòa 20 Đề tài: Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng yêu thích hoạt động tạo hình 6/ Tích hợp các môn học khác: Tích hợp là phương pháp đòi hỏi ở giáo viên sự sáng tạo linh hoạt và khéo léo khi vận dụng, quá trình vận dụng tích hợp, cần lựa chọn nội dung phù hợp, logic, tránh quá trình hoạt động trở lên rời rạc, chắp vá. Ví dụ: Đối với tiết học “Tô màu ô tô” tôi chuẩn bị rất nhiều phương tiện giao thông (đồ chơi) và chuẩn bị từ 2 – 4 tranh vẽ phương tiện giao thông cho bé quan sát. Khi vào bài cho trẻ hát bài “Em tập lái ôtô”. Sau đó tôi hỏi trẻ; Cả lớp vừa hát bài gì? Giáo viên: Nguyễn Thị Ánh Tuyết Trường Mầm Non Vĩnh Hòa 21 Đề tài: Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng yêu thích hoạt động tạo hình - Vậy trong lớp có những đồ chơi gì là phương tiện giao thông. - Cho trẻ nói tên các phương tiện giao thông. *. Sau đó tôi cho trẻ quan sát các bức tranh mà trẻ vừa được mô tả qua đồ chơi trong lớp. *. Giới thiệu và đàm thoại và làm mẫu cho trẻ xem *. Trẻ thực hiện: Tôi mở băng có các bài hát trong chủ điểm gợi cho trẻ say mê làm việc trong khi trẻ thực hiện, tôi đến từng bàn động viên khuyến khích đối với những cháu còn lúng túng, gợi ý cho trẻ thực hiện đúng theo yêu cầu của cô. Đối với trẻ khá tôi gợi ý để trẻ có nhiều sáng tạo trong bài 7/ Đánh giá khen ngợi, động viên kịp thời: Đánh giá khen ngợi, động viên kịp thời nhằm kích thích trẻ tích cực sáng tạo, gây cho trẻ niềm tin, mong muốn hoàn thành công việc được tốt và làm thức dậy ở trẻ cảm giác của sự thành công, giúp trẻ tích cực hoạt động, duy trì hứng thú của trẻ trong suốt quá trình trẻ tạo hình. - Giáo viên cần kịp thời đánh giá, khen ngợi và khai thác được cách giải quyết vấn đề của từng cá nhân trẻ. - Khi nhận xét sản phẩm tạo hình của trẻ cần gợi cảm xúc, hứng thú. Điều này không chỉ nhằm thỏa mãm nhu cầu được đánh giá, khen ngợi mà còn gây ấn tượng cho trẻ trong những hoạt động tiếp theo. Bên cạnh đó, kích thích trí tưởng tượng phát triển khả năng biết lựa chọn, đánh giá công việc đạt được, có cái nhìn thẩm mỹ và nhân ái đến các bài vẽ của bạn. - Đối với những bài tạo hình chưa đẹp, giáo viên cũng phải biết chọn lọc, tìm kiếm những điểm đạt mà trẻ đã cố gắng phù hợp với khả năng để động viên hoặc có những lời nhận xét hóm hỉnh giúp trẻ nhận ra cái chưa đạt của mình mà vẫn không cảm thấy buồn. - Giáo viên phải dựa vào ý định tạo hình của trẻ, có cách nhìn, cách cảm nhận như trẻ. Biết khai thác ý kiến khi trẻ nhận xét sản phẩm của bạn hay khi trẻ trình bày Giáo viên: Nguyễn Thị Ánh Tuyết Trường Mầm Non Vĩnh Hòa 22 Đề tài: Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng yêu thích hoạt động tạo hình ý tưởng trong bài tạo hình của mình. Bên cạnh dó, giáo viên phải biết tìm kiếm, phát hiện những nét độc đáp riêng của từng sản phẩm trong việc phối hợp từng màu sắc, sự đa dạng của đường nét, hình khối để khen ngợi, kích thích trí tượng tượng của trẻ. Giáo viên như một người bạn cùng tìm tòi, khám phá; cùng phát hiện, ngạc nhiên; cùng cảm nhận, thưởng thức vẻ độc đáo, ngộ nghĩnh dễ thương trong từng sản phẩm của trẻ. - Việc đánh giá có thể được thực hiện ngay sau khi hoạt động tạo hình kết thúc, hoặc có thể vào thời điểm khác khi mà trẻ đã sẵn sàng cho việc đánh giá. Với những sản phẩm chưa hoàn thành, giáo viên vẫn tiến hành nhận xét, đánh giá và sau đó trẻ tiếp tục hoàn thiện sản phẩm của mình ở góc tạo hình hoặc các thời điểm khác phù hợp trong ngày (ví dụ hoạt động chiều, khoảng thời gian chờ bố mẹ trẻ đến đón). Thậm chí tùy nội dung bài, giáo viên có thể cho trẻ mang bài về nhà tiếp tục hoàn thiện rồi mang trở lại lớp. Ví dụ, bạn A tô màu xanh cho con thuyền đang trôi trên mặt nước màu xanh biển. Nền trời bạn ấy cũng tô màu xanh. Cô đoán bạn A rất thích màu xanh đúng không nào? Tuy nhiên, con hãy thử tô cánh buồm của con thuyền màu rực rỡ hơn: đỏ hoặc da cam, con sẽ thấy cánh buồm và chiếc thuyền của mình thật nổi bật đấy. Buổi tối về nhà con có thể thử lại nhé. 8/ Phối kết hợp với phụ huynh: Để nâng cao hoạt động tạo hình cho trẻ và để có sự giáo dục đồng bộ giữa gia đình và nhà trường là 1 việc làm hết sức cần thiết bởi tôi nhận thấy rằng tất cả mọi khó khăn trong học tập không thể thiếu được vai trò giải quyết khó khăn của phụ huynh. Vì vậy ngay từ đầu năm học để phụ huynh hiểu thêm về hoạt động tạo hình tôi thường xuyên gặp gỡ trao đổi với các bậc phụ huynh về tầm quan trọng của hoạt động tạo hình trong trường mầm non nói chung và đổi mới trẻ 24 – 36 tháng nói riêng. Hoạt động tạo hình không chỉ giúp trẻ khả năng thẩm mỹ, biết nhìn nhận cái đẹp và đánh giá cái đẹp mà còn giúp trẻ rèn luyện đôi bàn tay khéo léo, vững chắc, linh hoạt hơn tạo tiền đề cho các độ tuổi khác nhau. Giáo viên: Nguyễn Thị Ánh Tuyết Trường Mầm Non Vĩnh Hòa 23 Đề tài: Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng yêu thích hoạt động tạo hình Bên cạnh đó trước khi tiến hành các đề tài tạo hình tôi thường xuyên trao đổi, thông báo với phụ huynh về các đề tài để phụ huynh có thể trò chuyện với trẻ ở tại gia đình về các đề tài đó, từ đó giúp trẻ hiểu trước, hiểu sâu hơn , có cảm xúc về đề tài từ đó trẻ sẽ hứng thú hoạt động khi cô đưa đề tài đó ra. Như vậy với biện pháp trên đã giúp phụ huynh nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của môn học, từ đó tôi động viên khuyến khích mua thêm đồ dùng, giấy bút, vở bé tập tô màu, tìm các hình ảnh sinh động trong sách báo, tạp chí để phụ huynh có thể dạy trẻ. Nặn, tô màu, xé dán, chấm màu trang trí trên các tranh ảnh tạo cho trẻ có kỹ năng hơn. Nhắc nhở phụ huynh trẻ nên động viên khuyến khích trẻ kịp thời khi trẻ có sự cố gắng. VI. Kết quả: Qua các biện pháp trên tôi nhận thấy các cháu có nhiều chuyển biến rõ nét. Trẻ tích cực hoạt động và hứng thú hơn trong học tập, một số trẻ chưa chú ý như : (Bé Thuận,Trà My, Lộc) nay đã tích cực tham gia học tốt hơn. Hàng ngày tôi và trẻ cùng sưu tầm các nguyên vật liệu: Lượm lá khô ở sân trường, lượm nắp chai… thì trẻ rất thích. Khi đưa trò chơi vào giờ hat động trẻ tham gia nhiệt tình không nhàm chán, các trò chơi được xen kẽ giữa động và tĩnh, giúp hoạt động giống như giờ chơi. Kết quả cháu mạnh dạn, tự tin vui tươi hơn . Từ đầu năm việc kết hợp với phụ huynh còn gặp nhiều khó khăn nhưng nhờ sự kiên trì lần lượt đã có nhiều phụ huynh tham gia đóng góp và thường xuyên dạy cho trẻ ở nhà nên khi lên lớp trẻ rất mạnh dạn mổi khi trả lời cô. Dạy trẻ mọi lúc mọi nơi trẻ biết thêm những kiến thức mà trên giờ họat động chung Cô chưa kịp cung cấp hoặc chưa học thì trong giờ học trẻ được cung cấp nâng cao hơn. Kết quả trẻ phát triển về nhận thức rất tốt so với trước đó. Đa số phụ huynh đã bước đầu quan tâm rất nhiều trong việc học của các cháu, hỗ trợ đồ dùng bằng nguyên vật liệu phế phẩm. Tích cực tham gia các hoạt động khi cần có sự phối hợp và thật sự yên tâm hơn khi gửi con em vào trường. Giáo viên: Nguyễn Thị Ánh Tuyết Trường Mầm Non Vĩnh Hòa 24 Đề tài: Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng yêu thích hoạt động tạo hình Tạo được môi trường phong phú phù hợp với nội dung của từng chủ điểm Có kỹ năng tổ chức các hoạt động tạo hình một cách tự tin, linh hoạt Lớp học được trang trí bằng các sản phẩm của trẻ, cô giáo đỡ vất vả khi mỗi lần thay chủ điểm Qua các đợt kiểm tra được nhà trường đánh giá xếp loại tốt. V/ Bài học kinh nghiệm Sau khi tiến hành các biện pháp trên bản thân tôi đã rút ra những bài học kinh nghiệm sau: - Bản thân tôi phải tự mình rèn học hỏi kinh nghiệm từ các đồng nghiệp, đầu tư đồ dùng dạy học... - Tích cực tìm hiểu và tự bồi dưỡng những kiến thức về nghệ thuật tạo hình. Trong công tác chăm sóc – giáo dục trẻ : + Cần tạo môi trường thẩm mỹ cho trẻ hoạt động : Từ đồ dùng, đồ chơi được bài trí đẹp mắt, ngộ nghĩnh,… đến các hoạt động của người lớn như : cách ăn mặc, nói năng, dáng điệu và cách ứng xử giữa người lớn với nhau, giữa người lớn với trẻ em… Tất cả được tổ chức sao cho đẹp mắt để khơi dậy ở trẻ cảm giác thích thú, được tiếp xúc với cái đẹp và mong muốn tạo ra cái đẹp. + Tích cực cho trẻ tiếp xúc với thiên nhiên, để trẻ rèn luyện các giác quan, tăng cường thu nhận các ấn tượng bên ngoài làm giàu ý tưởng tạo hình, tạo xảm xúc và hứng thú ở trẻ. + Tạo cơ hội cho trẻ xem triển lãm và, tiếp xúc với các tác phẩm nghệ thuật như những bức tranh, bức tượng nghệ thuật của các nghệ sỹ hay những bức tranh dân gian Đông Hồ, Hàng Trống, tranh sơn mài và các loại đồ chơi dân gian, các sản phẩm thủ công mỹ nghệ,….Thường xuyên hướng dẫn trẻ xem tranh truyện cổ tích. Đặc biệt là những cuộc triển lãm tranh do chính các em tạo nên làm trẻ thích thú và kích thích chúng tham gia vào hoạt động tạo hình. + Tận dụng các sản phẩm hay kiếm, sẵn có ở địa phương hay các sản phẩm phế liệu để làm đồ dùng dạy học, đồ chơi và hướng dẫn trẻ cùng làm. Giáo viên: Nguyễn Thị Ánh Tuyết Trường Mầm Non Vĩnh Hòa 25 SKKN: Một số biện pháp để dạy tốt hoạt động vui chơi cho trẻ nhà trẻ từ 24 - 36 thángChơi là một trong các hoạt động học tập của trẻ và có mục đích to lớn đối với sự phát triển toàn diện về nhân cách con người. Thông qua hoạt động vui chơi còn hình thành ở trẻ những chức năng tâm lý, những cơ sở ban đầu của nhân cách con người. » Xem thêm
Xin mời thầy cô tham khảo sáng kiến kinh nghiệm một số biện pháp để dạy tốt hoạt động vui chơi cho trẻ nhà trẻ từ 24 - 36 tháng để giúp trẻ phát triển.
» Thu gọn
Chủ đề:
Tóm tắt nội dung tài liệu
I. ĐẶT VẤN ĐỀ Ngôn ngữ có vai trò rất lớn trong cuộc sống của con người. Nhờ ngôn ngữ mà con người có thể trao đổi với nhau những hiểu biết, truyền cho nhau những kinh nghiêm, tâm sự với nhau những điều thầm kín.. Bác Hồ của chúng ta đã dạy: “Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn, tôn trọng nó” II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ: Để có vốn từ phát triển trước tiên ta phải bắt đầu phát triển ngôn ngữ cho rẻ ngay từ lứa tuổi mầm non vì ở lứa tuổi này phát triển vốn từ là giúp trẻ nắm được nhiều từ, hiểu được ý nghĩa của từ, biết sử dụng từ trong giao tiếp. Phát triển từ cho trẻ là quá trình hình thành giúp trẻ làm quen với các từ mới, củng cố vốn từ làm cho vốn từ phong phú tích cực hóa ngôn ngữ cho trẻ.Quá trình này iên quan chặt chẽ với giai đoạn nhận thức tiếp theo của trẻ để hình thành các biểu tượng về thế giới xung quanh.. Đặc biệt trẻ ở lứa tuổi 24- 36 tháng tuổi, giai đoạn này người ta gọi là giai đoạntiền ngôn ngữ vì đặc điểm sinh lý ở lứa tuổi này có vùng ngôn ngữ bắt đầu hình thành và phát triển mạnh, do đó mà trẻ được tác động mạnh mẽ về ngôn ngữ từ phía môi trường xung quanh trẻ, thì vùng ngôn ngữ của trẻ có điều kiện phát triển nhanh. Nhưng trong thực tế môi trường gia đình:ông, bà., bố, mẹ…hay môi trường xã hội: cô giáo còn ít quan tâm đến việc phát triển vốn từ cho trẻ nên nhìn chung vốn từ của trẻ còn nhiều hạn chế. Ngoài ra tôi tự tìm tòi biện pháp đúc rút kinh nghiệm từ thực tế dạy trẻ ở các nội dung và chọn đề tài: “Kinh nghiệm phát triển vốn từ cho trẻ lứa tuổi 24- 36 tháng tuổi” 5 3.2. Tìm hiểu đặc điểm phát triển vốn từ của trẻ nhà trẻ Ví dụ : Tôi nhận thấy vốn từ của trẻ tuy phát triển nhưng vẫn còn hạn chế bộ máy phát âm của trẻ đang hoàn thiện dần nên khi trẻ nói, trẻ hay nói chậm, hay nói kéo dài giọng,đôi khi còn ậm, ừ, ê, a, không mạch lạc. Để giúp trẻ phát triển vốn từ, tôi thấy người giáo viên cần phải nắm vững vốn từ của trẻ. Mặt khác, các cô giáo phải nói to, rõ ràng, mạch lạc, dễ nghe. Xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn trên tôi đã mạnh dạn áp dụng một số biện pháp phát triển vốn từ cho trẻ ở lớp thông qua một số hoạt động sau: 3.3. Phát triển vốn từ cho trẻ thông qua hoạt động học: Ví dụ1: Ví dụ : Ví dụ : Ví dụ : Ví dụ : Ví dụ : – Trò chơi với các tính từ:
– Trò chơi bắt chước tiếng kêu của các con vật: Cô nói Trẻ kêu Cô nói Trẻ nói Trong quá trình chơi trẻ được thực hiện nhiều lần, nhiều hành động khác nhau, như vậy trẻ phải sử dụng ngôn ngữ để tìm tòi, khám phá cách chơi, luậtchơi. Ví dụ: Như vậy khi trẻ mạnh dạn trò chuyện cùng với cô nghĩa là trẻ đã ” vốn từ vựng” của mình, ngôn ngữ của trẻ nhờ đó mà được mở rộntriển hơn Ví dụ: Khi không nhớ đường về nhà thỏ con đã làm gì ? ( Khóc hu..hu…hu ) Ví dụ: 3.7. Kết hợp với phụ huynh Bên cạnh đó ở lớp tôi có một số cháu đã sử dụng vốn từ các cô cung cấp cũng rất hay và ngộ nghĩnh trong sinh hoạt hàng ngày. III. KẾT LUẬN – KHUYẾN NGHỊ Gửi bởi Hà Vũ in SKKN mầm non |