Đối tượng chứng minh trong vụ an hình sự đều giống nhau

Kiến nghị hoàn thiện quy định về đối tượng chứng minh trong Bộ luật Tố tụng hình sự (sửa đổi)

01/07/2015

ThS. VŨ XUÂN THAO

Bệnh viện Y học cổ truyền, Bộ Công an.

Từ viết tắt In trang Gửi tới bạn

1. Những vấn đề lý luận về đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự

Khi giải quyết vụ án hình sự, cơ quan tiến hành tố tụng cần phải điều tra, thu thập chứng cứ chứng minh tất cả các tình tiết, sự kiện của vụ án để làm sáng tỏ bản chất của vụ án, làm rõ mọi vấn đề có liên quan, trên cơ sở đó ra các quyết định đúng đắn, phù hợp với quy định của pháp luật trong quá trình tố tụng. Tất cả các tình tiết, sự kiện của vụ án cần phải làm rõ bằng chứng cứ được gọi là đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự. Vì thế, trong quá trình điều tra, thu thập chứng cứ, cơ quan tiến hành tố tụng “cần xác định đối tượng chứng minh, tức là nhóm các sự kiện, tình tiết được làm sáng tỏ và khẳng định”[1]. Như vậy, việc xác định đối tượng chứng minh có vai trò định hướng cho hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ, nếu xác định không đúng đối tượng chứng minh sẽ làm cho hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ bị lan man, mất phương hướng, có thể bỏ sót những chứng cứ cần thiết cho việc chứng minh giải quyết vụ án.

Trên thực tế, tội phạm có diễn biến đa dạng và rất phức tạp, xảy ra ở mọi lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, vì thế mà đối tượng chứng minh trong mỗi vụ án hình sự là không giống nhau, có những tình tiết có giá trị chứng minh ở vụ án này nhưng lại không có giá trị chứng minh trong vụ án khác. Để xác định đúng đối tượng chứng minh cho từng vụ án cụ thể, trước hết cần hiểu và nhận thức đầy đủ những vấn đề lý luận về đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự. Trên cơ sở đó mới xác định phạm vi - giới hạn chứng minh cho từng vụ án cụ thể tùy thuộc vào tính chất, đặc điểm cụ thể của từng vụ án.

Mục đích, yêu cầu của hoạt động tố tụng hình sự (TTHS) là phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Từ mục đích, yêu cầu của hoạt động TTHS, các nhóm tình tiết, sự kiện cần phải chứng minh trong vụ án hình sự được xác định như sau:

1.1. Chứng minh nhóm tình tiết, sự kiện xác định tội phạm

Để xác định tội phạm thì yêu cầu đầu tiên đặt ra là cơ quan tiến hành tố tụng phải chứng minh được có tội phạm xảy ra hay không, nếu có thì đó là tội gì, được quy định ở điều nào, khoản nào trong Bộ luật Hình sự (BLHS), tức là phải chứng minh tất cả các tình tiết, sự kiện của vụ án tương ứng với các dấu hiệu thuộc các yếu tố cấu thành tội phạm của tội cụ thể được quy định trong BLHS mà cơ quan tiến hành tố tụng hướng tới. Trong khoa học luật hình sự, cấu thành tội phạm được xác định bởi 04 yếu tố: khách thể của tội phạm; mặt khách quan của tội phạm; chủ thể của tội phạm; mặt chủ quan của tội phạm.

- Chứng minh những tình tiết, sự kiện thuộc khách thể của tội phạm:

Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ tránh khỏi sự xâm hại có tính chất tội phạm, nhưng đã bị tội phạm xâm hại đến và gây nên (hoặc đe dọa thực tế gây nên) thiệt hại đáng kể nhất định[2].

Khách thể của tội phạm bao gồm: khách thể chung (toàn bộ quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ), khách thể loại (một nhóm quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ) và khách thể trực tiếp (một quan hệ xã hội cụ thể được pháp luật hình sự bảo vệ). Khi chứng minh khách thể của tội phạm, cơ quan tiến hành tố tụng cần phải xác định có quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ bị xâm hại hay không, nếu không có quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ bị xâm hại thì không có tội phạm. Nói cách khác, đây chính là việc căn cứ vào khách thể chung để loại trừ tính chất tội phạm của hành vi. Nếu quan hệ xã hội bị xâm hại được pháp luật hình sự bảo vệ thì cần phải xác định khách thể loại và khách thể trực tiếp của tội phạm, nghĩa là phải chứng minh quan hệ xã hội đó được chương nào, điều nào, khoản nào của BLHS bảo vệ.

Mặt khác, khi chứng minh khách thể của tội phạm, cần phải làm rõ hành vi phạm tội đã xâm hại tới một hay nhiều quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ, vì ở phương diện lý luận cũng như thực tiễn, một hành vi phạm tội có thể xâm hại đến nhiều khách thể trực tiếp được pháp luật hình sự bảo vệ. Ví dụ: Hành vi cướp tài sản có thể xâm hại đến hai quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ đó là quyền sở hữu tài sản của chủ tài sản đối với tài sản bị cướp - quan hệ xã hội thứ nhất; quyền được bảo vệ tính mạng, sức khỏe của nạn nhân - quan hệ xã hội thứ hai. Rõ ràng trong trường hợp này, nếu cơ quan có thẩm quyền chỉ xem xét một trong hai quan hệ xã hội đã nêu thì việc chứng minh khách thể của tội phạm sẽ trở lên phiến diện, không đầy đủ; không làm rõ được bản chất và tính nguy hiểm của hành vi cướp tài sản.

Cần phân biệt khách thể của tội phạm với đối tượng tác động của tội phạm. Như phân tích ở trên, khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ bị tội phạm xâm hại hoặc đe dọa xâm hại còn đối tượng tác động của tội phạm là đối tượng cụ thể, trực tiếp chịu sự tác động của hành vi phạm tội. Khi chứng minh khách thể của tội phạm cần phải xác định đối tượng tác động của tội phạm vì thông qua đối tượng tác động để xác định khách thể trực tiếp của tội phạm. Việc chứng minh khách thể của tội phạm có ý nghĩa pháp lý rất quan trọng đối với việc giải quyết vụ án hình sự vì khách thể tội phạm là căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội; phân biệt tội phạm này với tội phạm khác; xác định tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội …

- Chứng minh những tình tiết, sự kiện thuộc mặt khách quan của tội phạm:

Mặt khách quan của tội phạm là biểu hiện bên ngoài của tội phạm, là những biểu hiện của tội phạm ra thế giới khách quan bao gồm: hành vi nguy hiểm cho xã hội (hành động và không hành động), hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả do hành vi đó gây ra, thời gian, địa điểm, hoàn cảnh phạm tội, công cụ, thủ đoạn, phương tiện phạm tội[3].

Trong mặt khách quan của tội phạm, hành vi phạm tội là dấu hiệu bắt buộc cho mọi cấu thành tội phạm, vì vậy nếu không chứng minh được hành vi phạm tội thì không xác định được tội phạm. Việc chứng minh hành vi phạm tội có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc phân biệt hành vi phạm tội và hành vi không phải là tội phạm (hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể quy định tại khoản 4 Điều 8 BLHS; phòng vệ chính đáng; tình thế cấp thiết; thực hiện mệnh lệnh cấp trên …); chứng minh hành vi phạm tội còn là cơ sở để xác định chủ thể tội phạm ... Trong trường hợp người phạm tội thực hiện nhiều hành vi nguy hiểm cho xã hội thì cần phải chứng minh từng hành vi phạm tội và đồng thời phải làm rõ các dấu hiệu khác thuộc mặt khách quan có liên quan đến hành vi đó.

Hậu quả phạm tội là thiệt hại thực tế và đáng kể cho các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ do hành vi phạm tội gây ra. Với tính chất là dấu hiệu bắt buộc thuộc mặt khách quan của các cấu thành tội phạm vật chất, hậu quả phạm tội phản ánh tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, vì vậy, hậu quả phạm tội có ý nghĩa pháp lý quan trọng trong việc xác định trách nhiệm hình sự của người phạm tội; định tội, định khung hình phạt và quyết định hình phạt; xác định mức bồi thường thiệt hại.

Hậu quả phạm tội do hành vi phạm tội trực tiếp gây nên, nghĩa là ngoài việc chứng minh hành vi phạm tội và hậu quả phạm tội, còn phải chứng minh mối quan hệ nhân quả giữa chúng. Khi chứng minh mối quan hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và hậu quả phạm tội, cần phải chứng minh làm rõ: hành vi phạm tội phải có trước hậu quả phạm tội; hành vi phạm tội phải chứa đựng khả năng thực tế và hành vi đó chính là hành vi gây ra hậu quả nguy hại cho khách thể được pháp luật hình sự bảo vệ.

Các dấu hiệu khác thuộc mặt khách quan của tội phạm như thủ đoạn, phương tiện, thời gian, địa điểm và hoàn cảnh phạm tội tuy không phải là các dấu hiệu bắt buộc thuộc mặt khách quan, nhưng khi chứng minh mặt khách quan của tội phạm không thể bỏ qua bởi vì trong một số cấu thành tội phạm cụ thể, các dấu hiệu này có ý nghĩa pháp lý quan trọng đối với việc định tội, định khung hình phạt và quyết định hình phạt.

Việc chứng minh một số dấu hiệu (địa điểm phạm tội, thời gian phạm tội) còn có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng và thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội.

- Chứng minh những tình tiết, sự kiện thuộc chủ thể tội phạm:

Chủ thể tội phạm là người đã có lỗi (cố ý hoặc vô ý) trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm, có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo luật định (ngoài ra, trong một số trường hợp cụ thể chủ thể của tội phạm còn có một số dấu hiệu bổ sung đặc biệt do quy phạm pháp luật hình sự tương ứng quy định)[4].

Từ khái niệm chủ thể tội phạm cho thấy, chủ thể của tội phạm chỉ có thể là thể nhân - con người cụ thể và người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trở thành chủ thể tội phạm khi có đầy đủ các dấu hiệu của chủ thể tội phạm do pháp luật hình sự quy định. Thực chất của việc chứng minh chủ thể tội phạm là việc xác định ai là người thực hiện hành vi phạm tội (thông qua việc chứng minh các đặc điểm nhân thân: họ và tên, ngày tháng năm sinh, giới tính, nghề nghiệp, chức vụ, quyền hạn …) và người này có năng lực trách nhiệm hình sự hay không, đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật hình sự hay chưa … Khi chứng minh chủ thể tội phạm, còn phải chứng minh được trong vụ án đó có bao nhiêu người tham gia, vai trò của từng người trong việc thực hiện tội phạm, năng lực trách nhiệm hình sự và tuổi chịu trách nhiệm hình sự của từng người. Qua đó, xác định vụ án xảy ra có đồng phạm hay không, tính chất của đồng phạm ...

Đối với một số cấu thành tội phạm cụ thể liên quan đến chủ thể đặc biệt, thì ngoài những dấu hiệu bắt buộc nêu trên, các cơ quan tiến hành tố tụng còn phải chứng minh thêm dấu hiệu đặc biệt của chủ thể, bởi vì chỉ có những chủ thể có dấu hiệu đặc biệt thì mới thực hiện được hành vi phạm tội đối với tội đòi hỏi dấu hiệu này, các dấu hiệu đặc biệt thường là: độ tuổi, giới tính, chức vụ, quyền hạn, nghề nghiệp, huyết thống và các đặc điểm khác về nhân thân của người phạm tội như: "…đã bị xử lý hành chính… hoặc đã bị kết án chưa được xóa án tích…"; “…đã được giáo dục nhiều lần và đã bị xử lý hành chính bằng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh bắt buộc…” v.v..

- Chứng minh những tình tiết, sự kiện thuộc mặt chủ quan của tội phạm:

Mặt chủ quan của tội phạm là đặc điểm tâm lý bên trong của cách xử sự có tính chất tội phạm xâm hại đến khách thể được bảo vệ bằng pháp luật hình sự, tức là thái độ tâm lý của chủ thể được thể hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội do mình thực hiện và đối với hậu quả của hành vi đó[5].

Mặt chủ quan của tội phạm gồm các yếu tố: lỗi, động cơ phạm tội và mục đích phạm tội. Trong đó, lỗi là dấu hiệu bắt buộc đối với mọi cấu thành tội phạm. Nếu người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội không có lỗi đối với hành vi đã thực hiện thì không trở thành chủ thể tội phạm. Hiện pháp luật hình sự ghi nhận hai hình thức lỗi - phạm tội do cố ý và phạm tội do vô ý[6]. Tuy nhiên, về mặt lý luận cũng như thực tiễn giải quyết vụ án hình sự còn xuất hiện trường hợp tồn tại hai hình thức lỗi trong một chủ thể khi thực hiện hành vi phạm tội - lỗi cố ý đối với hành vi phạm tội và lỗi vô ý đối với hậu quả phạm tội, khoa học luật hình sự gọi trường hợp này là hỗn hợp lỗi. Hỗn hợp lỗi chỉ xuất hiện trong các cấu thành tội phạm tăng nặng bởi vì ý định chủ quan của người phạm tội đặt ra đối với hậu quả phạm tội được quy định trong cấu thành tội phạm cơ bản, còn hậu quả phạm tội xảy ra trên thực tế đã vượt quá hậu quả dự định ban đầu, nằm ngoài mong muốn chủ quan của chủ thể. Hậu quả xảy ra vượt quá sự mong muốn của chính bản thân người phạm tội đã chuyển hành vi phạm tội từ cấu thành tội phạm cơ bản sang cấu thành tội phạm tăng nặng.

Lỗi là cơ sở để xác định trách nhiệm hình sự, đồng thời là căn cứ đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội … Do vai trò và tầm quan trọng của lỗi nên khi chứng minh lỗi, cơ quan tiến hành tố tụng cần phải khẳng định rõ ràng, dứt khoát rằng, người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có lỗi hay không có lỗi đối với hành vi đã thực hiện, nếu có lỗi thì đó là lỗi gì, cố ý, vô ý hay hỗn hợp lỗi; có xác định được đúng hình thức lỗi thì mới xác định đúng trách nhiệm hình sự của người phạm tội (áp dụng cấu thành tội phạm cơ bản, cấu thành tội phạm tăng nặng, đặc biệt tăng nặng hay cấu thành tội phạm giảm nhẹ).

Ngoài việc chứng minh lỗi, cơ quan tiến hành tố tụng còn phải chứng minh động cơ phạm tội và mục đích phạm tội. Động cơ phạm tội là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội. Mục đích phạm tội là kết quả mà người phạm tội đặt ra và mong muốn đạt được khi thực hiện tội phạm.

Động cơ phạm tội và mục đích phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc đối với mọi cấu thành tội phạm, nhưng động cơ và mục đích phạm tội là dấu hiệu bắt buộc của một số tội được thực hiện với lỗi cố ý (thường là cố ý trực tiếp), còn đối với tội được thực hiện với lỗi cố ý gián tiếp hoặc vô ý thì ít khi có dấu hiệu này. Khi chứng minh các tình tiết thuộc mặt chủ quan của tội phạm, cơ quan tiến hành tố tụng không thể bỏ qua việc chứng minh động cơ phạm tội và mục đích phạm tội. Bởi vì, ở một số cấu thành tội phạm cơ bản, động cơ phạm tội được xác định là dấu hiệu định tội (Điều 95, 96, 105 và Điều 106 BLHS năm 1999) và ở một số cấu thành tội phạm tăng nặng, động cơ phạm tội là dấu hiệu định khung hình phạt (điểm q khoản 1 Điều 93, khoản 2 Điều 132 BLHS năm 1999).

Khi luật không quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt thì động cơ phạm tội là tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ chung được quy định tại Điều 46 hoặc Điều 48 BLHS, ngoài ra động cơ phạm tội còn là căn cứ đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Cũng như động cơ phạm tội, mục đích phạm tội được xác định là dấu hiệu định tội của cấu thành tội phạm cơ bản (Điều 78 - 91, 133 - 135, 136 - 143 BLHS năm 1999) và dấu hiệu định khung hình phạt của cấu thành tội phạm tăng nặng (điểm g, h khoản 1 Điều 93; điểm k khoản 2 Điều 104 BLHS năm 1999).

1.2. Chứng minh nhóm tình tiết, sự kiện để xử lý người phạm tội

Khi đã chứng minh được các tình tiết, sự kiện của vụ án tương ứng với các yếu tố cấu thành tội phạm quy định trong BLHS (tức là đã xác định được tội phạm và người phạm tội) thì yêu cầu đặt ra tiếp theo là xử lý người phạm tội. Để xử lý người phạm tội, cần phải chứng minh làm rõ các tình tiết, sự kiện sau:

- Chứng minh những tình tiết, sự kiện để xác định người phạm tội có được hưởng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hay không, để chứng minh những tình tiết, sự kiện này cần phải làm rõ: tội mà họ đã phạm có được áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự không. Nếu tội đó được áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự thì cần làm rõ tội đó là tội gì (ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng); tội phạm xảy ra từ khi nào, đến thời điểm tội phạm được phát hiện là bao lâu; trong khoảng thời gian đó người phạm tội có cố tình trốn tránh và có lệnh truy nã hay không hoặc có phạm tội mới không.

- Chứng minh những tình tiết, sự kiện làm căn cứ để xác định người phạm tội có được miễn trách nhiệm hình sự hay không, để chứng minh những tình tiết, sự kiện này cần phải làm rõ: do chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội hoặc người phạm tội còn nguy hiểm cho xã hội nữa hay không; người phạm tội có tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội hay không; người phạm tội có quyết định được đại xá hay không.

- Chứng minh những tình tiết, sự kiện làm căn cứ để xác định người phạm tội có được miễn hình phạt hay không, để chứng minh những tình tiết, sự kiện này cần phải làm rõ: Người phạm tội có bao nhiêu tình tiết giảm nhẹ được pháp luật hình sự quy định; trong trường hợp người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ thì xét xem họ có đáng được hưởng khoan hồng đặc biệt của pháp luật ở mức độ được miễn hình phạt hay không.

- Chứng minh những tình tiết, sự kiện làm căn cứ để quyết định hình phạt đối với người phạm tội, để chứng minh những tình tiết, sự kiện này cần phải làm rõ: Người phạm tội có đang phải chấp hành một bản án hay không; người phạm tội phạm một tội hay nhiều tội; tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự và những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người phạm tội (khi chứng minh những tình tiết này cần lưu ý: những tình tiết đã được sử dụng làm căn cứ định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nữa); đối với tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp thì cần phải xác định giai đoạn thực hiện tội phạm; nếu vụ án có đồng phạm thì phải chứng minh làm rõ tính chất của đồng phạm, vai trò và mức độ tham gia của từng người trong vụ án để cá thể hóa trách nhiệm hình sự và hình phạt với từng người.

1.3. Chứng minh nhóm tình tiết, sự kiện để giải quyết toàn bộ vụ án hình sự khách quan, công bằng, đảm bảo công tác phòng ngừa tội phạm

Khi giải quyết vụ án hình sự, ngoài việc chứng minh các nhóm tình tiết, sự kiện để xác định tội phạm và xử lý người phạm tội thì cơ quan tiến hành tố tụng còn phải chứng minh nhóm tình tiết, sự kiện để giải quyết toàn bộ vụ án hình sự được khách quan, công bằng, đúng quy định của pháp luật, đồng thời xác định nguyên nhân và điều kiện thực hiện tội phạm để có biện pháp phòng ngừa tội phạm cho phù hợp. Cụ thể, cần phải chứng minh làm rõ các tình tiết sau:

- Những tình tiết là căn cứ không được khởi tố vụ án; những tình tiết xác định thẩm quyền điều tra, xét xử vụ án; những tình tiết làm căn cứ để đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án…

- Mối quan hệ giữa người làm chứng với bị can, bị cáo, người bị hại nguyên đơn dân sự hoặc bị đơn dân sự.

- Tung tích nạn nhân trong những vụ án mà người bị hại đã chết, mất tích hoặc mất khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi.

- Nguyên nhân và điều kiện phạm tội của bị can, bị cáo (khi giải quyết vụ án hình sự, cơ quan tiến hành tố tụng cần phải chứng minh nguyên nhân và điều kiện phạm tội, một mặt nhằm áp dụng những biện pháp cải tạo, giáo dục người phạm tội có hiệu quả, giúp họ tái hòa nhập cộng đồng sau khi chấp hành xong hình phạt, mặt khác đề xuất hoặc áp dụng các biện pháp đấu tranh, phòng ngừa tội phạm có hiệu quả).

- Các tình tiết để xác định bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả cho nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người bị hại …

- Các tình tiết làm căn cứ áp dụng các biện pháp ngăn chặn; các tình tiết làm căn cứ áp dụng các biện pháp tư pháp.

- Các tình tiết khác có ý nghĩa đối với việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự.

- Đối với vụ án hình sự do người chưa thành niên thực hiện, cơ quan tiến hành tố tụng cần phải chứng minh thêm một số tình tiết sau: tuổi, mức độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội của người chưa thành niên; điều kiện sinh sống và giáo dục; có hay không có người thành niên xúi giục; nguyên nhân và điều kiện phạm tội để đảm bảo nguyên tắc xử lý người chưa thành niên phạm tội với mục tiêu chính là giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm để trở thành người có ích cho gia đình và xã hội.

- Đối với vụ án do người có biểu hiện mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi thì cơ quan tiến hành tố tụng cần phải chứng minh: tình trạng tâm thần và bệnh tâm thần của người có hành vi nguy hiểm cho xã hội; tại thời điểm thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, người này có bị hạn chế hoặc mất khả năng nhận thức hoặc điều khiển hành vi của mình hay không. Những tình tiết này được chứng minh sẽ là cơ sở để xác định đúng đắn trách nhiệm hình sự đối với người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội.

2. Những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự quy định tại Điều 82 Dự thảo Bộ luật Tố tụng hình sự (sửa đổi)

Điều 82. Những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự

Khi điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự, Cơ quan điều tra, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án phải chứng minh:

1. Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội;

2. Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội;

3. Những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và những đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo;

4. Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra[7].

Các quy định tại Điều 82 Dự thảo Bộ luật TTHS (sửa đổi) cho thấy, điều luật đặt ra yêu cầu chứng minh những tình tiết, sự kiện tương ứng với các yếu tố cấu thành tội phạm của một tội danh quy định trong BLHS, đó là: khách thể của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm, chủ thể của tội phạm và mặt chủ quan của tội phạm. Đồng thời đặt ra yêu cầu chứng minh một số tình tiết làm căn cứ để xử lý người phạm tội. Cụ thể là:

Khoản 1: Quy định những tình tiết, sự kiện phải chứng minh thuộc khách thể và mặt khách quan của tội phạm. Tuy nhiên, chỉ có một số tình tiết thuộc mặt khách quan (có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm thực hiện hành vi phạm tội) được quy định trực tiếp còn các tình tiết khác thuộc mặt khách quan (phương thức, thủ đoạn phạm tội) và các tình tiết thuộc khách thể của tội phạm mới chỉ được quy định gián tiếp thông qua việc chứng minh những tình tiết khác của hành vi phạm tội, mặc dù đây là những tình tiết có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc xác định tội phạm và cần phải được quy định trực tiếp.

Khoản 2: Quy định những tình tiết, sự kiện phải chứng minh thuộc chủ thể của tội phạm và mặt chủ quan của tội phạm.

Về chứng minh chủ thể của tội phạm, quy định này đã chỉ rõ khi giải quyết vụ án hình sự, cơ quan tiến hành tố tụng phải chứng minh được ai là người thực hiện tội phạm, người này có năng lực trách nhiệm hình sự hay không. Nhưng tại khoản 2 của điều luật chưa quy định việc chứng minh chủ thể của tội phạm trong trường hợp vụ án có đồng phạm hoặc vụ án có nhiều người tham gia.

Khoản 3, khoản 4: Quy định những tình tiết, sự kiện phải chứng minh làm căn cứ để xử lý người phạm tội. Tuy nhiên, từ phương diện lý luận và thực tiễn giải quyết vụ án hình sự cho thấy, để có căn cứ xử lý người phạm tội thì ngoài việc chứng minh các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tình tiết thể hiện tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra, cơ quan tiến hành tố tụng còn phải chứng minh rất nhiều các tình tiết, sự kiện khác do pháp luật hình sự quy định, đó là việc chứng minh các tình tiết liên quan đến thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt hoặc quyết định hình phạt đối với người phạm tội…, nhưng tại khoản 3 của Điều luật này chưa quy định việc chứng minh các tình tiết quan trọng này.

3. Kiến nghị hoàn thiện các quy định về những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự

Việc nghiên cứu quy định những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự tại Điều 82 Dự thảo Bộ luật TTHS (sửa đổi) cho thấy, điều luật đặt ra yêu cầu chứng minh những tình tiết, sự kiện tương ứng với các yếu tố cấu thành tội phạm của một tội danh quy định trong BLHS, đồng thời đặt ra yêu cầu chứng minh một số tình tiết làm căn cứ để xử lý người phạm tội. Đây là những tình tiết, sự kiện quan trọng cho việc xác định tội phạm và xử lý người phạm tội. Tuy nhiên, như đã phân tích ở trên, Điều 82 Dự thảo Bộ luật TTHS quy định chưa đầy đủ, chi tiết những tình tiết cần phải chứng minh tương ứng với các yếu tố cấu thành tội phạm và những tình tiết cần thiết cho việc xử lý người phạm tội; chưa quy định việc chứng minh nhóm tình tiết, sự kiện cần phải chứng minh để giải quyết toàn bộ vụ án hình sự được khách quan, công bằng, đúng quy định của pháp luật, đảm bảo công tác phòng ngừa tội phạm.

Pháp luật TTHS ở nhiều nước đã có quy định khá đầy đủ, chi tiết những tình tiết, sự kiện cần phải chứng minh trong vụ án hình sự. Chẳng hạn, pháp luật TTHS Liên bang Nga về đối tượng chứng minh thì ngoài những tình tiết, sự kiện cần phải chứng minh như Điều 82 Dự thảo Bộ luật TTHS (sửa đổi) của nước ta, pháp luật TTHS của Nga còn quy định rất nhiều các tình tiết, sự kiện khác cần phải chứng minh trong vụ án hình sự: phương pháp thực hiện tội phạm; những tình tiết loại trừ tội phạm và hình phạt đối với hành vi; những tình tiết có thể dẫn đến việc miễn truy cứu trách nhiệm hình sự và miễn hình phạt; những tình tiết là điều kiện dẫn đến việc thực hiện tội phạm[8]. Đây là những tình tiết, sự kiện quan trọng, có ý nghĩa cho việc xác định tội phạm, xử lý người phạm tội và là căn cứ để giải quyết vụ án hình sự được khách quan, công bằng, đúng quy định của pháp luật, đảm bảo công tác phòng ngừa tội phạm.

"Sự thành công hay thất bại của quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân quan trọng bắt nguồn từ chứng cứ và quá trình thu thập, đánh giá, sử dụng chứng cứ"[9], mà để có chứng cứ đầy đủ, được thu thập theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, đảm bảo tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp làm căn cứ cho việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự thì ngoài năng lực chuyên môn, kinh nghiệm công tác, niềm tin nội tâm của những người tiến hành tố tụng, còn phụ thuộc vào việc ghi nhận của pháp luật TTHS về đối tượng chứng minh. Nếu pháp luật TTHS quy định đầy đủ, chi tiết những vấn đề cần phải chứng minh thì chính các quy định đó sẽ là định hướng đúng đắn cho các hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ của cơ quan tiến hành tố tụng. Trên cơ sở lý luận chung về đối tượng chứng minh trong vụ án hình sự và tham khảo, tiếp thu kinh nghiệm lập pháp về đối tượng chứng minh của một số nước, chung tôi xin kiến nghị hoàn thiện quy định những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự tại Điều 82 Dự thảo Bộ luật TTHS (sửa đổi) như sau:

Điều 82. Những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự

1. Khi điều tra, truy tố và xét xử vụ án hình sự, Cơ quan điều tra,Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án phải chứng minh:

a) Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm, phương thức, thủ đoạn và những tình tiết khác của hành vi phạm tội;

b) Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội; có người khác cùng tham gia thực hiện tội phạm hay không;

c) Những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo và những đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo (họ tên, ngày tháng năm sinh, giới tính, nghề nghiệp, chức vụ…)

d) Hành vi phạm tội xâm hại đến quan hệ xã hội cụ thể nào, đối tượng tác động của tội phạm là gì; tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra;

đ) Những tình tiết loại trừ tính chất tội phạm của hành vi, những tình tiết có thể dẫn đến miễn trách nhiệm hình sự hoặc miễn hình phạt;

e) Nguyên nhân và điều kiện dẫn đến việc thực hiện tội phạm;

Đối tượng chứng minh trong vụ an hình sự đều giống nhau
g) Và những tình tiết khác có liên quan và có ý nghĩa đối với việc giải quyết đúng đắn vụ án.


* ……….

[1]Xem: GS,TS Võ Khánh Vinh (chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật TTHS, Chương V - Chứng cứ, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2012, tr.127.

[2]Xem GS,TSKH. Lê Văn Cảm, Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự, Phần chung, Sách chuyên khảo sau đại học, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 349

[3]Xem Viện Kiểm sát nhân dân tối cao (2003), Tờ trình về Dự án Bộ luật TTHS sửa đổi tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XI, Hà Nội.

[4] Xem GS,TSKH. Lê Văn Cảm, Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự, Phần chung, Sách chuyên khảo sau đại học, sđd, tr. 357.

[5] Xem: GS,TSKH. Lê Văn Cảm, Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự, Phần chung, Sách chuyên khảo sau đại học, sđd, tr. 376.

[6] Xem: BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr. 45.

[7] Xem Dự thảo Bộ luật TTHS (sửa đổi), http://duthaoonline.quochoi.vn

[8] Xem Viện Khoa học kiểm sát - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ luật TTHS của Cộng hòa liên bang Nga, (tài liệu dịch tham khảo), Hà Nội, 2002.

[9] Xem PGS.TS. Nguyễn Hòa Bình, Một số định hướng nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật TTHS đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Tạp chí Kiểm sát số 21 năm 2012.

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 14(294), tháng 7/2015)