Khách thể của luật học so sánh năm 2024
Uploaded byHồng Ngọc Show 0% found this document useful (1 vote) 2K views 249 pages Original TitleLUẬT-SO-SÁNH-2020-đã-chuyển-đổi Copyright© © All Rights Reserved Available FormatsDOCX, PDF, TXT or read online from Scribd Share this documentDid you find this document useful?Is this content inappropriate?0% found this document useful (1 vote) 2K views249 pages LUẬT SO SÁNH 2020 đã chuyển đổiUploaded byHồng Ngọc nghiên cứu điểm tương đồng và khác biệt trong quy định về các trường hợp vi phạm hợp đồng của pháp luật Anh và Đức
Related documents
Preview textChương 1. NHẬP MÔN LUẬT SO SÁNH (10 tiết giảng)
(môn này) và luật so sánh chuyên nghành (luật hiến pháp so sánh, luật thương mại so sánh, luật hợp đồng so sánh...)
lĩnh vực khoa học. Vậy những nhân tố nào là mẫu số so sánh chung của các đối tượng so sánh trong LSS? Những điểm chung ở vĩ mô có thể là: kinh tế, chính trị, văn hóa, địa lý, ngôn ngữ, tôn giáo, hệ thống các giá trị..ùy thuộc mục đích & lĩnh vực quan tâm của người nghiên cứu. Một số học giả cho rằng nên tiến hành so sánh giữa các HTPL có cùng bước phát triển nhất định có thể là về kinh tế, xã hội hoặc pháp luật. Những điểm chung ở cấp độ vi mô: là chức năng của các chế định, các quy phạm pháp luật được các học giả thừa nhận là nhân tố thứ ba của so sánh. Tức là các chế định, các quy phạm pháp luật ở các quốc gia khác nhau có thể so sánh khi có cùng chức năng. Cách tiếp cận như sau: “Chế định nào trong HTPL X thực hiện chức năng tương đương với chế định đó trong HTPL Y?” hoặc “Một vấn đề xã hội/pháp lý được HTPL X,Y giải quyết như thế nào?”. So sánh chức năng: để so sánh được thì các quy phạm phải có cùng chức năng, nhưng không nhất thiết phải có cùng mục đích. Ví dụ đạo luật về nạo phá thai ở hai nước. Ở nước này thì nhằm mục đích là hạn chế sự gia tăng dân số còn ở nước khác lại là để gia tăng dân số. Sự khác biệt về mục đích là quan trọng để hiểu được sự khác biệt, và nó cũng là yếu tố để cân nhắc dưới góc độ đánh giá so sánh các giải pháp đã được ứng dụng.( 1 ) Lưu ý, việc so sánh chức năng cho thấy việc so sánh luật không tập trung vào cấu trúc, ngôn ngữ hay khái niệm của các quy phạm pháp luật hoặc trong các chế định luật khác nhau mà chỉ tập trung vào tình huống thực tế, so sánh cách thức các HTPL giải quyết tình huống đó. Nói cách khác là so sánh giải pháp pháp lý được sử dụng trong các xã hội khác nhau để giải quyết cùng vấn đề xã hội/pháp lý tồn tại ở các xã hội đó. Nguyên tắc so sánh chức năng là nguyên tắc cơ bản nhất của phương pháp luận của luật so sánh. Các ví dụ về công trình so sánh chức năng:
1 Trích M, Luật so sánh, 1994, tr 46.
Không được sử dụng các khái niệm không đồng nhất giữa các HTPL cũng như các khái niệm riêng biệt của 1 HTPL nào đó làm tiêu chí so sánh. Mặt khác, do có một số HTPL có thể không sử dụng giải pháp pháp luật để giải quyết vấn đề đã được xác định, vì vậy các tiêu chí phải bao gồm cả những tiêu chí gắn với giải pháp có tính chất pháp lý và những tiêu chí gắn với giải pháp mang tính xã hội. (5) Viết báo cáo về đối tượng cần so sánh Việc mô tả các HTPL được lựa chọn để so sánh có ý nghĩa quan trọng trong xác định những điểm tương đồng và khác biệt giữa các đối tượng so sánh. Nhiệm vụ đó đòi hỏi người nghiên cứu phải khám phá và mô tả sự tương đồng và khác biệt trên cơ sở các dữ liệu đã thu thập được trong các bản mô tả về các HTPL. Yêu cầu của việc mô tả HTPL là tính đầy đủ thông tin về từng HTPL, tính toàn diện và tính khách quan. Để đảm bảo tính toàn diện, nhà nghiên cứu cần tìm kiếm tất cả các quy định về các HTPL được sử dụng. Tuy nhiên việc này khó vì việc giải quyết cùng một vấn đề nhưng ở các HTPL khác nhau họ có thể giải quyết không cùng chế định pháp luật, không cùng thuật ngữ, khái niệm, khác nhau cả về nguồn gốc lịch sử, hoặc có quốc gia giải quyết bằng quy phạm xã hội. Hệ thống nguồn luật, các loại văn bản và hình thức là khác nhau. Để đảm bảo tính khách quan, khi mô tả các HTPL không được đưa ra bất kỳ bình luận hay nhận xét nào của cá nhân mình, phản ánh trung thực như nó tồn tại. Lưu ý các thuật ngữ, kiểu khái niệm, nguồn luật trong HTPL nào phải được sử dụng như trong bối cảnh kinh tế - xã hội, chính trị của nó. Khi mô tả, các nhà nghiên cứu có thể trình bày các quy phạm, các khái niệm và các chế định pháp luật của HTPL đó, thậm chí những vấn đề kinh tế-xã hội gắn với các quy phạm cũng có thể được trình bày. (6) Đánh giá có phê phán kết quả so sánh tìm được. Người nghiên cứu phải giải thích nguồn gốc những tương đồng và khác biệt đã tìm ra. Việc giải thích những nội dung nào phụ thuộc vào giả thiết nghiên cứu. Cơ sở để giải thích những G&K là những yếu tố chính trị, kinh tế, văn hóa, lịch sử và địa lý, nhân chủng, yếu tố ngẫu nhiên và hoàn cảnh của mỗi HTPL,... Sau khi giải thích những tương đồng và khác biệt giữa các, người nghiên cứu cần phân tích và đánh giá những ưu điểm, hạn chế của các HTPL hoặc các giải pháp của các HTPL đã được so sánh. Cuối cùng, nếu mục đích nghiên cứu so sánh là cải tổ pháp luật, người nghiên cứu cần xây dựng giải pháp pháp lý mà họ cho rằng tối ưu nhất hoặc lựa chọn giải pháp của HTPL nào đó để cấy ghép vào HTPL của mình. d. Những điểm cần lưu ý khi sử dụng phương pháp nghiên cứu của LSS: - Tính chính xác: Điều kiện tiên quyết để nghiên cứu so sánh giữa các HTPL là khả năng có được những thông tin chính xác, thời sự về HTPL cần so sánh. Cách đơn giản và hiệu quả nhất để thu thập thông tin về HTPL nước ngoài là tận dụng những mối quan hệ trực tiếp với các đồng nghiệp giàu kinh nghiệm tại nước có HTPL cần nghiên cứu. Nếu không thông thạo ngoại ngữ nước đó thì nhất thiết phải dựa vào đồng nghiệp có khả năng dịch luật nước ngoài ra những khái niệm mà ta nắm vững. Điều nguy hiểm nhất đối với người sinh viên luật nước ngoài là anh ta thường bắt đầu nghiên cứu luật nước ngoài với những suy luận rằng các khái niệm, thiết chế pháp luật, phương pháp nghiên cứu pháp luật mà anh ta biết trong HTPL nước mình cũng tồn tại trong HTPL nước ngoài mà anh ta định nghiên cứu. Vì vậy, các nhà luật so sánh nên thoát ra khỏi HTPL nước mình và cách tư duy của nó. Hiểu biết pháp luật nước ngoài thiếu chính xác dẫn đến việc so sánh pháp luật kém chất lượng, sai về thực tiễn, và đôi khi còn tồi tệ hơn là không so sánh gì cả. Rõ ràng, khả năng có được thông tin chính xác, cập nhật về HTPL cần so sánh như: các đạo luật, quy định, báo cáo, án lệ... Để bắt đầu nghiên cứu cần có kiến thức ngôn ngữ vì nó là trở ngại nghiêm trọng đối với công tác nghiên cứu HTPL nước ngoài. - Tính cập nhật:
phái pháp luật tự nhiên. Ông được đánh giá là người đi tiên phong trong lĩnh vực luật học so sánh. b. Thế kỷ 19 đến nay Luật so sánh từ TK 19 đến nay phát triển mạnh mẽ với hai hình thức là so sánh lập pháp và so sánh học thuật. SSLP là quá trình theo đó pháp luật của nước ngoài được viện dẫn để soạn thảo các văn bản pháp luật của quốc gia; còn SSHT là việc so sánh các HTPL khác nhau đơn giản nhằm nâng cao hiểu biết về pháp luật. - Luật so sánh ở các nước TBCN Đức là quốc gia tiên phong trong so sánh lập pháp để xây dựng HTPL của mình. Bộ luật hình sự nước Đức, Bộ luật dân sự Đức 1986. SSHT ra đời muộn hơn, giữa TK 19 “Luật so sánh dường như mới được thừa nhận như ngành nghiên cứu pháp luật hoặc ít nhất là phương pháp được chấp nhận để nghiên cứu các HTPL khác nhau”. Đầu tiên, Tạp chí phân tích liên quan đến luật so sánh đầu tiên trên thế giới ra đời ở Đức năm 1829 và xuất bản được 28 số. Ở Pháp, tạp chí lập pháp nước ngoài được xuất bản năm 1834. Ở Anh có công trình “Bình luận về pháp luật thuộc địa và pháp luật nước ngoài” được xuất bản năm 1938 với nội dung chứa đựng các bình luận về pháp luật của các nước Châu Âu lục địa, pháp luật của các vùng lãnh thổ thuộc địa của Anh và Pháp luật Anh là cuốn sách rất hữu ích đối với các luật gia Anh, đặc biệt là Hội đồng Cơ mật Anh. Công trình nữa là “Luật thương mại trên thế giới” năm 1854 đã so sánh luật thương mại của Anh và của nhiều nước khác nhau trên thế giới. Ở Mỹ, chiến trang giành độc lập làm cho người Mỹ chán ghét mọi thứ có nguồn gốc từ Anh, các luật gia Mỹ cho rằng cần phải phát triển các quy tắc mới phù hợp với những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội ở Mỹ. Vì thế họ tiến hành nghiên cứu Luật La mã và pháp luật đương đại của các nước Châu âu lục địa, đặc biệt là pháp luật Pháp. Các ấn phẩm chuyên về luật so sánh được ra đời, luật so sánh được đưa vào giảng dạy tại các trường Luật, các hiệp hội luật so sánh được thành lập. Đại hội quốc tế về luật so sánh tại Paris năm 1900 đánh dấu bước phát triển mới của Luật so sánh. Viện Luật so sánh được thành lập ở Đại học Munich (năm 1916), Đại học Lyons (năm 1926). Những công trình nghiên cứu Luật so sánh, chuyên luận của Lambert: chức năng của Luật so sánh năm 1903, chuyên luận chức năng và phương pháp của luật so sánh của Sauser-hall năm 1913. 2. Luật so sánh ở Việt Nam 2 Trước năm 1945 Trong thời kỳ phong kiến, các nhà làm luật của các triều đại phong kiến đã tham khảo kinh nghiệm, chủ yếu là của Trung Quốc để xây dựng HTPL của mình. Quốc triều hình luật và Hoàng Việt luật lệ. 2 Từ 1945 đến nay a. 1945 đến trước 1986: - Miền Bắc: Hoạt động so sánh lập pháp phát triển. (Hiến pháp 1959), còn hoạt động so sánh học thuật kém phát triển. - Miền Nam: Hoạt động so sánh phát triển trên cả hai lĩnh vực. So sánh lập Pháp (Sắc luật 1964 về hôn nhân và gia đình có nhiều điều khoản chép y nguyên bộ luật dân sự pháp), so sánh học thuật (TS. Ngô Bá Thành với cuốn sách “Những ứng dụng của luật so sánh”, Vũ Văn Mẫu trong “Dân luật khái luận”, Trần Văn Liêm trong “Dân luật nhập môn”) Sau 1975, hoạt động lập pháp đã nghiên cứu kinh nghiệm của Liên xô (hiến pháp 1980) c. 1986 đến nay: Luật so sánh phát triển mạnh mẽ. - So sánh lập pháp (xây dựng các dự án luật đều tham khảo kinh nghiệm nước ngoài như luật doanh nghiệp, luật chứng khoán ...) - So sánh học thuật: công trình “tìm hiểu luật so sánh” năm 1993, “Luật so sánh” Thông tin khoa học pháp lí năm 1998... Các tổ chức chuyên về luật so sánh được thành lập: Phòng nghiên cứu luật so sánh (Viện Nhà nước và pháp luật), Trung tâm luật so sánh và luật quốc tế (Viện khoa học pháp lí thuộc Bộ tư pháp) năm 2001, Trung tâm luật so sánh (Khoa Luật –Đại học QGHN năm 2003, Trường đại học Luật Hà Nội năm 2004, Đại học Cần Thơ năm 2005). Môn học luật so sánh cũng được giảng dạy.
dòng họ, ngay cả khi chúng sử dụng cùng các khái niệm và kĩ thuật, nếu chúng được xây dựng dựa vào những nguyên tắc triết học, chính trị, và kinh tế đối lập nhau và nếu chúng cố gắng tạo ra hai kiểu xã hội hoàn toàn khác nhau”. - Hai học giả người Đức là Zweigert và H, mặc dù chỉ đưa ra tiêu chí “kiểu pháp luật” (legal style) để phân nhóm pháp luật nhưng nội dung của tiêu chí này lại chứa đựng nhiều tiêu chí thành phần khác nhau gồm:
KL: Tiêu chí nào có các kết quả đó, phân nhóm mang tính tương đối. VD nếu theo tiêu chí chính trị thì trên thế giới có lúc 2 nhóm TBCN và XHCN, dòng họ civil và common không được tính đến). Không có cách nào khoa học và chính xác hơn, việc sử dụng tiêu chí nghiên cứu nào hoàn toàn dựa vào mục tiêu và mục đích của người nghiên cứu. V- MÔN HỌC LUẬT SO SÁNH |