Kính chống giọt bắn mua ở đâu adelaide nam úc
(Tiếp) Tàu khu trục lớp Kongou
Page 2
(Tiếp) b. Trang bị chủ yếu
Tàu ngầm tấn công lớp Jang Bogo
(Tiếp) Tàu sân bay trực thăng lớp Dokdo
Tàu đổ bộ lớp Go Jun Bong Vào cuối những năm 1980, Hải quân Hàn Quốc đã quyết định thay thế dần hạm đội tàu đổ bộ cũ kỹ của mình từ thời Thế chiến 2 (lớp Un Bong) mua từ Hải quân Hoa Kỳ vào năm 1958 bằng các tàu đổ bộ chở tăng lớp LST-542. Một kế hoạch ba giai đoạn đã được đưa ra để phát triển các tàu đổ bộ mới đáp ứng nhu cầu của các hoạt động đổ bộ và vận tải hiện đại.
(Tiếp) Tàu khu trục lớp Sejong the Great
Tên lửa chống hạm SSM-700K Hae Sung
(tiếp) Tàu khu trục lớp Chungmugong Yi Sun-sin
(Tiếp) Tàu khu trục lớp Gwanggaeto the Great (KDX-I)
(Tiếp) Tàu hộ vệ lớp Daegu Khinh hạm hạng Daegu ( Hangul : 대구 급 호위함, Hanja : 大邱 級 護衛艦) là lớp khinh hạm tên lửa dẫn đường của Hải quân Hàn Quốc (ROKN). Lớp Daegu dựa trên tàu khu trục nhỏ lớp Incheon trước đó và có tên gọi khác là tàu lớp Incheon II, hoặc FFG-II. Tám tàu lớp Daegu được đóng theo kế hoạch, với mục tiêu cuối cùng là 20-22 khinh hạm (các loại) cho ROKN. [1] Các khinh hạm lớp Daegu được chế tạo bởi Daewoo Shipbuilding & Marine Engineering (DSME) và Hyundai Heavy Industries.
Tàu hộ vệ lớp Incheon Các khinh hạm lớp Incheon ( Hangul : 인천 급 호위함, Hanja : 仁川 級 護衛艦), còn được gọi là Future Frigate eXperimental hoặc FFX trong quá trình phát triển, là các khinh hạm hộ vệ của Hải quân Hàn Quốc. Con tàu đầu tiên được hạ thủy vào ngày 29 tháng 4 năm 2011. Các tàu hộ vệ lớp Incheon sẽ thay thế đội tàu hộ tống cũ lớp Pohang và lớp Ulsan. Tàu đảm nhận các hoạt động đa chức năng như tuần tra bờ biển, tác chiến chống tàu ngầm và hỗ trợ vận tải. Các lô sau này được lên kế hoạch chuyên dùng cho tác chiến phòng không và chống tàu ngầm. Một phiên bản cải tiến đang được giới thiệu là khinh hạm lớp Daegu, trước đây được gọi là Batch II của lớp Incheon.
(Tiếp) Tàu hộ tống lớp Pohang
Tàu Pohang số hiệu 18 và 20 trong biên chế hải quân Việt Nam được tích hợp tên lửa chống hạm Ural
(Tiếp) Tàu tuần tra lớp Yoon Youngha Tàu tuần tra lớp Yoon Youngha ( Hangul : 윤영하 급 미사일 고속 함) còn được gọi là tàu tuần tra lớp PKG là một lớp tàu tuần tra của Hải quân Hàn Quốc. Hải quân Hàn Quốc (ROKN) bắt đầu phát triển lớp PKG vào năm 2003 sau khi một tàu tuần tra lớp Chamsuri (lớp PKM) bị đánh chìm trong cuộc đụng độ hải quân với tàu tuần tra của Triều Tiên vào ngày 29 tháng 6 năm 2002. Chiếc tàu này có tên mã là PKX ( Tuần tra Chương trình Killer eXperimental ) là dự án hiện đại hóa tàu tuần tra của ROKN.
Tàu tuần tra lớp Chamsuri
(Tiếp)
Đặc điểm: Sức chứa : 2.640 lb (1.200 kg) hàng hóa bên trong, bao gồm 11 quân hoặc 6 cáng, hoặc 9.000 lb (4.100 kg) hàng hóa bên ngoài Chiều dài: 64 ft 10 in (19,76 m) ) bao gồm cánh quạt Chiều dài thân: 50 ft 1 in (15,27 m) Chiều rộng: 7 ft 9 in (2,36 m) Chiều cao: 16 ft 10 in (5,13 m) Trọng lượng rỗng: 12.511 lb (5.675 kg) Trọng lượng cất cánh tối đa: 22.000 lb ( 9,979 kg) Động cơ: 2 x động cơ trục turbo General Electric T700-GE-701C / D, 1.890 shp (1.410 kW) mỗi động cơ
Trực thăng UH-1H Chỉnh sửa cuối: 17/2/22
(Tiếp)
Trực thăng AW159 Wildcat của hải quân Hàn Quốc
(Tiếp)
Một số nét lớn về chiến lược quân sự Hàn Quốc coi liên minh quân sự Mỹ - Hàn là “trụ cột” an ninh quốc gia, từng bước chuyển từ phụ thuộc sang phối hợp với Mỹ, để tự chủ bảo vệ chủ quyền và các lợi ích quốc gia; điều chỉnh trọng tâm chiến lược quốc phòng từ “đối phó với Triều Tiên” sang đối phó với “các mối đe dọa tiềm tàng”, phương châm tác chiến từ “phòng thủ tiến công” sang “ngăn chặn đe dọa tiến công”. Hàn Quốc chủ trương xây dựng quân đội theo hướng “cơ động, tinh nhuệ, đáp ứng chiến tranh công nghệ cao”; điều chỉnh cơ cấu tổ chức lực lượng, ưu tiên phát triển hải quân và không quân; hiện đại hóa, điện tử hóa lực lượng quân sự, hoàn thiện hệ thống chỉ huy tác chiến hiện đại; đẩy mạnh mua sắm vũ khí trang bị hiện đại; tăng cường diễn tập quân sự, mở rộng hợp tác quốc phòng; nâng cao khả năng đối phó với các mối đe dọa từ bên ngoài, sẵn sàng hỗ trợ, phối hợp với Mỹ tiến hành hoạt động quân sự ở nước ngoài.Phương hướng tới Tiếp tục Kế hoạch hiện đại hóa quân đội đến năm 2030; xây dựng lực lượng phòng thủ và tiến công từ xa; tinh gọn hệ thống chỉ huy, cắt giảm lực lượng thường trực xuống còn 500.000 quân vào năm 2022. Có kế hoạch tăng tỷ lệ quân nhân nữ phục vụ trong quân đội từ 6,2% lên 8,8%. Đẩy mạnh thực hiện Kế hoạch cải cách quốc phòng 2.0 giai đoạn 2018 - 2022 theo “khái niệm chiến tranh mới”, đặc biệt là “tinh thần chiến đấu”; chú trọng nâng cao khả năng tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng, cam kết xây dựng quân đội hùng mạnh đủ khả năng phòng thủ trước các mối đe dọa từ bên ngoài.Hải quân tập trung xây dựng lực lượng hải quân tác chiến xa bờ; có kế hoạch đưa vào biên chế 03 tàu khu trục lớp “Sejong Đại Đế” trang bị hệ thống “Aegis”, tàu đổ bộ tiến công lớp “Dokdo”, 04 tàu ngầm lớp “Type-214". Chỉnh sửa cuối: 21/2/22
8. Hải quân Triều Tiên a. Tổ chức biên chế
b. Trang bị chủ yếu
Một số nét lớn về chiến lược quân sự Triều Tiên duy trì chiến lược quân sự “phòng thủ tích cực, từng bước tăng cường khả năng tiến công răn đe”, điều chỉnh chính sách phát triển đất nước, chuyển từ chính sách “tiến quân” sang chính sách “song tiến” vừa coi trọng phát triển kinh tế vừa coi trọng phát triển tiềm lực quốc phòng; phát triển tiềm lực quốc phòng, huy động mọi nguồn lực nhằm tăng cường sức mạnh cho lực lượng vũ trang; tập trung xây dựng quân đội theo hướng “chính quy, tinh gọn, hiện đại” đáp ứng yêu cầu tác chiến hiện đại, đủ sức ứng phó với các mối đe dọa quân sự từ bên ngoài, bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ, đồng thời kiềm chế các hoạt động quân sự gây căng thẳng khu vực. Trên cơ sở đó, Triều Tiên tập trung giáo dục chính trị, tư tưởng cho quân đội; điều chỉnh cơ cấu tổ chức lực lượng, tăng cường khả năng phòng thủ quốc gia; phát triển công nghiệp quốc phòng, nghiên cứu phát triển vũ khí hạng nặng, độ chính xác cao; tạm dừng các vụ thử vũ khí hạt nhân và các hoạt động quân sự thù địch có thể gây ra xung đột vũ trang; tập trung phát triển kinh tế; sẵn sàng bảo vệ đất nước bằng sức mạnh quốc gia.
Phương hướng tới Tiếp tục thực hiện chính sách “song tiến” (đồng thời phát triển kinh tế và quân sự), kết hợp giữa đẩy mạnh phát triển kinh tế “tự lực, tự cường” với đẩy mạnh hiện đại hóa quân đội theo hướng “tinh nhuệ, hiện đại”; chú trọng xây dựng lực lượng phòng thủ và tiến công từ xa.Phát triển khả năng tác chiến mạng; kỹ thuật nghi binh điện tử, tàng hình, sử dụng các loại tàu ngầm loại nhỏ, tàu đổ bộ đệm khí, ngư lôi có điều khiển; nghiên cứu chế tạo vũ khí uy lực lớn, nhỏ gọn, chính xác, công nghệ cao theo kiểu Triều Tiên; ưu tiên phát triển đội tàu tiến công cao tốc Kong Bang. Chỉnh sửa cuối: 21/2/22
(Tiếp) Một số loại trang bị Ngày 22.7.2019, Nhà lãnh đạo Triều Tiên Kim Jong-un thị sát nhà máy đóng tàu ngầm Sinpo, tỏ ra hài lòng với quá trình đóng "tàu ngầm mạnh mẽ của Triều Tiên". Truyền thông Triều Tiên không tiết lộ tính năng kỹ thuật và vũ khí có thể trang bị cho tàu ngầm, nhưng cho biết nó sẽ hoạt động ở vùng biển Nhật Bản sau khi được biên chế. Tuy nhiên, giới chuyên gia phương Tây cho rằng, đây là phiên bản cải tiến sâu theo kiểu "bình cũ rượu mới" của tàu ngầm điêzen-điện (Đề án 633 do Liên Xô chế tạo từ cuối thập niên 1950).
Ảnh chụp một vụ thử Pukguksong-3 của Triều Tiên ngày 2 tháng 10 năm 2019.
9. Hải quân Thái Lan a. Tổ chức biên chế
Lực lượng thủy quân lục chiến Thái Lan
(Tiếp) b. Trang bị chủ yếu
Tàu ngầm lớp Type S26T Tàu ngầm lớp Type S26T - Type 039A (tiếng Trung:039A型潜水艦, 039A Tiềm Thủy Hạm), NATO gọi loại tàu ngầm này là lớp Nguyên, là loại tàu ngầm chạy bằng điện-diesel do hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc chế tạo. Đây là loại tàu ngầm thiết kế dựa trên tàu ngầm Type 039. Type 039A được thiết kế để thay thế các loại tàu ngầm Đề án 633 và Hình 035 Minh vốn là xương sống trong lực lượng hải quân Trung Quốc. Thiết kế của tàu chịu ảnh hưởng rất nhiều từ tàu ngầm lớp Kilo với thân tàu hình giọt nước cùng một tháp điều khiển lớn và lớp vỏ kép chịu lực. Tàu có một khoang giảm xóc để giảm tiếng ồn khi hoạt động. Và vỏ tàu được bọc bằng một lớp cao su để hấp thụ sóng âm giảm khả năng bị phát hiện. Tàu có 6 ống phóng ngư lôi 533 mm có thể phóng các loại ngư lôi nội địa hoặc các ngư lôi của Nga. Ngoài ra Hình 039A cũng được cho là có thể phóng tên lửa chống tàu YJ-8X (C-80X) loại tên lửa dẫn đường chủ động bằng ra đa và quán tính.
Tàu sân bay hạng nhẹ Príncipe de Asturias-class light aircraft carrier - HTMS Chakri Naruebet Để thay thế Dedalo (hàng không mẫu hạm hạng nhẹ USS Cabot) từ năm 1986, hải quân Tây Ban Nha đã đặt hợp đồng ngày 29 tháng 6 năm 1977 cho một tàu sân bay có động cơ tuabin khí. Thiết kế của con tàu mới của Tây Ban Nha, do Gibbs và Cox của New York thực hiện, dựa trên biến thể thiết kế Enal của tàu tuần dương đã ngừng hoạt động của Hải quân Hoa Kỳ. Ban đầu được đặt tên là Almirante Carrero Blanco nhưng sau đó được đổi tên thành Principe de Asturias trước khi được hạ thủy, con tàu mới này tương tự như ba tàu sân bay hạng nhẹ lớp Invincible của Anh. Principe de Asturias được đặt ki ngày 8 tháng 10 năm 1979 tại bãi Ferrol của công ty Bazan, được hạ thủy ngày 22 tháng 5 năm 1982 và được đưa vào vận hành vào ngày 30 tháng 5 năm 1988. Khoảng thời gian dài từ khi hạ thủy đến khi đưa vào vận hành là do cần phải thay đổi hệ thống chỉ huy và điều khiển, và bổ sung một số thiết bị để tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng tàu trong vai trò chỉ huy. Principe de Asturias có sàn đáp dài 175,3 m và rộng 29 m, và được trang bị một đường dốc trượt nghiêng 12° kết hợp với mũi tàu. Tàu có hai thang chở máy bay, một trong số chúng ở phía đuôi tàu và được sử dụng để di chuyển máy bay (cả cánh cố định và cánh quạt) từ nhà chứa máy bay, có diện tích 30000 m². Biên chế tiêu chuẩn của tàu là 6 đến 12 chiếc AV-8B, hai chiếc SH-60B, 2 đến 4 chiếc trực thăng AB 212 ASW và 6-10 chiếc trực thăng SH-3H Sea King. Chiếc Chakri Naruebet, tương tự như Principe de Asturias, được Bazan chế tạo cho hải quân Hoàng gia Thái Lan và đưa vào hoạt động năm 1997.
Máy bay AV-8S của hải quân Hoàng gia Thái Lan
(Tiếp)
Tàu hộ vệ lớp Bhumibol Adulyadej Khinh hạm lớp Bhumibol Adulyadej là một lớp khinh hạm do Hải quân Hoàng gia Thái Lan vận hành. Thiết kế này là một biến thể của thiết kế tàu khu trục lớp Gwanggaeto Đại đế của Hải quân Hàn Quốc , với các tính năng tàng hình bổ sung. Đây là con tàu đầu tiên trong Dự án Tàu khu trục mới của Hải quân Hoàng gia Thái Lan. Nó có thể thực hiện các hoạt động chiến đấu trên đối hải, chống ngầm và trên không. Tàu được đưa vào hoạt động vào ngày 7 tháng 1 năm 2019, với tên gọi ban đầu là HTMS Tha Chin. Sau đó nó được đổi tên thành HTMS Bhumibol Adulyadej. Thân tàu DW-3000F khác với tàu khu trục lớp Gwanggaeto Đại đế là do thiết kế của tàu bị giảm tiết diện radar, đồng thời có thêm nhiều công nghệ bổ sung khác. Tổng chi phí đóng một chiếc thuyền vào khoảng 14,997 triệu baht. Đó là giá đã bao gồm VAT Phụ tùng, công cụ, tài liệu, hỗ trợ, kiểm tra, thử nghiệm, đào tạo, chuyển giao công nghệ,… Thân tàu được thiết kế sử dụng Công nghệ tàng hình. Cả thân tàu và các hệ thống của nó đều tập trung vào việc giảm sự phát hiện của đối thủ: giảm bức xạ nhiệt, giảm phản xạ radar và tiếng ồn. Hệ thống tác chiến của hải quân được liên kết với các máy bay của Không quân Link E, Link RTN, đặc biệt là liên kết với HTMS Naresuan (FFG-421), HTMS Taksin (FFG-422) và HTMS Chakri Naruebet(CVH-911) cùng với Link G, máy bay chiến đấu đa năng Jas-39 Gripen là máy bay chiến đấu thế hệ 4,5 tiên tiến nhất của Không quân. Là một phần của sự phát triển của Network Centric Warfare. Tàu được thiết kế để có thể bắn tên lửa đất đối không RIM-66 Standard MR.
Khi Thái Lan ký hợp đồng đóng 04 tàu khu trục 053 mới vào năm 1990, Trung Quốc đã chế tạo chúng cho tiêu chuẩn mới nhất 053H2 (Jianghu III). Hai chiếc được sửa đổi với sàn trực thăng ở phía sau. Mặc dù giá tốt (mỗi chiếc 2 tỷ baht, so với 8 tỷ baht đối với các tàu phương Tây), Hải quân Thái Lan phàn nàn về các vấn đề chất lượng. Các vấn đề về nội thất đã được phản ánh và phải sửa chữa. Hệ thống kiểm soát hỏa hoạn của tàu rất hạn chế, với hệ thống chống cháy và thân vỏ tàu kém. Người ta nói rằng nếu vỏ tàu bị trúng tên lửa hoặc ngư lôi, tàu sẽ ngập nhanh và sẽ dẫn đến chìm tàu. Hải quân Thái Lan đã phải mất rất nhiều thời gian và nỗ lực để sửa chữa một số vấn đề này.
Em lại rất sợ tên lửa tầm xa tầm gần của TQ. Nó nhắm vào mình có khi lại ung dung ngồi cafe, nhưng nhắm thằng bên cạnh là nổ tung mình ngay. Thực tế là ví dụ TQ bắn tên lửa sang Anh, thì Pháp mới là thằng phải sơ tán!. Haizz.
có nhiều thông tin về các chuyên gia kỹ thuật tên lửa của Triều Tiên không nhỉ? chắc đa phần vẫn học bên Nga về
Chỉnh sửa cuối: 4/3/22
Chỉnh sửa cuối: 5/3/22
Page 3
(Tiếp)
Máy bay J-7 (MiG-21F) Chỉnh sửa cuối: 14/10/21
(Tiếp)
Máy bay vận tải Yak-42
(Tiếp)
Máy bay không người lái ASN-209
(Tiếp)
Xe tăng hạng nhẹ ZTQ-15 Chỉnh sửa cuối: 18/10/21
(Tiếp)
Tên lửa phòng không HN-5A
(Tiếp) c. Một số nét lớn về chiến lược quân sự Trung Quốc xác định: xây đựng nền quốc phòng vững chắc và một quân đội lớn mạnh tương xứng với vị thế quốc tế, phù hợp với lợi ích và an ninh quốc gia là nhiệm vụ chiến lược trong tiến trình hiện đại hóa đất nước, thực hiện “hai mục tiêu 100 năm”; xây dựng quân đội chính quy, tinh nhuệ, hiện đại đặc sắc Trung Quốc, thực hiện mục tiêu đến năm 2020, Quân đội Trung Quốc cơ bản cơ giới hóa, thông tin hóa đạt tiến triển quan trọng, đến năm 2035 cơ bản hiện đại hóa quốc phòng - quân sự và trở thành quân đội hàng đầu thế giới vào giữa thế kỷ 21. Thực hiện mục tiêu trên, Trung Quốc gia tăng tiềm lực quốc phòng và sức mạnh quân sự; đẩy mạnh cải cách, hiện đại hóa vũ khí trang bị, ưu tiên lực lượng hải quân. Cụ thể: xây dựng lực lượng hải quân tác chiến đa năng, hiệu quả; chuyển đổi phương thức tác chiến từ “phòng ngự biển gần” sang “kết hợp phòng ngự biển gần với bảo vệ biển xa”; nâng cao khả năng tác chiến trên biển và tác chiến chống ngầm, bảo đảm ưu thế hải quân vượt trội ở khu vực “chuỗi đảo thứ nhất”; phát triển khả năng kiểm soát, ngăn chặn đối phương tiếp cận các vùng biển; nâng cao khả năng cơ động tác chiến viễn dương, phòng thủ, hỗ trợ và chi viện toàn diện, ứng phó hiệu quả với mối đe dọa an ninh phi truyền thống.d. Những thay đổi của hải quân so với năm 2018 Hải quân Trung Quốc đã được biên chế thêm 10.000 quân; thành lập Bộ Tư lệnh Hải quân đánh bộ (cấp quân đoàn) trực thuộc Hải quân Trung Quốc (tổ chức thành 10 lữ đoàn: 06 lữ đoàn hải quân đánh bộ, 01 lữ đoàn tác chiến đặc biệt, 01 lữ đoàn không quân trực thăng, 01 lữ đoàn công binh - phòng hóa, 01 lữ đoàn bảo đảm. Trong đó, Hạm đội Nam Hải 02 lữ đoàn hải quân đánh bộ (số 1, 2); Hạm đội Đông Hải 02 lữ đoàn hải quân đánh bộ (số 3, 4); Hạm đội Bắc Hải 02 lữ đoàn hải quân đánh bộ (số 5, 6); 01 lữ đoàn cứu hộ tàu ngầm. Đưa vào biên chế 01 tàu sân bay (Sơn Đông - CV17), 01 tàu hộ vệ tên lửa Táo Trang 542 lớp 054A/Giang Khải; 04 tàu khu trục (Quý Dương 119, Thành Đô 120, Hohhot 161 lớp Lữ Dương/052D, Nam Xương 101 lớp Nhân Hải/055); 13 tàu rải quét lôi (lớp Qua Trì/081A: 01 tàu; lớp Wonang/529: 12 tàu); 01 tàu vận tải đổ bộ lớp Ngọc Chiêu/071 Ngũ Chì Sơn, 01 tàu đổ bộ lớp Zubr.
Hải quân đánh bộ tiếp nhận và đưa vào biên chế 30 xe tăng hạng nhẹ (ZTQ-15), 200 xe thiết giáp (T-86/A), 60 tên lửa chống tăng (HJ-8), 80 tên lửa phòng không vác vai (HN-5).
đ. Phương hướng tới Phát triển lý luận quân sự, điều chỉnh quan điểm, học thuyết quân sự, hoàn thiện phương châm tác chiến chiến lược thời kỳ mới đặc sắc Trung Quốc; xây dựng hệ thống phòng thủ quân - dân hiệu quả; hoàn thành chuyển đổi tác chiến theo mô hình “Tập đoàn quân - lữ đoàn - tiểu đoàn - đại đội”.Từng bước mở rộng hoạt động quân sự và hiện diện lực lượng quân đội ở nước ngoài: thúc đẩy hợp tác các vành đai quân sự theo các hướng, ưu tiên hướng biển; từng bước thiết lập các căn cứ quân sự ở nước ngoài. Chỉnh sửa cuối: 19/10/21
(Tiếp) e. Tính năng chủ yếu của một số loại trang bị - Tàu sân bay Sơn Đông (CV-17) Ngày 17.12.2019, Tàu sân bay Sơn Đông (CV-17) - hàng không mẫu hạm đầu tiên do Trung Quốc tự chế tạo và là chiếc thứ hai của nước này - chính thức được đưa vào hoạt động và bàn giao cho Hải quân Trung Quốc. Tàu sân bay Sơn Đông (trước đây gọi là Type 001A) được khởi đóng từ tháng 11 năm 2013, bởi Công ty đóng tàu Đại Liên ở tỉnh Liêu Ninh. Tàu bắt đầu được thử nghiệm vận hành trên biển từ tháng 5 năm 2018. Tàu có lượng giãn nước 65.000 tấn, dài 315,5m, rộng 75m, là tàu sân bay cỡ trung bình chạy bằng động lực thông thường; tốc độ lớn nhất 30 hải lý/giờ, thủy thủ đoàn 1.190 người. Tàu là phiên bản sửa đổi của thiết kế lớp Kuznetsov nhưng được lắp đặt rađa kiểu mới có thể quan sát 360 độ; mang theo 36 máy bay chiến đấu J-15, so với tàu Liêu Ninh chỉ 24 chiếc. Tàu được nâng cấp hệ thống rađa cũng như có boong tàu rộng để các máy bay cất và hạ cánh. Các chuyên gia quân sự cho rằng, việc đưa tàu sân bay Sơn Đông vào hoạt động, là dấu mốc quan trọng trong nỗ lực xây dựng sức mạnh hải quân của Trung Quốc.
- Tàu khu trục Type 052D Tàu khu trục Type 052D có lượng giãn nước 7.500 tấn; dài 157m; rộng 17m; mớn nước 6m; trang bị 2 động cơ tuabin khí DA80 do Ukraine sản xuất có công suất 32.600 mã lực; 2 động cơ diezen MTU 20V 956TB92, mỗi động cơ có công suất 8.840 mã lực; tốc độ hành trình tố đa 32 hải lý/giờ; 01 máy bay trực thăng chống ngầm; thủ thủy đoàn 280 người.
Rađa tìm kiềm mục tiêu mặt đất H/LJQ-364
(Tiếp) 2. Hải quân Đài Loan a. Tổ chức biên chế
b. Trang bị chủ yếu
Tàu hộ vệ lớp Khang Định
(Tiếp)
Tàu đổ bộ lớp Chung Ho
(Tiếp)
Trực thăng chống ngầm S-70C
c. Một số nét lớn về chiến lược quân sự Đài Loan duy trì Chiến lược Quân sự “phòng ngự vững chắc, ngăn chặn hiệu quả” nhấn mạnh mục tiêu quốc phòng “đề phòng chiến tranh, phòng ngừa xung đột, bảo vệ lãnh thổ”; kết hợp chặt chẽ giữa phòng ngự, phản công và tác chiến phi đối xứng, sẵn sàng ngăn chặn phong tỏa đường không, đường biển và đánh bại các cuộc tiến công quân sự từ bên ngoài; từng bước tự chủ về quốc phòng, dựa vào đó để xây dựng quân đội và phát triển tiềm lực quốc phòng. Thực hiện chính sách trên, Đài Loan tập trung xây dựng lực lượng vũ trang phòng thủ cơ động, phát triển quân đội theo hướng “tinh gọn, tinh nhuệ, tác chiến nhanh”; điều chỉnh tổ chức lực lượng, tái cơ câu các bộ tư lệnh, giảm đơn vị chiến đấu, tăng đơn vị bảo đảm và lực lượng dự bị; ưu tiên phát triển lực lượng phòng không, phòng thủ tên lửa; nâng cao khả năng cơ động lực lượng đường không, kiểm soát biển, bảo vệ mặt đất và vùng duyên hải; đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng, tìm kiếm sự hỗ trợ từ bên ngoài để hiện đại hóa vũ khí trang bị, hoàn thiện hệ thống tự động hóa chỉ huy, thông tin liên lạc; tiếp tục tranh thủ và dựa vào Mỹ để bảo đảm an ninh, duy trì thế “cân bằng tương đối” giữa hai bên eo biển. d. Những thay đổi của hải quân Hải quân Đài Loan đã đưa vào biên chế 01 tàu khu trục lớp “Phòng Giáp”, 01 tàu khu trục lớp “Cơ Long”, 07 tàu viễn dương lớp “Đại Đồng” (ATF-555); loại khỏi bên chế 01 tàu quét, rải lôi lớp “Âm Dương ”, 04 tàu cứu hộ, cứu nạn.e. Phương hương tới Hải quân Đài Loan tiếp tục thực hiện kế hoạch xây dựng Hạm đội tàu ngầm; mua 12 xe thiết giáp đổ bộ AAV-7, 03 tàu khu trục lớp “Perry” và lớp “Knox” của Mỹ, 16 tên lửa hải đối không SM-2 (trang bị trên tàu chiến); nghiên cứu chế tạo 08 tàu ngầm, đóng 01 tàu hộ vệ tên lửa, 18 tàu tuần tra “Quang Hoa-6” và 06 tàu rải-quét mìn.
f. Tính năng chủ yếu của một số loại trang bị - Tàu khu trục lớp Khang Định (Kang Dinh)
Tàu khu trục lớp Cơ Long (Kidd class)
Trực thăng săn ngầm S-70C Blue Hawk
(Tiếp) 3. Hải quân Ấn Độ a. Tổ chức biên chế
Tàu Chỉnh sửa cuối: 12/11/21
(Tiếp)
Máy bay huấn luyện Mk-132
(Tiếp) c. Một số nét lớn về chiến lược quân sự Học thuyết Quân sự - 2017 của Ấn Độ xác định: (1) Đẩy mạnh cải cách quốc phòng sâu rộng, xây dựng quân đội tinh gọn, cơ động, trang bị vũ khí và tác chiến hiện đại vào năm 2025; (2) Duy trì quyền “tự chủ chiến lược” để tự chủ về quốc phòng - an ninh; (3) Phát triển lực lượng tên lửa đường đạn và tăng cường sức mạnh quân sự là chiến lược phát triển chủ yếu đưa Ấn Độ trở thành cường quốc khu vực và trên thế giới.
Năm 2019, Hải quân Ấn Độ đã được biên chế thêm 9.350 quân; thành lập 01 phi đội máy bay trực thăng huấn luyện Sea King Mk- 42B; giải thể 01 phi đội tác chiến chống ngầm Sea King Mk-42A; đưa vào biên chế 09 tàu bảo đảm hậu cần, 05 tàu đổ bộ, 21 trực thăng chống ngầm Sea King Mk-42A, 04 trực thăng chống ngầm Sea King Mk-42B, 02 trực thăng cảnh báo trên không Ka-31 Helix B, 06 máy bay huấn luyện, 03 tàu rải, quét mìn.
(Tiếp) Phương hướng tới Hải quân Ấn Độ đã có kế hoạch thành lập Hạm đội tàu ngầm (biên chế 150 tàu), 01 lữ đoàn hải quân đánh bộ và 03 phi đội không quân tiêm kích; dự kiến đưa vào biên chế tàu sân bay nội địa đầu tiên INS Vikrant, 05 tàu ngầm INS Arihant, 11 tàu hộ vệ Aquitain, 11 tàu khu trục lớp “Fremm”, 02 tàu tiến công nhanh Wjfac và 08 tàu săn ngầm cỡ nhỏ (ASWSWC); có kế hoạch mua 24 trực thăng Sikorsky MH-60R của Mỹ, 50 máy bay không người lái... Ngoài ra, Ấn Độ tiếp tục hợp tác với Nga nâng cấp 04 tàu ngầm lớp “Kilô”, hợp tác với Đức nâng cấp 02 tàu ngầm lớp “Shishumar”; xây dựng cảng nước sâu Kawar ở vùng biển Tây Nam Ấn Độ.
Tàu ngầm lớp “Shishumar”
(Tiếp) Tính năng chủ yếu của một số loại trang bị - Tàu sân bay INS Vikrant INS Vikrant là tàu sân bay đầu tiên được đóng bởi Ấn Độ. Nó được hạ thủy vào 12.8.2013 và được đưa vào hoạt động từ năm 2018. Dự kiến INS Vikrant sẽ đưa vào biên chế cho Hải quân Ấn Độ vào năm 2021. Tàu sân bay INS Vikrant có chiều dài 262m, chiều rộng 60m, lượng choán nước 40.000 tấn; tốc độ 28 hải lý/giờ, phạm vi hoạt động 8.000 hải lý, thủy thủ đoàn 1.400 người. INS Vikrant có thể mang theo khoảng 20 máy bay chiến đấu MiG-29K, 10 tiêm kích Ka-31 cùng với 10 trực thăng đa dụng.
- Tàu khu trục Visakhapatnam Tàu khu trục có khả năng tàng hình và mang tên lửa dẫn đường Visakhapatnam được hạ thủy và tham gia các hoạt động thử nghiệm từ tháng 7 năm 2018. Phát triển tàu khu trục Visakhapatnam nằm trong Dự án 15B của Hải quân Ấn Độ, với tỷ lệ nội địa hóa 65% và nhiều hệ thống vũ khí được sản xuất trong nước.
Chỉnh sửa cuối: 24/11/21
(Tiếp) 4. Hải quân Pakistan a. Tổ chức biên chế
Tàu tuần tiễu lớp Rajshahi
(Tiếp)
Năm 2019, Hải quân Pakistan đã đưa vào biên chế 01 máy bay trinh sát chống ngầm ATR-72-500; loại khỏi biên chế 01 tàu khu trục lớp Tariq (ex-UK Amazon), 01 tàu chở dầu lớp Attock, 01 máy bay trực thăng trinh sát chống ngầm Sea King Mk45. Chỉnh sửa cuối: 1/12/21
(Tiếp) e. Tính năng chủ yếu của một số loại trang bị - Tàu khu trục F-22P
Về hệ thống hàng không trên tàu: F22-P được trang bị một máy bay trực thăng chống tàu ngầm Z-9EC, cất và hạ cánh ở sàn bay phía sau thân tàu. Chỉnh sửa cuối: 2/12/21
(Tiếp) Tàu ngầm lớp Agosta Tàu ngầm lớp Agosta là loại tàu ngầm tiến công chạy bằng điêzen được Pháp nghiên cứu, phát triển, nhưng đã chuyển giao công nghệ và giấy phép sản xuất xuất khẩu cho Pakistan.Tàu ngầm lớp Agosta có chiều dài 76m, chiều rộng 6m, lượng choán nước (1.524 tấn khi nổi, 2.083 tấn khi lặn); tốc độ 12 hải lý/giờ khi nổi, 20,5 hải lý/giờ khi lặn; độ sâu 350m; thủy thủ đoàn 41 người.
Hệ thống vũ khí: 04 ống ngư lôi 533mm phía trước, Tên lửa SM 39 Exocet, Ngư lôi ECAN L5 Mod 3 và ECAN F17 Mod 2.
Tên lửa SM 39 Exocet Ngoài những Tàu ngầm lớp Agosta, Pakistan đã ký hợp đồng với Trung Quốc để mua 8 tàu ngầm động cơ thông thường lớp “Nguyên” trang bị động cơ đẩy độc lập không khí kết hợp. Trong đó, 04 chiếc sẽ được đóng tại Trung Quốc, 04 chiếc còn lại được đóng tại Pakixtan. Dự kiến 04 chiếc đóng tại Trung Quốc sẽ được chuyển giao cho Pakistan vào giữa năm 2022 và 2023; 04 chiếc đóng trong nước dự kiến sẽ hoàn thành vào năm 2028.
Tàu ngầm lớp Nguyên - Type-039C Page 4
(Tiếp) Hãng Kawasaki Jyukogyo được coi là nhà sản xuất các sản phẩm quân sự lớn thứ hai và có các xí nghiệp trong ngành hàng không, đóng tàu và tên lửa vũ trụ của ngành công nghiệp quốc phòng. Hiện tại, các nhà máy, xí nghiệp của Hãng đang sản xuất động cơ và thiết bị hàng không: máy bay vận tải quân sự S-1 và S-2, máy bay tuần tra R-1, P-2V7 và OR-ZS, máy bay huấn luyện T-4, trực thăng OH-1, MSN-101, SH-60J, trực thăng đa năng CH-101 và SH-60K, trực thăng vận tải và đổ bộ CH-47J/JA và động cơ máy bay.
Ngoài ra, công ty còn tham gia chương trình sản xuất và hiện đại hóa máy bay đổ bộ US-2 và máy bay chiến đấu F-2A/B. Chỉnh sửa cuối: 26/8/21
(Tiếp) Hãng Kawasaki Jyukogyo còn sản xuất tàu ngầm diesel-điện loại Soryu tại nhà máy đóng tàu ở Kobe cho lực lượng hải quân Nhật Bản. Các tàu ngầm diesel-điện loại "Oyashio" và "Harusio" cũng đang được sửa chữa ở đó.
Công ty Ishikawajima Harima Jyukogyo tham gia thực hiện chương trình vũ trụ quốc gia và phát triển, sản xuất các cụm bơm-tuabin cho động cơ tên lửa. Xí nghiệp Tomioka kogyo hoàn thiện lắp ráp tên lửa mang hạng trung H-IIA/H-IIB, tên lửa mang hạng nhẹ dòng M-V và tên lửa nghiên cứu dòng S.
Xí nghiệp sản xuất đồng bộ các bộ phận để lắp ráp hoàn chỉnh tên lửa, cụ thể: động cơ tầng một và tầng hai bao gồm thùng nhiên liệu và hệ thống cung cấp nhiên liệu; động cơ mạch rẽ; tên lửa đẩy; hệ thống điều khiển tự động động cơ phản lực; hệ thống khí nén và thủy lực của tên lửa và modul cảm biến không gian. Chỉnh sửa cuối: 25/8/21
(Tiếp) Xí nghiệp sản xuất đồng bộ các bộ phận để lắp ráp hoàn chỉnh tên lửa, cụ thể: động cơ tầng một và tầng hai bao gồm thùng nhiên liệu và hệ thống cung cấp nhiên liệu; động cơ mạch rẽ; tên lửa đẩy; hệ thống điều khiển tự động động cơ phản lực; hệ thống khí nén và thủy lực của tên lửa và modul cảm biến không gian. Hãng Subaru sản xuất máy bay và trực thăng các loại, trong đó có những loại cho quân đội. Tháng 2 năm 2019, Hãng đã bàn giao cho lực lượng vũ trang quốc gia để thử nghiệm loại trực thăng mới được phát triển trên cơ sở trực thăng đa năng Subaru-Bell 412EPX cùng với công ty Bell Helicopter trong chương trình UH-X.
Công ty Shinmeiwa Kogyo sản xuất máy bay đổ bộ US-1A/-2 tại nhà máy ở Kobe theo đơn đặt hàng của lực lượng hải quân và nhà máy hàng không của công ty ở Tokushima sản xuất máy bay đa năng U-36A và U-4, cũng như các modul thân máy bay.
Japan Marine United là một trong những công ty hàng đầu trong ngành đóng tàu. Công ty có nhiều kinh nghiệm trong việc sản xuất các loại tàu cho Bộ Quốc phòng như: tàu huấn luyện,hỗ trợ, nghiên cứu khoa học, vận tải, phá băng, quét mìn, tàu khu trục và tàu sân bay trực thăng.Ví dụ, nhà máy của công ty ở Yokohama đóng các tàu khu trục chở trực thăng lớp Izumo và Shirane, các tàu khu trục lớp Congo được trang bị hệ thống chiến đấu”Aegis”, các tàu đổ bộ và tàu quân sự hỗ trợ khác nhau. Nhà máy đóng tàu ở Maizuru có các phân xưởngđóng tàu khu trục, tàu khu trục nhỏ, tàu quét mìn, tàu phá băng, tàu đổ bộ chở trực thăng, tàu nghiên cứu và vận tải.
Nhà máy ở Tamano của Công ty Mitsui Zosen chế tạo các tàu khu trục, khinh hạm, tàu vận tải và tàu hỗ trợ cho quân đội. Chỉnh sửa cuối: 26/8/21
(tiếp) Mitsubishi Denki là một trong những nhà sản xuất vũ khí tên lửa lớn nhất. Các nhà máy ở các thành phố Amagasaki và Kamakura sản xuất tên lửa không đối không chiến thuật, tên lửa chống hạm, tên lửa tầm trung và tầm ngắn, tên lửa chống tên lửa tầm xa. Các mẫu được sản xuất chủ yếu là: Tên lửa phòng không SAM "03" và "93"; SAM "Patriot" PAK-Z; tên lửa điều khiển "không-không" kiểu "99" và "04".
Công ty "Nippon Denki" là nhà sản xuất các sản phẩm vô tuyến điện tử lớn nhất, có các trung tâm nghiên cứu khoa học và công nghệ riêng để thực hiện toàn bộ chu trình làm việc.Các nhà máy của công ty chế tạo radar, đài vô tuyến và các thiết bị chuyển mạch, thiết bị quang điện tử khác như: - Đài radar di động băng thông rộng; - Tổ hợp liên lạc vô tuyến điện di động; - Tổ hợp thông tin liên lạc vô tuyến di động; - Đài vô tuyến điện hàng không; - Tổ hợp vô tuyến đối lưu di động J/TRQ-502 -504; - Thiết bị cho các tổ hợp cố định và di động "Rapkon" J/TPQ-701; - Thiết bị của các tổ hợp cố định và di động của hệ thống định vị “Tacan” của NATO; - Tổ hợp liên lạc vô tuyến đối lưu J/FRQ-503; - Radar phòng không trên tàu OPS-12; - Tổ hợp định hướng vô tuyến NOLR-6; - Tổ hợp thiết bị chuyển mạch điện tử. - Radar phòng không ba tọa độ với anten mảng pha chủ động AFAR J/TPS-102 (có thể vận chuyển) và J/FPS-2 (cố định);
Hãng Toshiba là một trong những nhà sản xuất hàng đầu về vô tuyến điện tử của ngành công nghiệp quốc phòng. Các xí nghiệp sản xuất đài vô tuyến, radar và thiết bị điều khiển như: - Đài vô tuyến hàng không J/ARC-32; - Radar di động JMPQ-P13; - Các tổ hợp di động phát hiện vị trí trận địa pháo; - Các tổ hợp radar hạ cánh; - Radar khí tượng; - Radar phòng không ba tọa độ cố định J/FPS-4; - Hệ thống điều khiển hỏa lực phòng không di động kiểu "81"; - Đài chỉ huy bay di động J/TSC-701.
Radar phòng không ba tọa độ cố định J/FPS-4
(Tiếp) Công ty chế tạo máy "Komatsu Seisakusho" chế tạo các sản phẩm lĩnh vực xe thiết giáp: nhà máy ở tp. Komatsu sản xuất xe bọc thép kiểu "96" và ô tô bọc thép.
Các nhà máy của Hitachi Seisakusho ở các thành phố Tsuchiura và Hitachi sản xuất các loại máy móc kỹ thuật khác nhau như:
Nihon Seisaku là công ty sản xuất các sản phẩm súng - pháo lớn nhất trong ngành công nghiệp quân sự Nhật Bản.Các nhà máy sản xuất pháo cho xe tăng kiểu "10", pháo 155 mm cho xe pháo tự hành kiểu "99", pháo trên hạm 76 và 127 mm, pháo 105mm cho xe chiến đấu mang vũ khí hạng nặng kiểu "16", pháo 120 mm cho xe tăng kiểu "90", pháo 35mm cho pháo phòng không tự hành kiểu "87", pháo không giật 106mm kiểu "60", pháo xe kéo FH -70. Ngoài ra, công ty còn sản xuất tháp pháo cho một số loại xe bọc thép cung cấp cho các nhà thầu chính để lắp ráp.
Pháo xe kéo FH -70
(Tiếp) Ngành hàng không rất được nhà nước quan tâm, có khả năng đáp ứng nhu cầu kỹ thuật hàng không hiện đại của lực lượng vũ trang quốc gia, bảo đảm hiện đại hóa, sửa chữa và bảo dưỡng kỹ thuật. Tuy nhiên hiện nay Nhật Bản vẫn còn phụ thuộc vào công nghệ và linh kiện của nước ngoài.
Lĩnh vực tên lửa - vũ trụ của ngành công nghiệp quân sự Nhật Bản có thể đáp ứng nhu cầu của các lực lượng vũ trang quốc gia về nhiều loại vũ khí tên lửa. Trường hợp cần thiết, trong thời gian ngắn họ có thể chế tạo tên lửa chiến thuật – chiến dịch (tên lửa chính xác cao với tầm bắn lên đến 500 km).
Do vị trí ở đảo và địa hình đồi núi nên các phương tiện bọc thép ở Nhật Bản được sử dụng hạn chế. Tuy nhiên, do khoa học kỹ thuật phát triển nên ngành công nghiệp không phụ thuộc vào các công ty nước ngoài trong việc sản xuất các mẫu xe bọc thép hiện đại cho lực lượng vũ trang quốc gia. Công nghiệp sản xuất súng pháo của Nhật Bản nói chung đáp ứng được nhu cầu của lực lượng vũ trang trong nước. Đồng thời, họ duy trì hợp tác chặt chẽ với các công ty hàng đầu ở nước ngoài về công nghiệp quân sự.Ngành công nghiệp vô tuyến điện có khả năng sản xuất nhiều loại sản phẩm quân sự đáp ứng đủ yêu cầu của lực lượng vũ trang. Định hướng ưu tiên trong chính sách kinh tế - quân sự của Nhật Bản là bảo tồn và phát triển hơn nữa nền tảng khoa học kỹ thuật trong sản xuất vũ khí, trang thiết bị quân sự hiện đại nhằm tránh tụt hậu so với thế giới, cũng như nâng cao chất lượng sản phẩm đầu ra đồng thời giảm giá thành. Ngoài ra cần sử dụng nhiều hơn nữa thành tựu của khu vực dân sự.Ngành công nghiệp quốc phòng hiện có của Nhật Bản có thể đáp ứng 80-90% nhu cầu của lực lượng vũ trang quốc gia về nhiều loại vũ khí và thiết bị quân sự hiện đại. Tuy nhiên, Nhật Bản vẫn còn sự phụ thuộc đáng kể vào việc nhập khẩu một số vũ khí, thiết bị quân sự và các linh kiện chủ yếu từ Mỹ./.
Mỹ bán 160 tên lửa AIM-120C-7 AMRAAM cho Nhật Bản
F-2 Chỉnh sửa cuối: 29/8/21
Israel "tích hợp" tên lửa lên xuồng tuần tra Shaldag Mk II
Tên lửa chống tăng Spike-ER trên xuồng tuần tra cao tốc Shaldag Mk II của Azerbaijan Chỉnh sửa cuối: 29/8/21
Trung quốc thử nghiệm trực thăng Z-20 phiên bản hải quân
Z-20
Trung Quốc bắn thử tên lửa chiến lược Cự Lãng 3 (JL-3)
Tàu ngầm lớp Type-094 phóng tên lửa JL-3
Vũ khí, trang bị nổi bật của QUÂN ĐỘI HOÀNG GIA CAMPUCHIA Cùng với tốc độ tăng trưởng GDP cao trong thời gian dài, Quân đội Campuchia đang được đầu tư khá lớn, có bước phát triển mạnh mẽ, hướng tới hiện đại. Liên tục trong nhiều năm nay, ngân sách dành cho quân đội nước này ở ngưỡng trên 400 triệu USD/năm, bình quân chiếm 2% GDP liên tục trong 10 năm vừa qua, với quy mô quân số khoảng 70.000 người.
1. Xe tăng, xe thiết giáp, pháo binh lục quân Campuchia có khoảng hơn 1.000 xe tăng, xe thiết giáp, xe lội nước các loại và một hệ thống pháo phản lực mạnh chủ yếu nguồn gốc do Nga, Ukraine…, và Trung Quốc sản xuất. Xe tăng Theo báo cáo của Viện nghiên cứu hòa bình quốc tế Stockholm (SIPRI), năm 1994 Quân đội Campuchia đã nhận 40 chiếc T-55AM từ Cộng hòa Séc và 50 chiếc T-55AM2BP từ Ba Lan. T-55AM và T-55AM2BP được đánh giá có năng lực chiến đấu còn cao hơn cả T-62 (dù dòng xe đời sau này sử dụng pháo chính cỡ nòng 115mm).
Xe thiết giáp Cũng theo SIPRI, trong năm 1994, Quân đội Hoàng gia Campuchia đã nhận 24 xe thiết giáp chở quân (OT-64A từ Cộng hòa Séc, OT-64 SKOT được phát triển bởi Ba Lan và Tiệp Khắc trong thập niên 1960).
Pháo binh Theo báo cáo của SIPRI, trong năm 2013, Campuchia đã nhận từ Cộng hòa Séc 20 hệ thống pháo phản lực phóng loạt RM-70.
Phòng không-không quân Cơ bản lực lượng Phòng không Campuchia chỉ sở hữu các loại súng, pháo phòng không cỡ nòng từ 12,7mm, 14,5mm, 23mm, 37mm, 57mm và các loại tên lửa vác vai đời cũ do Liên Xô sản xuất. Vài năm trước, lực lượng này được Trung Quốc viện trợ thêm loại tên lửa vác vai FN-6. Do vậy, khả năng bảo vệ vùng trời của lực lượng Phòng không Campuchia thấp, nên mới đây Campuchia đã đề nghị Trung Quốc viện trợ cho nước này hệ thống tên lửa phòng không tầm xa thế hệ mới, theo nhiều dự đoán có thể là tổ hợp .
Trực thăng AS-355 Chỉnh sửa cuối: 4/9/21
(Tiếp) Hải quân Campuchia Campuchia có đường bờ biển dài 443km nhưng diện tích lãnh hải tương đối lớn. Tuy nhiên, Hải quân Campuchia chưa được đầu tư nhiều. Quân số thường trực khoảng 4.000 người (trong đó có 2.000 lính thủy đánh bộ); trang bị 228 tàu/xuồng các loại nhưng 90% là các xuồng cao tốc tuần tra đường sông và Biển Hồ. Các tàu chiến có khả năng hoạt động trên biển đều là tàu kiểu cũ, lạc hậu. Gồm: 05 tàu phóng lôi lớp Tuyra (projec 206M) do Liên Xô viện trợ, có lượng giãn nước 250 tấn, dài 39,6m. Vũ khí, trang bị gồm 02 tháp pháo 57mm, 02 pháo 25mm và 04 ống phóng ngư lôi cỡ 533mm. Giai đoạn 1985-1987, Campuchia được Liên Xô viện trợ thêm 05 tàu cao tốc lớp Stenka (project 205P), có lượng giãn nước 245 tấn, dài 37,5m. Tàu được vũ trang 02 tháp pháo Ak-230 30mm, 04 ống phóng ngư lôi cỡ 400mm. Năm 1998, Việt Nam viện trợ cho Campuchia một tàu phóng lôi lớp Shershen. Tàu có lượng giãn nước 172 tấn, dài 34,08m, có 02 tháp pháo Ak-230 30mm và 04 máy phóng ngư lôi cỡ 533mm. Tuy nhiên, tất cả các hệ thống phóng ngư lôi trên tàu lớp Tuyra, Stenka va Shershen của Campuchia đều bị gỡ bỏ.
Thiết bị điện tử trên những chiến hạm C28A mà Trung Quốc xuất khẩu sang Algeria bao gồm radar cảnh giới đường không SMART-S Mk 2 (Pháp) và Type 364 (Trung Quốc); radar kiểm soát hỏa lực Type 345 và Type 347; radar dẫn đường hàng hải Kelvin Hughes, cùng với bệ phóng mồi bẫy gây nhiễu Type 726-4. Vũ khí của C28A khá mạnh và toàn diện, trong đó đáng chú ý nhất là 08 tên lửa hành trình chống hạm C-802A tầm bắn 180km, tốc độ Mach 0,9, mang theo đầu đạn nặng 165kg; cùng với 08 tên lửa phòng không HQ-7, có phạm vi hoạt động trong khoảng 0,7-15km, độ cao diệt mục tiêu 15-6.000m. Bên cạnh đó, tàu còn được trang bị pháo hạm NG-16-1 cỡ 76,2mm; 02 pháo phòng không bắn nhanh Type 730 và 06 ngư lôi chống ngầm hạng nhẹ Yu-7 324mm, sàn đáp cùng với nhà chứa máy bay ở đuôi cho phép mang theo 01 trực thăng hạng trung trong các chuyến hải trình dài ngày. Hiện tại, chưa rõ Campuchia sẽ thu xếp ngân sách ra sao để có thể mua sắm lớp chiến hạm trị giá hàng trăm triệu USD này, nhưng nhiều khả năng Bắc Kinh sẽ cấp tín dụng ưu đãi cho Phnom Penh tương tự những gì họ đã làm trong quá khứ.
Những tên lửa có uy lực nhất thế giới Tầm bắn xa, khả năng sát thương (phá hủy) quy mô lớn, độ chính xác cao và những cải tiến hiện đại là đặc điểm được xác định để xếp hạng những tên lửa mạnh nhất thế giới. 1 . Tên lửa Trident D5 hay Trident II của Mỹ
2 . Tên lửa SS-N-30A Kalibr của Nga
3 . Tên lửa LGM-30 Minuteman III của Mỹ
LGM-30 Minuteman III là tên lửa liên lục địa (ICBM), có khả năng mang đầu đạn hạt nhân - một biểu tượng của sức mạnh, trụ cột không thể thay thế trong bộ 3 hạt nhân của Mỹ. Minuteman III có trọng lượng 32,158 tấn, dài 18m, đường kính 1,67m, trần bay cao 1.120km, tầm bắn 9.664km, tốc độ 25.200km/giờ (Mach 20) và sai số khoảng 200m. Đơn giá hơn 7 triệu USD/quả, hiện Quân đội Mỹ có khoảng trên 1.000 đầu đạn hạt nhân chuyên sử dụng cho loại tên lửa này. Minuteman-III có thể mang nhiều đầu đạn hạt nhân loại W62, W78, W87, mỗi một đầu đạn có thể được lập trình để tiến công mục riêng biệt. Lượng nổ tối đa của mỗi đầu đạn hạt nhân có thể từ 170 kiloton đến 500 kiloton (tương đương từ 170.000 đến 500.000 tấn thuốc nổ TNT).
4 . Tên lửa hành trình Tomahawk
5 . Tên lửa M51 của Pháp
6 . R-29RMU2.1 Layner của Nga
R-29RMU2.1 Layner là tên lửa đường đạn phóng từ tàu ngầm, có tầm bắn tối đa 8.300km khi mang tải tối đa và có thể đạt tới 12.000km nếu giảm tải; mỗi tên lửa còn có thể mang 12 đầu đạn với đương lượng nổ từ 100 đến 300 kiloton. R-29RMU2.1 Layner được trang bị các hệ thống tiên tiến có thể vượt qua lưới phòng thủ tên lửa đối phương. Tên lửa có chiều dài 15m, đường kính thân 1,9m, trọng lượng hơn 40 tấn. R-29RMU2.1 Layner có thể thực hiện các vụ phóng đơn hoặc phóng loạt khi tàu ngầm đang lặn ở độ sâu 55m và di chuyển với tốc độ 7 hải lý/giờ. Chỉnh sửa cuối: 6/9/21
Nền công nghiệp Quốc phòng Brazin Brazil là một nước có nền công nghiệp quốc phòng (CNQP) phát triển. Các công ty CNQP của Brazil có thứ hạng khá cao trên thế giới, như: Embraer, Avibras, Odebrecht…
Nhập khẩu sản phẩm quân sự phải bao gồm chuyển giao công nghệ sản xuất Trái với hầu hết các nước công nghiệp mới, tất cả các công ty thuộc CNQP Brazil đều rất mạnh về mảng sản phẩm dành cho thị trường dân sự. Trong nền CNQP Brazil, nhà nước đóng vai trò điều phối trong sản xuất hàng quân sự như một hướng vừa để tiếp thu công nghệ nước ngoài và tự nghiên cứu phát triển nhằm thoả mãn nhu cầu trong nước. Với Brazil, nhập khẩu sản phẩm quân sự là để phát triển và tự chủ công nghệ, nên nhất định phải bao gồm chuyển giao công nghệ. Hiện Brazil là nước sử dụng khá nhiều các sản phẩm vũ khí, trang bị kỹ thuật có nguồn gốc nhập khẩu và được họ nhân bản trên nền tảng chuyển giao công nghệ. Minh chứng cho xu hướng này là chương trình F-X2 đấu thầu mua sắm 36 máy bay tiêm kích cho không quân chiến thuật trị giá 4,5 tỷ USD. Các điều kiện ràng buộc của gói thầu là phải chuyển giao công nghệ để họ tự sản xuất trong nước các loại máy bay này
Xuất khẩu các sản phẩm quốc phòng từ đơn giản đến phức tạp; xuất khẩu để phát triển công nghệ đã tự chủ Nói đến công nghệ hàng không quân sự Brazil, người ta nghĩ ngay đến Công ty Embraer với năng lực nghiên cứu, chế tạo máy bay huấn luyện sơ cấp Super Tucano. Đây là một sản phẩm thành công và khiến thế giới biết tới công nghệ hàng không của nước này
Đầu tư nghiên cứu đột phá vào lĩnh vực công nghệ cao Brazil là một trong số ít các nước công nghiệp có chương trình nghiên cứu không gian của riêng mình. Dù ra đời muộn so với các cường quốc, nhưng họ đầy quyết tâm khi thành lập Agência Espacial Brasileira (AEB) và Instituto de Aeronáutica e Espaço (IAE) từ những năm 1950, 1960. Đây là các tổ chức nghiên cứu không gian phục vụ đa mục đích thuộc Nhà nước Brazil. Lợi thế để Brazil cạnh tranh trên thị trường phóng vệ tinh thương mại là họ có bãi phóng Alcantara nằm ngay đường xích đạo (bảo đảm giá thành phóng thấp nhất).
Vệ tinh Amazonia-1 Chỉnh sửa cuối: 10/9/21
Những tên lửa uy lực nhất thế giới (Tiếp) 7 . Tên lửa DeepStrike của Mỹ
8 . Tên lửa R-36M của Nga
R-36M là tên lửa đường đạn xuyên lục địa, nằm trong số những loại tên lửa nặng nhất và mạnh nhất thế giới. R-36M có tới 6 biến thể với sự khác biệt chủ yếu ở trang bị đầu đạn chiến đấu. Ở phiên bản tiêu chuẩn, R-36M mang đầu đạn hạng nặng đơn nhất có sức công phá 20 đến 25 megaton, tầm bắn đạt 11.200km; đầu đạn đơn khối nhẹ sức công phá 8 megaton, tầm bắn 16.000km; hoặc 10 đầu đạn MIRV với sức công phá mỗi đầu đạn đạt 400 kiloton hay 10 đầu đạn hỗn hợp (4 đầu đạn sức công phá 1 megaton và 6 đầu đạn sức công phá 400 kiloton). Phiên bản tên lửa R-36M2 có chiều dài 32,2m, đường kính l3,05m, được thiết kế để phóng trong các hầm nằm sâu dưới lòng đất. R-36M2 mang tới 10 đầu đạn hạt nhân độc lập với sức công phá từ 550 đến 750 kiloton. Tổng trọng lượng đầu đạn nặng tới 9 tấn. R-36M2 có thể sử dụng như vũ khí điện từ khi cho nổ ở độ cao lớn tạo “sát thương” bằng sóng điện từ và bụi hạt nhân. R-36M rất khó đánh chặn và có khả năng phá hủy một khu vực rộng lớn. Các chuyên gia ước tính, mỗi tên lửa R-36 có thể phá hủy 3 bang của nước Mỹ. Chỉnh sửa cuối: 10/9/21
(Tiếp) 9 . Tên lửa RS-24 Yars của Nga
10. AGM-114B/K/M Hellfire của Mỹ
Tên lửa AGM -114M Hellfire dài 64cm, đường kính 17,8cm, sải cánh 33cm, trọng lượng 45kg. Nó sử dụng đầu nổ HEAT (đạn chống tăng dùng thuốc nổ mạnh) trọng lượng 9kg hoặc MAC (đạn phân mảnh) trọng lượng 8kg. Động cơ tên lửa sử dụng nhiên liệu rắn, tốc độ 425m/giây. Tầm hoạt động từ 500 đến 8.000m. Tên lửa Hellfire có thể được phóng từ 20 loại phương tiện chiến đấu khác nhau như tàu chiến, máy bay không người lái, xe chiến đấu... nhưng nó được trang bị trên trực thăng là chủ yếu. Tên lửa AGM114 Hellfire có thể tiêu diệt tất cả các xe tăng, xe bọc thép hiện có; hoặc diệt cả máy bay trực thăng, máy bay cánh cố định di chuyển chậm; được mệnh danh là “lửa địa ngục”, sử dụng cả trong hải quân đánh bộ, hải quân và lục quân.
Tên lửa chiến dịch - chiến thuật khẳng định vị thế Các tên lửa đường đạn chiến dịch - chiến thuật là vũ khí có giá thành hợp lý, nhưng khi thực chiến - đối đầu với hệ thống phòng không, chúng được xem là thứ “vũ khí chiến lược”. Phòng không đối phương khó đánh chặn Khác với máy bay chiến đấu, tên lửa là vũ khí sử dụng một lần. Cùng thực chiến máy bay dễ bị phòng không đối phương tiêu diệt, còn tên lửa khó bị đánh chặn, nên nó có nhiều cơ hội đưa đầu đạn đến mục tiêu. Sự tổn thất của tên lửa được định sẵn vào thời điểm phóng, còn tổn thất của máy bay có thể bất cứ lúc nào và đi cùng là phi công - vấn đề đau đầu của mọi quốc gia. Mặt khác, tên lửa không phụ thuộc vào thời tiết và không cần phải có các sân bay. Nhược điểm của tên lửa này là độ chính xác thấp và tầm bắn thường ngắn. Thời Chiến tranh Lạnh, tên lửa đường đạn chiến dịch phổ biến và nổi tiếng nhất lá R-17 (Liên Xô) - phương Tây đặt tên là Scud. Nó được xuất khẩu rộng rãi và được nước ngoài sao chép, sử dụng trong cuộc chiến tranh Iran-Iraq (1980-1988). Trong cả cuộc chiến, Iran đã phóng 455 tên lửa vào lãnh thổ Iraq, đáp trả Iraq đã phóng 428 tên lửa. Do độ chính xác thấp, các tên lửa được phóng chủ yếu nhằm vào các thành phố lớn, nên được gọi là “cuộc chiến tranh giữa các thành phố”.
...... Chỉnh sửa cuối: 12/9/21 Page 5
(tiếp) Với phương thức mới này, Bắc Kinh sẽ buộc các nước có tranh chấp biển với Trung Quốc phải căng kéo lực lượng ra để đối phó trong thời gian dài, gây tốn kém, mệt mỏi, dẫn đến buông xuôi và cuối cùng phải chấp nhận cho Trung Quốc vào khai thác chung hoặc khai thác song song… Thực tế, trong năm 2019, chiến thuật này đã được Bắc Kinh triển khai mạnh mẽ trên khắp Biển Đông. Cụ thể, từ ngày 3 tháng 7 đến 23 tháng 10, tàu khảo sát Hải Dương địa chất 8 của Trung Quốc được 22 đến 40 tàu (hải cảnh, hải giám, dân binh) hộ tống trực tiếp và 2 đến 3 tàu hải quân hộ tống từ xa đã 4 lần xâm phạm vùng biển Việt Nam và khảo sát trái phép tại bãi Tư Chính nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế (EEZ), thuộc khu vực thềm lục địa phía Nam của Việt Nam. Trong đó khảo sát trái phép tại bãi Tư Chính 3 lần: lần 1, từ ngày 3 tháng 7 đến ngày 7 tháng 8; lần 2, từ 13 tháng 8 đến 2 tháng 9; lần 3, từ ngày 7 đến 23 tháng 9. Tại khu vực vùng biển Nam Trung bộ 1 lần (lần 4: dọc bờ biển từ Nam Quảng Ngãi đến Khánh Hòa), từ ngày 28 tháng 9 đến 23 tháng 10.
b. Ngoại giao Ngoại giao, Trung Quốc cũng lớn tiếng đe dọa Mỹ và các nước khu vực tại Đối thoại Shangri-la 2019; thẳng thừng bác bỏ lập trường của Philippines khi ông Duterte nhắc lại phán quyết của Tòa Trọng tài quốc tế về Biển Đông; gây sức ép lên các quốc gia thành viên ASEAN khiến Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao lần thứ 52 của tổ chức này diễn ra tại Bangkok phải tìm cách né tránh vấn đề Biển Đông khi ra tuyên bố chung. Các dẫn chứng trên cho thấy, Trung Quốc ngày càng hung hăng, khiêu khích ở Biển Đông, sẵn sàng dùng “cơ bắp” để đạt được lợi ích lãnh thổ.c. Khai thác tài nguyên khoáng sản ở Biển Đông Trung Quốc một mặt đẩy mạnh các hoạt động thăm dò, khai thác tài nguyên khoáng sản, dầu khí ở Biển Đông, bao gồm tiếp tục hỗ trợ, đầu tư cho ngư dân đánh bắt, nuôi trồng hải sản trên biển, nhất là tại các vùng biển tồn tại tranh chấp ở quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và bãi cạn Scarborough mà Trung Quốc gọi là Hoàng Nham. Mặt khác, Trung Quốc tiếp tục áp đặt các lệnh cấm đánh bắt cá đơn phương hằng năm trên biển, đồng thời gia tăng các hoạt động tuần tra, giám sát, bắt giữ, xua đuổi tàu cá các nước khác, vốn hoạt động hợp pháp trong các ngư trường truyền thống của họ. Bộ Nông nghiệp Trung Quốc hằng năm thường đơn phương ra thông báo ngừng đánh cá từ 12 giờ ngày 01 tháng 5 đến 12 giờ ngày 16 tháng 8 trên vùng biển từ 12 độ vĩ Bắc đến đường giao giới vùng biển Phúc Kiến - Quảng Đông, kể cả vịnh Bắc Bộ và vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam. Bên cạnh đó, Trung Quốc còn tiếp tục gia tăng các hoạt động ngăn cản các nước ven Biển Đông hợp tác khai thác dầu khí với nước ngoài.d. Nghiên cứu Biển Đông Trung Quốc tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu về Biển Đông. Nước này đã thành lập thêm các Trung tâm nghiên cứu khoa học tổng hợp về biển cấp quốc gia nhằm mở rộng giao lưu hợp tác biển giữa Trung Quốc và ASEAN, thúc đẩy phát triển kinh tế biển và góp phần xây dựng đại chiến lược “Vành đai và Con đường”. Mặt khác, Trung Quốc cũng dùng chính những hoạt động nghiên cứu khoa học này để bao biện cho các tuyên bố chủ quyền của mình trên Biển Đông. Cùng với việc đẩy mạnh các hoạt động trên thực địa và củng cố chứng cứ pháp lý nhằm khẳng định chủ quyền phi pháp ở Biển Đông, Trung Quốc tiếp tục tuyên truyền về biển, đảo một cách nhất quán, thống nhất từ trung ương đến địa phương. Nội dung tuyên truyền của Trung Quốc tiếp tục xoay quanh việc tự bao biện cho cái gọi là “chủ quyền” và hành động phi pháp ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trên Biển Đông, tìm cách chỉ trích, đổ lỗi cho các nước khác gây căng thẳng trong khu vực và mua chuộc, lôi kéo, thậm chí là ép buộc các nước ủng hộ Trung Quốc. Bắc Kinh vẫn tập trung sử dụng cơ quan truyền thông đại chúng chẳng hạn như các cơ quan thông tấn, truyền thông và báo chí như Tân Hoa xã, Phượng Hoàng, Hoàn Cầu, Sina, Sohu… để đưa tin, hình ảnh, bài viết cập nhật về các hoạt động được gọi là “bảo vệ chủ quyền biển đảo” của quân, dân Trung Quốc trong năm 2019. Trong đó, có nhiều trang chính thống và phi chính thống như diễn đàn quân sự, diễn đàn Nam Hải… chuyên đăng các thông tin liên quan tới Biển Đông nhằm tuyên truyền về vấn đề “chủ quyền”, kích động tinh thần dân tộc và phát tán các thông tin xuyên tạc sự thật khiến người dân Trung Quốc và cộng đồng quốc tế ngộ nhận về “chủ quyền không thể tranh cãi” của Trung Quốc. Cùng với đó, Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng, Bộ Ngư nghiệp, Văn phòng Quốc vụ Viện và Cục Hải dương quốc gia Trung Quốc tiếp tục là những cơ quan đầu não trong việc tuyên truyền về chủ quyền biển đảo của Trung Quốc. Chính phủ Trung Quốc, các viện nghiên cứu, trường đại học, hãng phim truyền hình… sẽ tiếp tục xuất bản nhiều ấn phẩm văn hóa liên quan tới vấn đề Biển Đông, tích cực thông qua các hoạt động du lịch của người dân để tuyền truyền, khẳng định chủ quyền của nước này ở Biển Đông.
Hiện nay, các lực lượng hải quân thường trực trong khu vực vẫn tiếp tục tăng, các công ty đóng tàu, bảo dưỡng và sửa chữa tàu ở châu Á-TBD đang mở rộng danh mục vốn đầu tư để xây dựng và hiện đại hóa tàu thuyền hải quân của khu vực. Page 6
NGUỒN LỰC VÀ CÔNG NGHỆ CHO HIỆN ĐẠI HÓA QUÂN ĐỘI
Mục tiêu Khoa học và Công nghệ Hỗ trợ Hiện đại hóa Quân đội
Sở hữu công nghệ nước ngoài
MQ-9 (Mỹ) và UAV CH-5 (TQ) Chỉnh sửa cuối: 6/8/21
Bối cảnh các Tranh chấp lãnh thổ của Trung Quốc Việc Trung Quốc sử dụng vũ lực trong các tranh chấp lãnh thổ đã rất khác nhau kể từ năm 1949. Một số tranh chấp dẫn đến chiến tranh, như trong các cuộc xung đột biên giới với Ấn Độ năm 1962 và Việt Nam năm 1979. Tranh chấp biên giới của Trung Quốc với Liên Xô trong những năm 1960 làm tăng khả năng xảy ra chiến tranh hạt nhân. Trong những trường hợp gần đây liên quan đến tranh chấp biên giới trên bộ, Trung Quốc đôi khi sẵn sàng thỏa hiệp và thậm chí nhượng bộ các nước láng giềng. Kể từ năm 1998, Trung Quốc đã giải quyết 11 tranh chấp lãnh thổ trên đất liền với 6 nước láng giềng. Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã áp dụng cách tiếp cận mang tính cưỡng bức hơn để giải quyết tranh chấp một số thực thể trên biển và quyền sở hữu các mỏ dầu khí giàu tiềm năng ngoài khơi.
Lực lượng an ninh nội địa Trung Quốc Lực lượng an ninh nội địa của Trung Quốc chủ yếu bao gồm Bộ Công an (MPS), Bộ An ninh Quốc gia (MSS), Cảnh sát Vũ trang Nhân dân (Vũ cảnh), quân đội và dân quân. ĐCSTQ dựa vào những lực lượng này để giải quyết các thách thức từ các cuộc biểu tình về các vấn đề chính trị, xã hội, môi trường hoặc kinh tế, đến khủng bố và thiên tai. Ví dụ: vào năm 2019, lực lượng an ninh nội địa của Trung Quốc ở Tân Cương đã giám sát việc giam giữ trên diện rộng người Duy Ngô Nhĩ tại các trại tạm giam, giám sát hàng loạt, trấn áp các hoạt động tôn giáo và khám xét tài sản cá nhân. Năm 2019, Trung Quốc đã triển khai Lực lượng Vũ cảnh ở Thâm Quyến và có thể ở Hồng Kông để hỗ trợ lực lượng quân đội đóng ở đây đối phó với các cuộc biểu tình. Sách trắng quốc phòng năm 2019 của Trung Quốc tuyên bố rằng kể từ năm 2012, nước này đã triển khai 950.000 binh sĩ quân đội và lực lượng vũ cảnh cùng 1,41 triệu dân quân để ứng phó khẩn cấp trong nước và cứu trợ thảm họa. Bộ Công an (BCA). BCA lãnh đạo cảnh sát dân sự quốc gia của Trung Quốc, đóng vai trò là lực lượng tuyến đầu về trật tự công cộng. Nhiệm vụ chính của BCA là thực thi pháp luật trong nước và “duy trì trật tự và an ninh xã hội” với các nhiệm vụ bao gồm chống bạo loạn và chống khủng bố. Bộ An ninh Quốc gia (ANQG). Bộ ANQG là cơ quan phản gián và tình báo dân sự chính của Trung Quốc. Nhiệm vụ của Bộ này là bảo vệ an ninh quốc gia của Trung Quốc; bảo đảm ổn định chính trị, xã hội; thực hiện Luật An ninh Quốc gia và các luật, quy định liên quan; bảo vệ bí mật nhà nước; tiến hành hoạt động phản gián; và điều tra các tổ chức hoặc người dân bên trong Trung Quốc thực hiện hoặc chỉ đạo, hỗ trợ hoặc viện trợ cho những người khác được xác định là gây tổn hại đến an ninh quốc gia.
SỨ MỆNH, NHIỆM VỤ VÀ VIỆC HIỆN ĐẠI HÓA QUÂN ĐỘI TRUNG QUỐC TRONG “KỶ NGUYÊN MỚI” • Với một lực lượng khoảng 02 triệu quân thường trực, Quân đội Trung Quốc đã tìm cách hiện đại hóa sức mạnh và cải thiện năng lực của mình trên tất cả các lĩnh vực tác chiến để như một lực lượng liên quân, họ có thể tiến hành các chiến dịch trên bộ, trên không và trên biển cũng như trên vũ trụ, chống vũ trụ, tác chiến điện tử (EW) và tác chiến không gian mạng. • Các khả năng và khái niệm đang phát triển của Quân đội Trung Quốc tiếp tục củng cố năng lực của Bắc Kinh trong việc chống lại sự can thiệp của bên thứ ba trong một cuộc xung đột dọc theo vùng ngoại vi và tung phóng sức mạnh của Trung Quốc trên toàn cầu. • Năm 2019, Quân đội Trung Quốc tiếp tục đạt được tiến bộ trong việc thực hiện các cải cách cơ cấu lớn, hoàn thiện các hệ thống bản địa hiện đại, xây dựng năng lực sẵn sàng chiến đấu và tăng cường khả năng tiến hành các chiến dịch liên quân. • Trung Quốc đã đạt được vị thế ngang bằng - hoặc thậm chí vượt xa - Mỹ trong một số lĩnh vực hiện đại hóa quân sự, bao gồm đóng tàu, tên lửa hành trình và đường đạn thông thường phóng từ trên bộ cũng như các hệ thống phòng không tích hợp. Những phát triển trong cải cách và hiện đại hóa Quân đội Trung Quốc Chiến lược phục hưng dân tộc Trung Hoa đòi hỏi phải củng cố và điều chỉnh các lực lượng vũ trang của mình theo xu hướng lâu dài trong các vấn đề quân sự toàn cầu và đáp ứng nhu cầu an ninh quốc gia đang phát triển của đất nước. Trong suốt hai thập kỷ qua, Trung Quốc đã đầu tư và cải thiện khả năng của quân đội nước này nhằm giải quyết một loạt các mục tiêu an ninh ngoài việc tiếp tục nhấn mạnh vào các biến cố ở Đài Loan. Các khả năng và khái niệm đang phát triển của Quân đội Trung Quốc tiếp tục củng cố năng lực của Bắc Kinh trong việc chống lại sự can thiệp của một bên thứ ba trong một cuộc xung đột dọc theo vùng ngoại vi của Trung Quốc, tung phóng sức mạnh trên toàn cầu và răn đe tiến công hạt nhân. Với một lực lượng tổng cộng khoảng hai triệu quân trong các đơn vị chính quy, Quân đội Trung Quốc đã tìm cách hiện đại hóa và cải thiện khả năng của mình trên tất cả các môi trường tác chiến để với tư cách là một lực lượng liên quân, họ có thể tiến hành các chiến dịch trên bộ, trên không và trên biển như cũng như trên vũ trụ, chống vũ trụ, tác chiến điện tử (EW) và tác chiến không gian mạng. Trung Quốc đã đạt được vị thế ngang bằng - hoặc thậm chí vượt Mỹ trong một số lĩnh vực hiện đại hóa quân sự, bao gồm đóng tàu, tên lửa hành trình và đường đạn trên bộ, cũng như hệ thống phòng không tích hợp. Nhận thức rằng các chiến dịch liên quân, dòng chảy thông tin và ra quyết định nhanh chóng là yếu tố quan trọng trong chiến tranh hiện đại, Trung Quốc tiếp tục đặt ưu tiên cao vào việc hiện đại hóa khả năng của quân đội trong chỉ huy các chiến dịch liên quân phức tạp ở các chiến trường gần và xa. Trung Quốc đang tìm cách tăng cường các hệ thống chỉ huy và kiểm soát liên quân, hệ thống hậu cần liên quân và hệ thống chỉ huy, kiểm soát, thông tin liên lạc, máy tính, tình báo, giám sát và trinh sát (C4ISR) của quân đội. Trung Quốc cũng đang hiện đại hóa, đa dạng hóa và mở rộng các lực lượng hạt nhân cũng như tăng cường khả năng tương tác và tích hợp của quân đội với các lực lượng bán quân sự và dân quân. Trong những năm gần đây, những nỗ lực của ĐCSTQ nhằm củng cố các lực lượng vũ trang của mình cũng bao gồm việc tiến hành cải cách toàn diện nhất các cơ cấu chỉ huy và kiểm soát, cấu trúc lực lượng và cơ quan hành chính. Những cải cách này giúp củng cố quyền kiểm soát của ĐCSTQ đối với quân đội, cải thiện khả năng của quân đội trong việc tiến hành các chiến dịch liên quân, tăng hiệu quả tác chiến và giải quyết các vấn đề lâu dài như tham nhũng và ưu thế của lục quân so với các quân chủng khác.
Hiện trạng của các mốc năm 2020 (Cơ giới hóa và Cải cách) Mặc dù Quân đội Trung Quốc tiếp tục đạt được tiến bộ trong các mục tiêu hiện đại hóa và cải cách trong suốt năm 2019, nhưng lực lượng này có thể không thể đạt được một số mốc quan trọng mà họ đã lên kế hoạch đạt được vào năm 2020. Trong số các mục tiêu hiện đại hóa của Quân đội Trung Quốc do lãnh đạo ĐCSTQ đặt ra có mục tiêu “về cơ bản đạt cơ giới hóa”vào năm 2020. Tuy nhiên, Sách trắng quốc phòng năm 2019 của Trung Quốc lưu ý rằng quân đội nước này “vẫn chưa hoàn thành nhiệm vụ cơ giới hóa”, cho thấy rằng họ cũng khó đạt được mục tiêu này vào cuối năm 2020. Ngoài ra, các quan chức Quân đội Trung Quốc đã chỉ ra rằng giai đoạn thứ ba (và cuối cùng) của cải cách quân đội sẽ diễn ra vào năm 2021 hoặc 2022. Thời gian biểu ban đầu của Trung Quốc từ cuối năm 2015 để hoàn thành các cải cách của Quân đội Trung Quốc chỉ ra rằng năm 2020 là mục tiêu hoàn thành. Các tham chiếu đến năm 2021 hoặc 2022 có thể ngụ ý quân đội còn chậm một hoặc hai năm trong việc hoàn thành các cải cách của mình. Cả hai năm này đều có ý nghĩa quan trọng đối với ĐCSTQ. Đảng đặt mục tiêu cho Trung Quốc đạt được mục tiêu “xã hội khá giả” của mình trước kỷ niệm 100 năm thành lập ĐCSTQ vào năm 2021. ĐCSTQ cũng sẽ tổ chức Đại hội Đảng lần thứ 20 vào năm 2022.
NĂNG LỰC QUÂN SỰ CHO A2/AD BÊN TRONG CHUỖI ĐẢO THỨ NHẤT
Tiến công chính xác tầm xa. Hiện đại hóa quân sự đã dẫn đến sự chuyển đổi nhanh chóng của lực lượng tên lửa của Quân đội Trung Quốc. Các căn cứ của Mỹ tại Nhật Bản nằm trong phạm vi ngày càng tăng của các MRBM và LACM của Trung Quốc. Các chuyến bay của máy bay ném bom H-6K vào Tây Thái Bình Dương chứng tỏ khả năng của Trung Quốc trong việc vươn tới đảo Guam bằng các LACM phóng từ trên không. Tên lửa DF-26, ra mắt công khai vào năm 2015 và có trong cuộc duyệt binh của Trung Quốc năm 2017, với khả năng tiến hành các cuộc tiến công hạt nhân hoặc thông thường chính xác nhằm vào những mục tiêu mặt đất, bao gồm số căn cứ của Mỹ trên đảo Guam. Các bài viết của Quân đội Trung Quốc coi trang bị hậu cần và tung phóng sức mạnh là những lỗ hổng tiềm ẩn trong chiến tranh hiện đại - một nhận định phù hợp với năng lực ngày một tăng trong việc đặt các căn cứ không quân khu vực, các cơ sở hậu cần, bến cảng, thiết bị thông tin liên lạc và cơ sở hạ tầng trên mặt đất khác vào vòng rủi ro.
Phòng thủ tên lửa đường đạn (BMD). Trung Quốc đang nghiên cứu để phát triển hệ thống phòng thủ tên lửa đường đạn bao gồm các tên lửa đánh chặn động năng ngoài tầng khí quyển và nội khí quyển. Vào năm 2016, các phương tiện truyền thông chính thức khẳng định ý định của Trung Quốc là đi trước với các khả năng phòng thủ tên lửa giai đoạn giữa trên bộ và trên biển. Tên lửa đánh chặn giai đoạn giữa HQ-19 đã trải qua các cuộc thử nghiệm để xác minh khả năng chống lại tên lửa đường đạn tầm 3.000 km và một đơn vị HQ-19 có thể đã bắt đầu hoạt động sơ bộ ở miền Tây Trung Quốc. Các radar bản địa bao gồm JY-27A và JL-1A - loại sau này được quảng cáo là có khả năng theo dõi chính xác nhiều tên lửa đường đạn - cung cấp khả năng phát hiện mục tiêu cho hệ thống. Kho tên lửa phòng không (SAM) tầm xa của Quân đội Trung Quốc cũng cung cấp khả năng nhất định chống lại tên lửa đường đạn. Hệ thống SAM tầm xa CSA-9 (HQ-9) bản địa của Trung Quốc có khả năng nhất định trong việc tạo ra năng lực phòng thủ điểm trước tên lửa đường đạn chiến thuật. Trung Quốc đã trang bị các SAM SA-20 (S-300 PMU2), và các SAM SA-21 (S-400) có thể có khả năng chống tên lửa đường đạn, tùy thuộc vào các tên lửa đánh chặn và cơ sở hạ tầng hỗ trợ.
Hoạt động trên bề mặt biển và ngầm dưới biển. Trung Quốc tiếp tục phát triển một loạt các khả năng tiến công và phòng thủ để cho phép quân đội nước này giành ưu thế trên biển trong Chuỗi đảo thứ nhất - các đảo chạy từ Kurils, qua Đài Loan, đến Borneo, bao gồm Hoàng Hải, Biển Hoa Đông và Biển Đông - và phát triển theo hướng triển khai có giới hạn sức mạnh tác chiến ở tầm xa hơn. Số lượng lớn các ASCM và bệ phóng của Trung Quốc cũng như ngư lôi phóng từ tàu ngầm và thủy lôi hải quân cho phép HQTQ tạo ra mối đe dọa chống tiếp cận ngày càng nguy hiểm chống lại kẻ thù đang tiếp cận vùng biển và khu vực hoạt động của Trung Quốc. Ngoài ra, Quân đội Trung Quốc đã triển khai các ASBM CSS-5 được thiết kế đặc biệt để đặt các tàu sân bay đối phương vào vòng rủi ro khi ở cách xa bờ biển Trung Quốc 1.500 km và lực lượng này có một biến thể ASBM tầm xa hơn là IRBM DF-26. Khả năng tác chiến ngầm dưới biển của Quân đội Trung Quốc cũng đang dần được cải thiện, nhưng lực lượng này vẫn tiếp tục thiếu khả năng tác chiến chống tàu ngầm nước sâu mạnh. Trung Quốc đang lắp đặt các hệ thống giám sát dưới biển, hệ thống này có thể nâng cao hiểu biết của Trung Quốc về môi trường dưới biển. Vẫn chưa rõ liệu quân đội nước này có thể thu thập thông tin chỉ thị mục tiêu chính xác và kịp thời chuyển nó để khởi động các bệ phóng cho các cuộc tiến công thành công ở các vùng biển ngoài chuỗi đảo thứ nhất hay không.
Chiến tranh Thông tin (IO). Trung Quốc đánh giá rằng việc kiểm soát phổ thông tin trong không gian chiến trường hiện đại là một yếu tố quan trọng, nếu không muốn nói là điều kiện tiên quyết chính, trong khả năng chống lại sự can thiệp của bên thứ ba vào một cuộc xung đột. Các tác giả của Quân đội Trung Quốc thường viện dẫn khả năng này - đôi khi được gọi là "phong tỏa thông tin" hoặc "thống trị thông tin" - là cần thiết để giành thế chủ động và đặt ra các điều kiện cần thiết để giành được ưu thế trên không và trên biển. Khái niệm "phong tỏa thông tin" này có thể hình dung việc kết hợp các khả năng quân sự trong các lĩnh vực vũ trụ và mạng với các công cụ phi quân sự của quyền lực nhà nước. Đầu tư của Trung Quốc vào các hệ thống tác chiến điện tử (EW) tiên tiến, khả năng đối phó và hoạt động không gian mạng - kết hợp với các hình thức kiểm soát thông tin truyền thống hơn, chẳng hạn như tuyên truyền và phủ nhận thông qua sự không minh bạch - phản ánh mức độ ưu tiên mà Quân đội Trung Quốc dành cho ưu thế thông tin.
Vũ trụ và chống vũ trụ. Các chiến lược gia của Quân đội Trung Quốc coi khả năng sử dụng các hệ thống dựa trên vũ trụ - và từ chối chúng trước kẻ thù - là trọng tâm của chiến tranh hiện đại. Bắc Kinh tiếp tục tăng cường khả năng quân sự trong vũ trụ, bất chấp lập trường công khai chống lại việc quân sự hóa vũ trụ. Quân đội Trung Quốc coi các hoạt động trong vũ trụ như một yếu tố chính của các chiến dịch nhằm chống lại sự can thiệp của bên thứ ba, mặc dù nhiều bài viết của lực lượng này đã không nâng các hoạt động như vậy lên cấp độ của một “chiến dịch” riêng lẻ. Trung Quốc tìm cách tăng cường chỉ huy và điều khiển trong tác chiến liên hợp và thiết lập một hệ thống giám sát, trinh sát và cảnh báo thời gian thực, đồng thời nước này đang tăng cường số lượng và khả năng của các hệ thống vũ trụ của mình, bao gồm các vệ tinh liên lạc và tình báo khác nhau cũng như hệ thống vệ tinh dẫn đường Beidou. Trung Quốc cũng tiếp tục phát triển các khả năng trong vũ trụ và các công nghệ liên quan, bao gồm tên lửa diệt động năng, laser đặt trên mặt đất và rô bốt vũ trụ quay quanh quỹ đạo, cũng như tăng cường khả năng giám sát vũ trụ, có thể giám sát các đối tượng trên toàn cầu và trong vũ trụ và cho phép thực hiện các hành động chống vũ trụ.
Hoạt động không gian mạng. Các nhà nghiên cứu của Quân đội Trung Quốc tin rằng cần phải xây dựng các năng lực mạng mạnh để bảo vệ các mạng của Trung Quốc và ủng hộ việc giành “ưu thế không gian mạng” bằng cách sử dụng các hoạt động tiến công mạng để ngăn chặn hoặc làm suy giảm khả năng tiến hành các hoạt động quân sự chống lại Trung Quốc của đối thủ. Các bài viết của Trung Quốc cho rằng các chiến dịch không gian mạng cho phép Trung Quốc quản lý sự leo thang xung đột vì các cuộc tiến công mạng là một biện pháp răn đe chi phí thấp. Các bài viết cũng gợi ý rằng các cuộc tiến công mạng thể hiện khả năng và quyết tâm trước kẻ thù. Để hỗ trợ A2/ AD, các chiến dịch tiến công mạng của Trung Quốc nhằm vào các nút quân sự và dân sự quan trọng để ngăn chặn hoặc phá vỡ sự can thiệp của đối phương, đồng thời duy trì tùy chọn mở rộng các cuộc tiến công này để đạt được các điều kiện mong muốn với chi phí chiến lược tối thiểu. Trung Quốc tin rằng năng lực mạng và nhân sự mạng của họ tụt hậu so với Mỹ, và họ đang nỗ lực cải thiện huấn luyện và thúc đẩy đổi mới trong nước để khắc phục những khiếm khuyết mà họ đã nhận ra này và thúc đẩy các hoạt động trong không gian mạng.
Hệ thống Phòng không Tích hợp (IADS).
YJ-12 Chỉnh sửa cuối: 1/7/21
LỤC QUÂN TRUNG QUỐC (LQTQ) • LQTQ là lực lượng thường trực lớn nhất thế giới, với khoảng 915.000 quân đang biên chế trong các đơn vị chiến đấu. • Vào năm 2019, LQTQ tiếp tục chuyển đổi thành một lực lượng mặt đất hiện đại, cơ động và hiệu quả tác chiến cao hơn thông qua trang bị các hệ thống chiến đấu nâng cấp và tích hợp thiết bị liên lạc và các công nghệ khác. Việc hiện đại hóa của LQTQ nhằm cải thiện khả năng tiến hành các chiến dịch liên quân trong một cuộc xung đột cường độ cao và tung phóng sức mạnh ở nước ngoài. • Năm 2019, LQTQ tiếp tục tạo ra và hoàn thiện các đội hình ở cấp thấp hơn linh hoạt hơn về mặt tác chiến và phù hợp hơn để tiến hành và điều hành các chiến dịch liên quân và binh chủng hợp thành. • Năm 2019, LQTQ đã thể hiện sự cải thiện đáng kể trong huấn luyện ở cả cấp quân chủng và cấp liên quân và lực lượng này tiếp tục áp dụng các phương pháp huấn luyện thực tế hơn.
Cơ cấu và Tổ chức Lực lượng. Năm 2019, LQTQ tiếp tục tạo ra và hoàn thiện các đội hình ở cấp thấp hơn linh hoạt hơn về mặt tác chiến và phù hợp hơn để tiến hành và quản lý các chiến dịch liên quân và binh chủng hợp thành phức tạp. Lực lượng của LQTQ được tổ chức thành 05 Bộ tư lệnh chiến khu, Bộ chỉ huy Tân Cương và Bộ chỉ huy Tây Tạng. LQTQ hiện đã tiêu chuẩn hóa 13 tập đoàn quân của mình (gần tương đương cấp quân đoàn của Mỹ), giảm số lượng từ 18 vào năm 2017 như một phần trong nỗ lực giảm quy mô và hợp lý hóa cơ cấu lực lượng của LQTQ. Mỗi tập đoàn quân hiện bao gồm nhiều lữ đoàn binh chủng hợp thành. Tổng cộng, 78 lữ đoàn binh chủng hợp thành này đóng vai trò là lực lượng cơ động chính của LQTQ. Các lữ đoàn này khác nhau về quy mô và thành phần.
Khả năng và Hiện đại hóa. Quá trình hiện đại hóa của LQTQ tiếp tục chú trọng vào việc nâng cấp phương tiện và vũ khí phù hợp với các ưu tiên hiện đại hóa tổng thể của Quân đội Trung Quốc và hướng dẫn của QUTW. Tuy nhiên, Sách trắng quốc phòng năm 2019 của Trung Quốc lưu ý rằng quân đội nước này “vẫn chưa hoàn thành nhiệm vụ cơ giới hóa”, ngụ ý rằng việc hoàn thành cơ giới hóa vào cuối năm 2020 là không thể. Các nhà quan sát phương Tây đã nói rằng mục tiêu cơ giới hóa của ĐCSTQ chủ yếu liên quan đến lực lượng lục quân và chỉ ra những thách thức trong việc hiện đại hóa LQTQ dựa trên quy mô tổng thể của lực lượng này. Ví dụ: trang bị trong các đơn vị bộ binh của LQTQ khác nhau và có thể bao gồm sự kết hợp của các trang bị lỗi thời từ những năm 1960 cho đến một số trang bị hiện đại và có khả năng nhất của khu vực. Tương tự, các đơn vị thiết giáp của LQTQ bao gồm nhiều loại xe tăng kế thừa và xe tăng chiến đấu chủ lực thế hệ thứ ba được hiện đại hóa. Bất chấp tham vọng hiện đại hóa của Quân đội Trung Quốc và khả năng phát triển trang bị hiện đại cho lực lượng trên bộ đã được chứng minh, LQTQ vẫn phải đối mặt với những thách thức trong việc mua và cung cấp thiết bị mới với số lượng đủ để loại bỏ các thiết bị cũ của mình, mặc dù họ vẫn tiếp tục đạt được tiến bộ trong lĩnh vực này.
Sẵn sàng chiến đấu. Sau hai năm tập trung vào thực hiện tái cơ cấu lực lượng đáng kể, LQTQ bắt đầu chuyển trọng tâm sang huấn luyện binh chủng hợp thành và liên quân vào năm 2019. LQTQ tăng cường tham gia chuỗi các cuộc tập trận binh chủng hợp thành STRIDE 2019, bao gồm nhiều giai đoạn tại các căn cứ huấn luyện ở Zhurihe, Queshan, Sanjie, và Taonan. Nhiều đơn vị LQTQ đã tham gia vào các cuộc tập trận STRIDE 2019 hơn so với STRIDE 2018. LQTQ tiếp tục sử dụng tần suất cao Căn cứ Huấn luyện Liên hợp Zhurihe để mô phỏng cuộc xung đột đối kháng cường độ cao, sát thực tế và cung cấp một địa điểm để thực hành tích hợp không – bộ. Căn cứ Huấn luyện Liên hợp Zhurihe có thể so sánh với Trung tâm Huấn luyện Quốc gia của quân đội Mỹ tại Fort Irwin, California, với một không gian cơ động rộng, một lực lượng đối lập chuyên dụng và một khu vực huấn luyện địa hình đô thị.
Việc LQTQ tham gia cuộc tập trận quân sự cấp quốc gia TSENTR-19 của Nga vào tháng 9/2019 cho thấy lực lượng này tiếp tục ưu tiên huấn luyện binh chủng hợp thành với các đối tác trong khu vực cũng như cải thiện khả năng chống khủng bố của mình. Bên cạnh các cuộc tập trận đã nêu, LQTQ tiếp tục sử dụng công nghệ mô phỏng huấn luyện để đưa vào các kịch bản thực tế ảo và mô phỏng cấp tiểu đoàn để tăng tần suất huấn luyện và cải thiện kỹ năng. Các đơn vị của LQTQ thực hiện cách tiếp cận có hệ thống để huấn luyện và làm quen khi tích hợp các hệ thống chiến thuật và thiết bị quân sự mới vào các đội hình cấp dưới trước khi thử nghiệm chúng trong các kịch bản diễn tập huấn luyện.
Hay, cụ chủ làm thêm 1 thớt về phát triển công nghệ quân sự của hàng xóm, như trong thớt này đã đề cập 1 ít
HẢI QUÂN TRUNG QUỐC (HQTQ)
Tàu ngầm. Ưu tiên hàng đầu của Hải quân Trung Quốc vẫn là hiện đại hóa lực lượng tàu ngầm. HQTQ hiện đang vận hành 4 tàu ngầm mang tên lửa đường đạn chạy bằng năng lượng hạt nhân (SSBN) với thêm 02 tàu nữa đang được hoàn thiện, 6 tàu ngầm tiến công chạy bằng năng lượng hạt nhân (SSN) và 50 tàu ngầm tiến công chạy bằng động cơ diesel (SS). HQTQ có thể sẽ duy trì từ 65 đến 70 tàu ngầm cho đến những năm 2020, thay thế các đơn vị cũ hơn bằng các đơn vị có năng lực hơn trên cơ sở gần như một đổi một.
Tới giữa những năm 2020, Trung Quốc đóng tàu ngầm tiến công hạt nhân mang tên lửa dẫn đường Type 093B. Biến thể lớp Thương mới này sẽ nâng cao khả năng tác chiến hải đối bờ của HQTQ và có thể cung cấp một lựa chọn tiến công mặt đất bí mật nếu được trang bị tên lửa hành trình tiến công mặt đất (LACM). HQTQ cũng đang cải thiện khả năng tác chiến chống ngầm của mình thông qua việc phát triển các tàu tác chiến mặt nước và máy bay nhiệm vụ đặc biệt, nhưng họ vẫn tiếp tục thiếu năng lực tác chiến chống ngầm nước sâu (ASW) mạnh.
Tàu chiến mặt nước. HQTQ vẫn tham gia vào một chương trình đóng tàu quy mô lớn cho lực lượng tác chiến mặt nước, đóng các tàu tuần dương mang tên lửa dẫn đường (CG) mới, tàu khu trục mang tên lửa dẫn đường (DDG) và tàu hộ tống (FFL). Những tàu này sẽ củng cố đáng kể khả năng phòng không, chống hạm và chống tàu ngầm của HQTQ và sẽ rất quan trọng khi HQTQ mở rộng hoạt động của mình ra ngoài phạm vi của các hệ thống phòng không trên bờ. Tháng 12/2019, Trung Quốc đã hạ thủy tàu tuần dương lớp Renhai thứ sáu (Type 055) và dự kiến đưa vào hoạt động chiếc đầu tiên của lớp này vào đầu năm 2020. Khi đi vào hoạt động, tàu Renhai sẽ mang theo một lượng vũ khí lớn bao gồm tên lửa hành trình chống hạm (ASCM), tên lửa đất đối không (SAMs), và vũ khí chống tàu ngầm cùng với LACM và tên lửa đường đạn chống hạm (ASBM). Cuối năm 2019, Trung Quốc đã biên chế 23 tàu khu trục lớp Lữ Giang (Luyang) III - bao gồm 10 chiếc lớp Lữ Giang III cải tiến - với 13 trong số 23 tàu đang trong biên chế của HQTQ. Cả các tàu lớp Lữ Giang III tiêu chuẩn và Lữ Giang III cải tiến đều có hệ thống phóng thẳng đứng đa năng 64 ô có khả năng phóng tên lửa hành trình, SAM và tên lửa chống ngầm.
Với việc HQTQ tiếp tục chuyển đổi thành một lực lượng đa nhiệm toàn cầu, việc bổ sung các khả năng tiến công trên bộ vào hàng loạt khả năng phòng không và đối đất hiện đại của lực lượng này là bước tiếp theo hợp lý. Trong những năm tới, HQTQ có thể sẽ trang bị LACM trên các tàu tuần dương và khu trục hạm mới hơn và các tàu ngầm tiến công hạt nhân Type 093B đang phát triển. HQTQ cũng có thể trang bị thêm cho các tàu chiến và tàu ngầm cũ hơn của mình khả năng tiến công mặt đất. Việc bổ sung khả năng tiến công mặt đất cho các tàu chiến mặt nước và tàu ngầm của HQTQ sẽ cung cấp cho Quân đội Trung Quốc các phương án tiến công tầm xa linh hoạt. Điều này sẽ cho phép Trung Quốc đặt các mục tiêu trên đất liền kể cả bên ngoài khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương vào vòng nguy hiểm. Chỉnh sửa cuối: 13/7/21
Tàu tác chiến đổ bộ. Đầu tư của Trung Quốc vào các tàu tiến công đổ bộ chở theo máy bay trực thăng (LHA) cho thấy ý định tiếp tục phát triển khả năng tác chiến viễn chinh của Bắc Kinh. Năm 2019, Trung Quốc đã hạ thủy chiếc LHA lớp Yushen đầu tiên (Type 075) và chiếc LHA lớp Yushen thứ hai đang được đóng với thêm các tàu nữa dự kiến trong những năm 2020. Lớp Yushen là những tàu đổ bộ sàn lớn có khả năng hoạt động cao, sẽ cung cấp cho HQTQ khả năng viễn chinh toàn diện. Các tàu lớp Yushen có thể chở một số lượng lớn tàu đổ bộ, binh sĩ, xe bọc thép và máy bay trực thăng. Ngoài ra, HQTQ còn có 7 tàu đốc vận tải đổ bộ lớn (LPD) lớp Yuzhao (Type 071), với chiếc thứ 8 dự kiến sẽ đi vào hoạt động trong năm 2020. So với các tàu đổ bộ cũ, các LPD lớp Yuzhao và LHA lớp Yushen cung cấp cho Quân đội Trung Quốc năng lực vận tải, độ bền và tính linh hoạt cao hơn cho các hoạt động tầm xa của HQTQ, vốn đã giảm số lượng trong thập kỷ qua với các tàu lỗi thời được cho ngừng hoạt động. Các tàu Yushen và Yuzhao đều có thể mang theo một số xuồng đổ bộ đệm khí hạng trung lớp Yuyi mới và nhiều loại máy bay trực thăng, cũng như xe tăng, xe bọc thép và binh sĩ hải quân đánh bộ để triển khai tầm xa.
Tàu đổ bộ đệm khí lớp (Zubr) Bison đầu tiên (dự án 12322 của Liên Xô) được đóng tại Trung Quốc theo hồ sơ thiết kế mà Bắc Kinh mua được từ Ukraina Tàu đổ bộ "Zubr" bắt đầu sản xuất tại Liên Xô vào cuối những năm 1980. Sử dụng đệm khí, tàu có thể đạt tốc độ trên biển đến 110 km/h. Tàu có thể mang tải trọng đến 150 tấn, gồm 3 xe tăng hoặc 10 xe thiết giáp bọc thép và 140 binh sĩ, hoặc 8 xe chiến đấu bộ binh BMP hay 8 xe tăng PT-76. Nếu như chỉ chuyên chở lực lượng Hải quân đánh bộ, số lượng binh sĩ đến 500 người. Tàu được trang bị hai bệ phóng tên lửa chống tàu Grad-M. Hai tổ hợp pháo tự động phòng không tầm gần AK-630 30 mm, cho phép có thể tiến hành các hoạt động tấn công các mục tiêu mặt nước và chống các tên lửa hành trình cận âm. Trung Quốc có thể sẽ thay thế bằng các hệ thống tên lửa chống tàu do quốc gia này sản xuất. Chỉnh sửa cuối: 16/7/21
Tàu sân bay Tháng 12/2019, Trung Quốc đã đưa vào vận hành tàu sân bay nội địa đầu tiên - tàu Sơn Đông, hạ thủy vào năm 2017 và đã hoàn thành nhiều cuộc thử nghiệm trên biển trong năm 2018-2019. Tàu sân bay mới là phiên bản cải tiến của thiết kế tàu Liêu Ninh (tàu Kuznetsov của Liên Xô) và cũng sử dụng phương pháp cất cánh kiểu nhảy cầu cho các máy bay. Trung Quốc tiếp tục đóng tàu sân bay nội địa thứ hai vào năm 2019, sẽ lớn hơn và được trang bị hệ thống máy phóng. Thiết kế này sẽ cho phép nó hỗ trợ thêm máy bay chiến đấu, máy bay cảnh báo sớm cánh cố định và các máy bay có tốc độ nhanh hơn, do đó mở rộng phạm vi tiếp cận và hiệu quả của máy bay tiến công trên tàu sân bay. Tàu sân bay được chế tạo trong nước thứ hai của Trung Quốc dự kiến sẽ đi vào hoạt động vào năm 2024, với các tàu sân bay khác sẽ theo sau.
Tàu sân bay tự đóng Type-001
Tàu chi viện HQTQ tiếp tục đóng một số lượng lớn các tàu chi viện và tiếp viện trên biển, bao gồm tàu thu thập thông tin tình báo (AGI), tàu giám sát đại dương (AGOS), tàu bổ sung hạm đội (AOR), tàu bệnh viện, tàu cứu hộ và tàu cứu hộ tàu ngầm, cùng nhiều loại tàu chuyên dụng khác. Ngoài ra, tàu phá băng địa cực đầu tiên được chế tạo trong nước của Trung Quốc, Xuelong 2, đã đi vào hoạt động vào năm 2019. Nó không do HQTQ vận hành mà thuộc biên chế của Viện Nghiên cứu Địa cực của Cục Quản lý Đại dương Quốc gia.
Tàu phá băng Xuelong 2
Lực lượng Hải quân đánh bộ Trung Quốc Là chi nhánh tác chiến trên bộ của HQTQ, Lực lượng Hải quân đánh bộ Trung Quốc (HQĐB) Trung Quốc tiếp tục hoàn thành việc mở rộng và tập trung vào các hoạt động viễn chinh. HQĐB Trung Quốc trước đây bao gồm 02 lữ đoàn (khoảng 10.000 quân nhân) và bị giới hạn về địa lý cũng như nhiệm vụ tiến công đổ bộ và bảo vệ các tiền đồn ở Biển Đông. Năm 2019, HQĐB Trung Quốc tiếp tục hoàn thiện cơ cấu lực lượng mở rộng gồm 8 lữ đoàn nhằm mục đích có thể mở rộng quy mô và cơ động, hiện đại hóa khả năng của lực lượng này cho các chiến dịch viễn chinh liên quân - bao gồm cả các chiến dịch ngoài Chuỗi đảo thứ nhất - và trở nên thành thạo hơn trong chiến tranh thông thường và phi chính quy. HQĐB Trung Quốc tiếp tục hướng tới việc trang bị đầy đủ cho 04 lữ đoàn cơ động mới được thành lập (ngoài 02 lữ đoàn đã có trước đây), 01 lữ đoàn tác chiến đặc biệt và 01 lữ đoàn hàng không (trực thăng). Nhìn chung, quá trình cải cách và hiện đại hóa của HQĐB Trung Quốc đã được chứng minh là chậm hơn so với mốc quan trọng dự kiến do QUTW đặt cho Quân đội Trung Quốc là “về cơ bản đạt được cơ giới hóa” vào cuối năm 2020 trước kỷ niệm 100 năm thành lập ĐCSTQ vào năm 2021.
Chỉnh sửa cuối: 18/7/21
KHÔNG QUÂN VÀ KHÔNG QUÂN HẢI QUÂN TRUNG QUỐC Tham vọng siêu cường và hành động của Trung Quốc đã được (thúc đẩy bởi tốc độ tăng trưởng kinh tế ngoạn mục và hiện đại hóa quân sự. Nhu cầu duy trì nền kinh tế và dòng chảy năng lượng khiến Biển Đông và Biển Hoa Đông trở nên quan trọng đối với Bắc Kinh. Những rủi ro của nước này cũng nằm trên biển. Để thống trị không phận trên biển, giới lãnh đạo Trung Quốc đã biến Lực lượng Không quân của mình thành một công cụ sức mạnh chiến lược, để bảo vệ các huyết mạch kinh tế, các lợi ích địa chính trị và quyền thống trị trong khu vực. Một phân tích về sự thay đổi của Không quân Trung Quốc và học thuyết triển khai lực lượng này giúp hiểu rõ về cách Bắc Kinh đã phát huy sức mạnh không quân để tăng cường hơn nữa các lợi ích chiến lược của mình.
Trong khi sự trỗi dậy của Lục quân và Hải quân Trung Quốc đã là trọng tâm của cộng đồng chiến lược quốc tế trong hơn một thập kỷ qua, thì Không quân Trung Quốc lại đang có vai trò ngày càng lớn hơn như một công cụ chiến lược của sức mạnh quân sự. Chỉnh sửa cuối: 20/7/21
Quỹ đạo phát triển của Không quân Trung Quốc Vai trò và hiệu suất rõ ràng của liên minh quân sự do Mỹ dẫn đầu và những thành công của lực lượng không quân trong Chiến tranh vùng Vịnh năm 1991, là những thời điểm quan trọng đối với giới lãnh đạo Trung Quốc. Chúng đã tạo ra động lực thúc đẩy quá trình hiện đại hóa và chuyển đổi quân đội Trung Quốc, trong các khái niệm tổ chức, công nghệ và chiến đấu. Sau đó, những điều chỉnh này đã dẫn đến những thay đổi rộng rãi trong học thuyết và huấn luyện. Quỹ đạo ấn tượng trong sự phát triển năng lực quân sự của Trung Quốc đã được hỗ trợ bởi sự gia tăng liên tục nguồn ngân sách quốc phòng kể từ năm 2009. Điều này cho phép KQTQ tổ chức lại và hiện đại hóa, dựa trên học thuyết đương thời của Trung Quốc và các bài học về sức mạnh không quân trong Chiến tranh vùng Vịnh. Không quân Trung Quốc đã đạt được tiến bộ ấn tượng không kém trong các lĩnh vực công nghệ quan trọng, từ vũ khí dẫn đường chính xác và tên lửa, đến máy bay chiến đấu. Rõ ràng đã có sự tập trung vào việc hiện đại hóa phi đội máy bay chiến đấu của mình từ các nền tảng kế thừa trụ cột từ thời Liên Xô, hướng tới một lực lượng có tỷ lệ lớn hơn các máy bay thế hệ thứ 4+. Điều này chủ yếu là để chống lại mối đe dọa trên không từ Đội tiến công tàu sân bay của Mỹ (CSG) trong khu vực và thực hiện quyền kiểm soát đối với các vùng không phận và hải phận mà họ quan tâm. Do đó, đã có một cam kết bền vững hướng tới sự tự cường trong lĩnh vực công nghiệp hàng không quân sự, và lĩnh vực này đã chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ.
J-10A/C/D
Quan trọng nhất, chúng được kích hoạt công nghệ tác chiến lấy mạng làm trung tâm, sẽ có khả năng tác chiến không đối không và khả năng tiến công tầm xa mạnh mẽ trong tác chiến từ các thiết bị cảm biến tới xạ thủ. Điều đáng chú ý là 60% sức mạnh máy bay chiến đấu hiện tại của KQTQ đã là thế hệ thứ tư trở lên. Trong số này, 58% có khả năng tiến công và 42% là máy bay chiến đấu chiếm ưu thế trên không. KQTQ đang tăng đều đặn kho máy bay chiến đấu có khả năng thực hiện các nhiệm vụ tiến công tầm xa trong thời gian dài, trong mọi điều kiện thời tiết với sức mạnh tác chiến duy trì lâu. Trên thực tế, kho vũ khí của KQTQ đang thích ứng với các sứ mệnh tương lai mà họ xác định. Đó là sự kết hợp của sứ mệnh Đài Loan, các lợi ích trên Biển Hoa Đông, Biển Đông và trong khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương rộng lớn hơn, và cả ở Khu tự trị Tây Tạng (TAR).
H-6U
HQ-16/SA-11
Hệ thống TLPK S-400 Page 7
Máy bay/phương tiện chiến đấu không người lái trên không Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đang triển khai các phương tiện bay không người lái và máy bay chiến đấu không người lái ngày càng tinh vi. Những năm gần đây đã chứng kiến sự ra đời của nhiều loại UAV mới trong biên chế của quân đội Trung Quốc (PLA), một số loại tương đương với các loại của nước ngoài. Máy bay không người lái có trần bay ở độ cao trung bình (MALE) Máy bay không người lái trần bay ở độ cao trung bình có thể được mô tả là UAV có trần bay dưới 9.000 mét và có khả năng bay với thời gian bay tương đối dài lên đến 24 giờ hoặc lâu hơn. Các UAV này có xu hướng chạy bằng động cơ cánh quạt hơn là động cơ phản lực. Máy bay không người lái MALE quốc tế nổi tiếng bao gồm MQ-1 và MQ-9 của Hoa Kỳ hoặc hệ thống Heron của Israel.
Máy bay không người lái có trần bay cao (HALE) Máy bay không người lái có trần bay cao là UAV có trần bay có thể tiếp cận 18.000 mét; tuy nhiên, tương tự như máy bay không người lái MALE, không có định nghĩa chung cho UAV HALE hoặc MALE. Máy bay không người lái HALE có xu hướng được gắn động cơ phản lực và có xu hướng đắt hơn và tương đối lớn hơn so với các loại tương đương của MALE. Các hệ thống máy bay không người lái HALE quốc tế nổi tiếng nhất sẽ là RQ / MQ-4 Global Hawk và gia đình Triton của Mỹ.
Máy bay không người lái HALE chính khác đang được PLA theo đuổi là một máy bay thân lớn ghép đôi, thường được gọi là Đại bàng thần thánh. Máy bay được cho là một UAV cảnh báo sớm trên không (AEW), trong đó thiết kế thân tàu kết hợp có thể cho phép lắp đặt các mảng radar bảo vệ ở hai bên và có lẽ là bề mặt phía trước của thân máy bay. Các bức ảnh về một nguyên mẫu đã xuất hiện vào năm 2015, nhưng không có hình ảnh và ít thông tin về quá trình phát triển và thử nghiệm chiếc máy bay này đã xuất hiện kể từ đó. Vào năm 2017, các hình ảnh vệ tinh cho thấy máy bay thử nghiệm đang được sản xuất và một bức ảnh vệ tinh vào năm 2018 cho thấy sự hiện diện của khung máy bay tại một căn cứ Không quân PLA nơi nó có khả năng đang được đánh giá. Tuy nhiên, Divine Eagle hiện không được cho là sẽ phục vụ như WZ-7.
GJ-11 và WZ-8 Cả UCAV tàng hình GJ-11 và UAV trinh sát siêu thanh WZ-8 đều đã được công bố tại lễ duyệt binh Ngày Quốc khánh 2019. Sự hiện diện của chúng tại cuộc diễu hành cho thấy rằng cả hai hệ thống đã được biên chế, vì chỉ những hệ thống đang hoạt động mới được trưng bày tại cuộc diễu hành Ngày Quốc khánh. Một trong những điểm đáng chú ý nhất từ GJ-11 và WZ-8 xuất hiện tại lễ duyệt binh là rất ít thông tin và hầu như không có hình ảnh nào được công bố trong suốt thời kỳ phát triển của chúng, có khả năng đã kéo dài một số năm. Trong trường hợp của GJ-11 (khi đó được gọi là Sharp Sword), nguyên mẫu đầu tiên xuất hiện vào đầu năm 2013 và bay lần đầu vào tháng 11 năm 2013; tuy nhiên, sau đó không có hình ảnh mới nào về chiếc máy bay đang thử nghiệm, thậm chí không có bất kỳ hình ảnh vệ tinh nào về chiếc máy bay được phát hiện.
WJ-700
Việc huấn luyện và diễn tập của KQTQ Các cuộc tập trận không quân Để cải thiện khả năng chiến đấu của mình, KQTQ đã giới thiệu khái niệm huấn luyện * bốn thương hiệu lớn vào giữa năm 2016. Chúng bao gồm các cuộc diễn tập Hồng Kiếm (Red Sword), Thương Vàng (Golden Dart), Mũ sắt Vàng (Golden Helmet) và Khiên Xanh (Blue Shield). Trong cuộc tập trận phòng không Blue Shield-2018, Không quân đã hợp nhất các đơn vị phòng không từ Lục quân, Hải quân, Không quân và Lực lượng Tên lửa (PLARF) dưới sự chỉ huy của một căn cứ phòng không của KQTQ. Đây là lần đầu tiên cách làm này được áp dụng nhằm tạo ra một mạng lưới phòng không liên hợp tích hợp đa quân chủng. Cuộc tập trận này nhấn mạnh trách nhiệm hàng đầu của KQTQ trong các chiến dịch phòng không, đây là một yếu tố quan trọng trong chiến lược khu vực mang tính cưỡng bức của lực lượng này.
Diễn tập Khiên Xanh năm 2018 (Blue Shield-18)
Các cuộc diễn tập quốc tế Sự can dự quốc tế của KQTQ cũng đã gia tăng với việc tham gia thường niên cuộc tập trận Ex-Shaheen với Pakixtan (cho đến nay đã tham gia 07 lần và lần gần đây nhất là năm 2018), Anatolian Eagle ở Thổ Nhĩ Kỳ (năm 2010) và Ex-Falcon Strike với Thái Lan (đến nay đã 03 lần và lần gần đây nhất là năm 2018). Nga cũng mời Trung Quốc tham gia một trong những cuộc tập trận trên không, trên bộ và trên biển lớn nhất của mình, Vostok 2018, lần đầu tiên là từ năm 1981. Những cuộc tập trận này liên quan đến huấn luyện tác chiến đường không bên ngoài và bên trong tầm nhìn trong các kịch bản tác chiến, vốn được thực hiện thường xuyên, giúp KQTQ có những cơ hội rất quý để huấn luyện trong các chiến thuật hiện đại của các lực lượng không quân hiện nay. Cuộc diễn tập Ex-Shaheen với Không quân Pakixtan rõ ràng mang lại cho KQTQ 03 kết quả; Không quân Pakixtan với kinh nghiệm huấn luyện với Mỹ là trung tâm sẽ giúp Trung Quốc có được hiểu biết vô giá về tác chiến đường không kiểu phương Tây; KQTQ có thể đã có được hiểu biết về các khái niệm tác chiến và chiến thuật lực lượng không quân tích hợp ‘qua việc phân tích Không quân Pakixtan’; và cuối cùng, huấn luyện liên kết giữa 02 lực lượng không quân này ở Khu Tự trị Tây Tạng giúp mở ra khả năng gây ra mối đe dọa đường không kết hợp ở phía Bắc Ấn Độ.
KQ TQ tập trận Ex-Falcon Strike với Thái Lan tại Udorn Royal Thai Air Force Base (Udorn RTAFB) 29-8-2019
Những sứ mệnh gần đây của KQ Trung Quốc Hiện nay, KQTQ cũng thường xuyên điều máy bay ném bom để đe dọa Nhật Bản, đảo Guam và các quốc gia khác trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Vào tháng 3/2018, lực lượng này đã điều 06 máy bay ném bom H-6 K; 01 máy bay Tu-154; và 01 máy bay Y-8 ISR bay qua Eo biển Miyako vào Tây Thái Bình Dương để thực hiện "khả năng tác chiến tầm xa". Các phi công Su-35 cũng bắt đầu thực hiện các nhiệm vụ tuần tra trên không (CAP) thường xuyên trên Biển Đông. Vào ngày 11/5/2018, Bộ tư lệnh Chiến khu miền Đông và miền Nam của Quân đội Trung Quốc đã điều động 02 đội máy bay ném bom H-6 K, cùng với máy bay cảnh báo sớm trên không KJ-2000 và máy bay chiến đấu Su-35 và J-ll, bay xuôi và và ngược chiều kim đồng hồ từ Đại lục Trung Quốc qua Eo biển Miyako và kênh Bashi, chứng tỏ khả năng hoạt động của KQTQ trong điều kiện biển động mạnh chống lại Đài Loan.
Cuộc tập trận gần đây nhất, Đại bàng sấm sét – Thunderbolt Eagle, bao gồm sứ mệnh tầm xa kéo dài 10 giờ do máy bay chiến đấu Su-30 tiến hành bay ra đá Xubi, với một số hoạt động tiếp dầu trên không, là một cuộc biểu dương sức mạnh. Năng lực thực thi các sứ mệnh tầm xa của KQTQ đã giúp lực lượng này mở rộng đáng kể vai trò đa dạng của mình, bao gồm các cuộc tiến công tầm xa và các sứ mệnh giành ưu thế trên không. Nó đồng thời cũng cho thấy khả năng sức mạnh không quân từ trên bờ hỗ trợ năng lực tàu sân bay hiện vẫn còn khá hạn chế của Trung Quốc. Các cuộc huấn luyện tầm xa của KQTQ không chỉ diễn ra trên các vùng biển. Tháng 12/2015, một máy bay ném bom tầm xa H-6K có căn cứ tại Quảng Châu đã huấn luyện thâm nhập ở độ cao thấp và tiến hành tiến công không đối đất tầm xa. Bất cứ cuộc huấn luyện nào trên lục địa, đặc biệt là ở khu vực cao nguyên Tây Tạng, đều là dấu hiệu cho thấy rằng lực lượng này có thể đang được huấn luyện để tiến công tầm xa nhằm vào Ấn Độ.
Máy bay vận tải Y-20 KQ TQ gần không phận Malaysia
Máy bay chiến đấu nhập khẩu trong biên chế KQTQ
Su-30 MKK Tiêm kích đa năng thế hệ 4, 76 chiếc (rơi 2), đang biên chế
Su-30 MK2Tiêm kích đa năng thế hệ 4, 24 chiếc (rơi 02), đang biên chế
Tiêm kích đa năng thế hệ 4+, 24 chiếc, đang biên chế
Máy bay chiến đấu sản xuất nội địa đang biên chế của KQTQ
Máy bay cảnh báo sớm, 11 chiếc, đang biên chế
Đánh giá chiến lược về KQTQ
Lần cuối cùng KQTQ tham chiến là trong Chiến tranh Triều Tiên. Trong cuộc Chiến tranh biên giới năm 1979 với Việt Nam, KQTQ không tham chiến, và các máy bay chiến đấu không được điều tới những điểm nóng. Việc này đã khiến KQTQ gặp bất lợi nghiêm trọng trước các lực lượng không quân đã được kiểm chứng qua chiến trận, trên khía cạnh kinh nghiệm tác chiến. Tuy nhiên, sau khi đã phân tích sức mạnh không quân và những hiệu quả của nó trong Chiến tranh vùng Vịnh, Trung Quốc đã đầu tư mạnh vào tái cơ cấu và củng cố sức mạnh không quân. Không có cơ hội thể hiện và kiểm nghiệm trong chiến tranh hay bất kỳ các tình huống tác chiến thực nào, KQTQ đã tập trung vào khai thác bối cảnh chính trị và an ninh lớn hơn của mình để răn đe, cưỡng bức và báo hiệu chiến lược. Kết quả là, KQTQ đã cùng với Hải quân nước này là một công cụ cưỡng bức trên Biển Đông và Biển Hoa Đông.
Căn cứ KQ TQ tại Tây Tạng, gần Ấn Độ Không có gì là ngạc nhiên, Đinh Lai Hàng, Tư lệnh Không quân hiện nay của Trung Quốc, cũng đã cam kết thúc đẩy hơn nữa chiến lược của những người tiền nhiệm. Ông tin rằng một lực lượng chiến lược phải ra bên ngoài và tuyên bố rằng KQTQ sẽ tiếp tục huấn luyện trên các vùng biển. Đề cập đến việc KQTQ thiên về việc triển khai chiến lược mang tính tiến công, ông nói trên đài tiến nói Trung Quốc rằng: Trước đây, các chiến lược và định hướng của chúng ta tập trung vào phòng không lãnh thổ. Giờ đây, chúng ta đang chuyển trọng tâm sang tăng cường năng lực triển khai chiến lược tầm xa và tiến công tầm xa. Sự thay đổi công nghệ của KQTQ, những cải tiến lớn về phần cứng và khả năng hoạt động, cải tiến học thuyết, các mô hình huấn luyện gần đây, tăng cường khả năng A2AD và việc sử dụng rộng khắp sức mạnh không quân cho thông điệp chiến lược, đặt ra mối đe dọa nghiêm trọng đối với cả vị thế của Mỹ ở Đông Á và an ninh của các cường quốc khác trong khu vực. Những tiến bộ nhanh chóng của KQTQ đã khiến Tham mưu trưởng Không quân Mỹ, Tướng Mark Welsh, cảnh báo Ủy ban Phân bổ ngân sách Hạ viện Mỹ vào năm 2016, rằng số lượng máy bay của Trung Quốc sẽ rất nhiều nếu không muốn nói là nhiều hơn Mỹ vào năm 2030. Tầm quan trọng của KQTQ được nhấn mạnh bởi thực tế là ngành hàng không vũ trụ của họ nằm trong 10 lĩnh vực quan trọng cần có sự hỗ trợ hơn nữa từ chính phủ, trong mục tiêu 'Sản xuất tại Trung Quốc 2025 của Kế hoạch 5 năm lần thứ 13 (FYP) (2016-2020) - được Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc (NPC) thông qua. Bản thân Chủ tịch Tập Cận Bình đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tiếp tục hiện đại hóa KQTQ. Ngày nay, lực lượng này đã có thể thực hiện các nhiệm vụ không còn giới hạn ở việc bảo vệ không phận lãnh thổ của Trung Quốc, bao gồm cả việc phát động các chiến dịch tiến công ở khoảng cách xa hơn Chuỗi đảo thứ nhất. KQTQ đã có khả năng IADS mạnh, và năng lực này đang mở rộng nhanh chóng để bao gồm cả các không phận trên biển. Ngoài ra, KQTQ đang cải thiện khả năng phi động năng của mình để tham gia vào các hoạt động quân sự không phải chiến tranh (MOOTW), chẳng hạn như hỗ trợ nhân đạo và cứu trợ thảm họa (HADR) và các hoạt động sơ tán phi tác chiến (NEO).
Tàu khu trục Type 055 của Hải quân Trung Quốc trong chiến lược biển
Chỉ hơn một thập kỷ trước, cộng đồng nghiên cứu hải quân đã kinh ngạc khi Hải quân Trung Quốc triển khai một tàu tiến công cao tốc mang tên lửa (mosquito-like catamaran) khá sáng tạo, với số lượng đáng kể. Ngay sau đó, HQTQ bắt đầu triển khai một lớp tàu frigat mới (Type 054A) đến Vịnh Aden. Loại tàu đó đã chứng minh độ tin cậy của nó cho các hoạt động ở vùng biển xa. Sau đó, các nhà máy đóng tàu của Trung Quốc tiếp tục đẩy nhanh tốc độ phát triển tàu cô-vét (Type 056), nhằm mục đích lấp đầy các vùng biển gần bằng những tàu có tải trọng lớn. Hơn 50 tàu lớp này hiện đang được biên chế. Các chương trình trên cho thấy, ở một mức độ nhất định, Bắc Kinh đang lựa chọn chiến lược hải quân jeune ecole cổ điển ưu tiên các tàu nhỏ, có tính sát thương hơn cho các nhiệm vụ chiến đấu ở “vùng biển gần”, trong khi lực lượng tàu ngầm ngày càng tăng có thể được triển khai để tiến công các tàu thương mại.
Với lượng choán nước hơn 12.000 tấn, Type 055 có trọng tải gần gấp đôi so với tàu khu trục tiền nhiệm của Trung Quốc và dài hơn 23 m. Trong thời đại mà các chiến lược gia hải quân thường coi các lực lượng tác chiến mặt nước lớn là rất dễ bị tổn thương trước ngư lôi và tên lửa hành trình chống hạm, Hải quân Trung Quốc dường như đang bỏ qua tất cả các bài học kinh nghiệm. Thay vào đó, các chiến lược gia Trung Quốc khẳng định rằng việc nghiên cứu kỹ lịch sử hải quân gần đây cho thấy lợi thế của việc “chơi lớn” (大型 化) khi nói đến thiết kế tàu chiến. Chương trình này khẳng định một cách táo bạo rằng Trung Quốc dự định sử dụng một hạm đội lớn và có năng lực trên khắp các đại dương của thế giới. Về khía cạnh quân sự, khẳng định này cũng cho thấy một niềm tin nhất định phổ biến ở Bắc Kinh rằng Trung Quốc đã làm chủ được các công nghệ cần thiết để bảo vệ những con tàu được đánh giá cao như vậy. Do đó, đối với các nhà chiến lược hải quân, việc đưa chiếc Type 055 đầu tiên vào hoạt động vào tháng 01/2020 có thể gợi lại thời điểm loại thiết giáp hạm Dreadnought (1906) hoặc thậm chí là thiết giáp hạm Bismarck (1939) được biên chế. Việc biên chế hai loại tàu nổi tiếng này đã thay đổi đáng kể cục diện chiến lược hải quân vào thời điểm đó. Điều tương tự cũng có thể được đề cập sau vài thập niên nữa liên quan đến sự ra đời của tàu Type 055.
Tàu tuần dương Type 055 có thân lớn hơn đáng kể so với lớp tàu trước và cho thấy sự tự tin trong thiết kế tàu chiến của Trung Quốc
Việc phát triển và đóng tàu Type-055 Lịch sử của các tàu chiến mặt nước lớn của Trung Quốc không phải là một lịch sử lâu đời và huy hoàng. Bỏ qua câu chuyện đáng buồn về việc các thiết giáp hạm nhập khẩu của Trung Quốc bị đánh chìm một cách đáng tủi hổ trong Chiến tranh Trung-Nhật (1894-1895), nguồn gốc của hạm đội tàu mặt nước của HQTQ được xác định từ việc Liên Xô chuyển giao 4 tàu chiến mặt nước cũ cho Trung Quốc vào năm 1954. Hải quân Trung Quốc coi những con tàu này là “bốn viên kim cương lớn” (四大 金刚). Vào thời điểm đó, trọng tâm mới của Hải quân Trung Quốc nói chung là máy bay, tàu ngầm và tàu, xuồng cao tốc cỡ nhỏ. Rõ ràng là những kỳ tích của “hạm đội muỗi” sau này đã không bị lãng quên trong Quân đội Trung Quốc ngày nay. Mãi đến đầu những năm 1970, Trung Quốc mới nỗ lực đóng tàu khu trục của riêng mình. Các tàu chiến mặt nước đáng tin cậy đầu tiên của hải quân nước này, tàu Thanh Đảo (Qingdao) và Hạ Bình (Harbin), đã được hoàn tất vào giữa những năm 1990. Đáng chú ý, cả hai đều dựa trên động cơ tuabin khí General Electric LM-2500 do Mỹ sản xuất. Trong thập kỷ sau đó, Trung Quốc một lần nữa vay mượn từ Nga và nhập khẩu 4 tàu khu trục lớp Sovremmeny để tăng cường hơn nữa hạm đội tàu nổi đang phát triển của mình.
Lớp tàu tiếp theo, tàu khu trục Type 052D đã được chế tạo khá nhanh kể từ năm 2012. Một chuyên gia hải quân Mỹ miêu tả loại tàu này là “có diện mạo ưa nhìn hơn tàu khu trục lới Arleigh Burke của Hải quân Mỹ”. Một đánh giá tổng quan về hạm đội tàu khu trục của Hải quân Trung Quốc năm 2019 xác định vào năm 2025 lực lượng này sẽ có khoảng 24 tàu như vậy trong biên chế. Dù nhận định tàu 054D là một “tàu chiến nổi bật với uy lực mạnh”, đánh giá đã thẳng thắn nói rằng “cấp độ công nghệ của nó không phải là tiên tiến nhất”.
Quyết tâm vươn xa hơn của HQTQ rõ ràng một phần là do họ đã đọc được lịch sử hải quân đương đại. Các nhà quan sát Trung Quốc ghi nhận cách các tàu khu trục lớn của Mỹ cung cấp hỏa lực chi viện đáng kể trong các cuộc xung đột gần đây, chẳng hạn như trong Chiến tranh Irắc năm 2003. Quay trở lại vài thập niên trước đó, các chiến lược gia của HQTQ cũng rút ra bài học từ Chiến tranh Falklands rằng các lực lượng tác chiến mặt nước nhỏ hơn có thể tỏ ra kém năng lực hơn và do đó dễ bị tiến công hơn trong chiến tranh hải quân hiện đại. Nguồn tin tương tự giải thích: “Ngày nay, tất cả hải quân trên thế giới đang nỗ lực không ngừng trong việc phát triển năng lực cho ý tưởng thiết kế, bố trí bên trong và hệ thống động cơ, những thứ giúp họ trở thành thành viên của câu lạc bộ “siêu khu trục hạm”.
(Tiếp) Rõ ràng là các kiến trúc sư hải quân Trung Quốc nhận thấy có sự thay đổi đáng kể trong kế hoạch đóng tàu chiến mặt nước của Mỹ, nên họ lập ra một dự án đầy tham vọng. Vào cuối năm 2009, dự án Type 055 nhận được sự chấp thuận chính thức và việc chế tạo nguyên mẫu ban đầu bắt đầu tại nhà máy đóng tàu Giang Nam mới bên ngoài Thượng Hải vào năm 2014. Đầu năm đó, một mô hình tỷ lệ 1:1 đặc biệt của cấu trúc thượng tầng của một tàu chiến mặt nước lớn "bất ngờ xuất hiện" ở Vũ Hán - một sự phát triển có phần gây sốc kể từ khi tàu Type 052D mới ra mắt. Điều này rõ ràng phản ánh cách tiếp cận của HQTQ đối với thiết kế tàu chiến, tức là đồng thời "trang bị một thế hệ, đóng một thế hệ và thiết kế một thế hệ".
Sức mạnh của tàu Kích thước lớn của tàu là đặc điểm nổi bật nhất của nó. Nhiều không gian hơn cho phép nó bố trí được nhiều loại vũ khí và cảm biến tiên tiến. Tuy nhiên, con tàu cũng đại diện cho một bước nhảy vọt mang tính cách mạng trong việc phối hợp cảm biến, thể hiện bằng một cột buồm tích hợp duy nhất. Phần này lần lượt thảo luận về từng bộ phận này, bắt đầu với động cơ đẩy, sau đó chuyển sang cảm biến và cuối cùng thảo luận về sức mạnh qua việc xem xét các loại vũ khí trang bị của con tàu.Động cơ Với lượng choán nước 12.000 tấn, tàu Type 055 được trang bị 04 động cơ tuabin khí có khả năng giúp nó đạt tốc độ tối đa 32 hải lý. Khoảng 20% sức mạnh của động cơ trên tàu Type 055 hiện nay được cho là “dư thừa” do “trang bị hiện đại và hiệu quả hơn”. Điều này cho thấy rằng trong tương lai tàu có thể được trang bị các hệ thống cải tiến. Một mô tả trước đó của Trung Quốc về tàu Type 055 cho biết rằng các động cơ tuabin khí bản địa QC-280, mang lại cho con tàu tổng công suất 130.000 mã lực (tàu tuần dương lớp Arleigh Burke lắp động cơ turbine khí General Electric LM2500 công suất 105.000 mã lực). Theo phân tích này, các nhà khoa học Trung Quốc đã thực hiện một “bước đột phá lịch sử” (历史性 的 突破) vào năm 2008 dẫn đến việc nội địa hóa động cơ GT25000 của Ucraina. QC-280 rõ ràng đã được sử dụng trong các tàu khu trục 052C sau này và cả trong các khu trục hạm 052D. Phân tích này khẳng định "… tất cả các động cơ điện tiên tiến hơn đã trở thành xu hướng cho mọi quốc gia." Nó cũng giải thích rằng động cơ điện có thể giảm tiêu thụ nhiên liệu 10% và giảm kích thước tàu (5-10%), đồng thời tăng tốc độ lên gấp rưỡi. Tiếng ồn cũng được cho là giảm đáng kể. Phần tương tự cũng trình bày về một loạt các thí nghiệm do Viện 712 ở Vũ Hán thực hiện, mang lại một thử nghiệm 20 megawatt vào đầu năm 2011 và được đánh giá là “đủ để cung cấp năng lượng cho một tàu chiến cỡ lớn”. Hơn nữa, nguồn tin này nói rằng các hệ thống đẩy như vậy sau đó đã được thử nghiệm trên các tàu cỡ lớn của lực lượng bảo vệ bờ biển. Do đó, nó kết luận rằng “… với khả năng phát triển và công nghệ của Trung Quốc, không thể loại trừ việc con tàu này sử dụng công nghệ tiên tiến như vậy”.
Các nguồn tin khác của Trung Quốc cũng cẩn thận hơn một chút về điểm này. Tại thời điểm ra mắt lần đầu tiên, một đánh giá của Trung Quốc cho biết “tàu khu trục mới có thể vẫn sử dụng động cơ đẩy truyền thống”. Tương tự như vậy, một đánh giá khác cũng cho rằng “phiên bản nâng cấp 055” (改进型 055) sẽ có hệ dẫn động hoàn toàn bằng điện. Trong mọi trường hợp, kết quả phát điện ảnh hưởng trực tiếp đến cả hoạt động của tàu cũng như hoạt động của các cảm biến và vũ khí. Chỉnh sửa cuối: 14/8/21
Vũ khí trên tàu Type-055
Cảm biến Tàu Type 055 nổi bật nhất nhờ việc tích hợp các cảm biến của nó trong một cột buồm tích hợp duy nhất, đánh dấu một bước cải tiến lớn đối với các tính năng tàng hình của con tàu. Đáng chú ý, mức độ tích hợp cột buồm này đã không đạt được đối với tàu khu trục được triển khai ở tiền duyên của Hải quân Mỹ, tàu Burke III, do những cân nhắc về chi phí. Trái ngược với những tàu tiền nhiệm của nó, Type 052C và D, tàu tuần dương mới của Trung Quốc không có các radar cảnh báo sớm chính ở nửa phía sau của con tàu. Bằng cách bao bọc bốn ống xả bên trong một phần của cấu trúc thượng tầng và lắp đặt "thiết bị triệt tiêu tia hồng ngoại" (红外 抑制 装 罝), các nhà thiết kế con tàu đã tạo cho tàu Type 055 đường nét gọn gàng đáng kể và khả năng bị phát hiện thấp hơn. Tất nhiên, điều này cũng ngụ ý sự tin tưởng lớn hơn nhiều vào các cảm biến trên cột buồm chính của con tàu. "Khả năng phản xạ radar nhỏ" của con tàu cùng với tín hiệu âm thanh, điện từ và hồng ngoại thấp của nó có nghĩa là "khả năng tàng hình và khả năng sống sót đã tăng lên". Đáng chú ý, một cột buồm tích hợp tương tự có thể là một phần của thiết kế cho tàu frigat thế hệ tiếp theo của HQTQ. Type 055 được cho là tàu chiến đầu tiên của HQTQ kết hợp các radar mảng phẳng băng tần kép. Các mảng ăng ten phẳng dải S nằm bên dưới đài chỉ huy và ở mặt trái của cấu trúc thượng tầng được cho là lớn hơn 40% so với những mảng được trang bị cho tàu Type 052D. Điều này được cho là giúp nó có khả năng tăng khoảng cách phát hiện hơn 60%, kể cả đối với "các mục tiêu tàng hình". Các mảng phẳng của tàu Type 052D, Type 364A, được cho là có phạm vi phát hiện không dưới 400km. Các mảng phẳng của Type 364B trên Type 055 dự kiến sẽ còn có khả năng phát hiện xa hơn nữa. Radar băng tần X để theo dõi các mục tiêu bay thấp được bố trí bên trên cột buồm. Mặc dù chỉ có 1/6 diện tích phẳng của radar băng tần S, nhưng cảm biến băng tần X rõ ràng có thể “bù đắp cho bất kỳ sự thiếu sót nào trong radar băng tần S”. Các bộ phận khác của cột buồm tích hợp được gắn với radar dẫn đường, liên kết chiến thuật và ăng ten tần số siêu cao (UHF). Phía trên radar băng tần X là một hệ thống tác chiến điện tử. Một sơ đồ khác đặt trong các tấm lớn ở hai bên đài chỉ huy (bên dưới cột buồm) dùng cho tác chiến điện tử. Theo phân tích này của Trung Quốc, khả năng của radar băng tần kép đủ cho tàu Type 055 có “khả năng đặc biệt để phát hiện tên lửa chống hạm”. Về cảm biến tác chiến chống ngầm (ASW), loại tàu này có cả xô na gắn trên tàu và xô na kéo theo. Nó cũng có thể mang theo 02 máy bay trực thăng tác chiến chống ngầm.
Vũ khí Tàu Type 055 đã được chế tạo với đủ chỗ để nâng cấp vũ khí, hệ thống phòng thủ và các công nghệ khác trong tương lai. Con tàu này có chiều rộng 20 mét (66 feet), chiều dài 180 mét (591 feet) và lượng choán nước đầy đủ hơn 12.000 tấn. Các cabin được mở rộng cung cấp không gian cho nhiều vũ khí và thiết bị điện tử hơn, dẫn đến chức năng toàn diện hơn và khả năng sinh sống của thủy thủ đoàn được cải thiện. Do đó, khối lượng tổng thể của con tàu phải lớn hơn đáng kể so với các tàu lớp Burke IIA hoặc Ticonderoga.
......
Ko phủ nhận quy mô quân sự của Trung Quốc. Nhưng ngó lịch sử hào hùng của a hàng xóm thì e ko tin sức mạnh thực sự lắm.
Thực sự đáng lo ngại chứ không phải duy ý chí đâu cụ (Tiếp Type-055) Với tên lửa tiến công, tàu Type 055 sẽ được trang bị tên lửa hành trình tiến công đất liền CJ-10. Kể từ Chiến tranh vùng Vịnh năm 1990-1991, các chiến lược gia Trung Quốc đã bị thuyết phục về tầm quan trọng của việc triển khai các tàu cho vai trò tiến công đất liền. Sứ mệnh đó cũng có thể tăng khả đáng kể khi Bắc Kinh tin rằng Washington dự định sử dụng tên lửa đặt trên đất liền “để ngăn chặn sự xâm nhập của Hải quân Trung Quốc vào Thái Bình Dương” (阻止 中国 海军 深入 太平洋) khi xảy ra chiến tranh.
Có các báo cáo về những hệ thống vũ khí hiện đại khác nhau đang trong các giai đoạn phát triển để tích hợp vào tàu này. Chúng có thể bao gồm một khẩu súng ray điện từ, tên lửa đường đạn chống hạm (ASBM) đã thảo luận ở trên, vũ khí laser năng lượng cao và thiệt bị tần số vô tuyến năng lượng cao. Các nhà quan sát quân sự nói rằng Hải quân Trung Quốc đang phấn đấu để phát triển một súng ray điện từ, nếu nó hoạt động, có thể có thể bắn các viên đạn có tốc độ siêu vượt âm đạt Mach 7. Một số người nói rằng Hải quân Trung Quốc có thể sở hữu công nghệ này vào năm 2025. Trong số các tàu chiến mặt nước mà Trung Quốc hiện có, chỉ có tàu Type 055 có đủ không gian để lặp đặt các máy phát điện cần thiết để cung cấp năng lượng cho vũ khí này. Mặc dù Mỹ đã phát triển công khai các khẩu súng điện từ trong nhiều năm, nhưng không có nghĩa là Trung Quốc đã quá xa phía sau trong lĩnh vực này, vì Bắc Kinh [thường] giữ im lặng về những tiến bộ của mình vì quan ngại lộ bí mật, ông Chen Chen Shuoren, một nhà bình luận quân sự Trung Quốc, nói với tờ khoa học và công nghệ hàng ngày. Thời báo Hoàn cầu dẫn lời nhà bình luận quân sự Song Zhongping cho biết các tàu mới sẽ được trang bị vũ khí mới, ông cũng cho biết: “tàu Type 055 là loại phù hợp nhất cho súng điện từ trong tương lai của Trung Quốc, vì tàu chiến chạy hoàn toàn bằng điện có thể đáp ứng được lượng vũ khí khổng lồ”. Trong năm 2018, một tàu đổ bộ cũ hơn của Trung Quốc được cho là đang thử nghiệm trên biển, đóng vai trò như một thiết bị thử nghiệm cho dự án súng ray điện từ của Trung Quốc. Ngoài ra, trong các nguồn nghiên cứu của Trung Quốc, có rất nhiều bằng chứng cho thấy loại súng ray điện từ này là ưu tiên cao cho Hải quân Trung Quốc. Cũng có thông tin cho rằng, các biến thể tàu tuần dương Type 055 trong tương lai sẽ có khả năng ABM, thiết bị laser năng lượng cao, và với kích thước của nó, nó cũng có thể dùng làm nền tảng để phát triển thế hệ vũ khí tiếp theo, chẳng hạn như thiết bị tần số vô tuyến năng lượng cao. Nếu tàu Type 055 thực hiện các nhiệm vụ ASW mở rộng, nó sẽ được hưởng lợi từ việc có hai máy bay trên tàu. Type 055 được trang bị sàn đáp máy bay duy nhất, hệ thống hỗ trợ máy bay trực thăng hoạt động từ tàu (RAST - Recovery, Assist, Secure và Traverse) và hai khoang chứa máy bay. Sàn đáp được thiết kế cho các loại máy bay cánh quạt cỡ trung bình: Z-9 hoặc Z-18 lớn hơn nhiều. Với việc máy bay Z-20F được đưa vào hoạt động dưới dạng vũ khí tác chiến chống ngầm đường không mới, sàn đáp và nhà chứa máy bay được thiết kế để chứa hai máy bay loại này. Máy bay Z-20F sẽ có kích cỡ lớn hơn so với loại tiền nhiệm của nó, nhưng tàu khu trục Burke IIA / III nhỏ hơn đã thiết kế có chỗ cho loại máy bay cỡ này. Máy bay Z-20 bay lần đầu vào năm 2013 và hình ảnh đồ họa của chiếc trực thăng này đã xuất hiện trên trang bìa của tạp chí ‘Hạm tàu hiện đại - Modern Ships’ của Hải quân Trung Quốc vào đầu năm 2014, ngụ ý về tầm quan trọng của chương trình này. Hình ảnh đồ họa và văn bản kèm theo không e ngại về mối quan hệ chặt chẽ của Z-20 với SH-60 của Hải quân Mỹ, bao gồm "radar tìm kiếm trên biển" gắn trên phần cằm rất nổi bật của nó. [xem hình 7]. Các bài báo kèm theo làm rõ rằng trực thăng ASW của Nga không thể mang lại khả năng phát hiện mà Hải quân Trung Quốc mong muốn cho các tàu chiến mặt nước mới của họ. Cũng có thể tưởng tượng rằng máy bay trực thăng Z-18F mới sẽ phù hợp với tàu Type 055.
Z-20F Chỉnh sửa cuối: 19/8/21
Công nghiệp quốc phòng của Nhật Bản Việc phát triển nền công nghiệp quốc phòng dựa trên công nghệ hiện đại là điều kiện thiết yếu để đảm bảo sức mạnh quân sự của quốc gia. Ngoài ra, nó còn góp phần nâng cao hiệu quả của ngành công nghiệp quốc gia nói chung. Theo quy định trong "Chiến lược An ninh Quốc gia" của Nhật Bản được công bố lần đầu vào tháng 12/2013, để duy trì khả năng quốc phòng của đất nước trong điều kiện hạn chế về tài nguyên thiên nhiên, cần phải phát triển và cải thiện nền công nghiệp quốc phòng và công nghệ quân sự. Hiện nay, nền công nghiệp quốc phòng của Nhật Bản là tập hợp các nhà máy công nghệ cao liên kết trong cùng hệ thống với đầy đủ các ngành ngoại trừ ngành công nghiệp hạt nhân. Các nhà máy sản xuất vũ khí và thiết bị quân sự (AME) các loại chính như: tên lửa - vũ trụ, máy bay, xe thiết giáo, tàu thủy, pháo, thiết bị điện tử và các loại đạn dược khác. Cả nước có khoảng 100 doanh nghiệp có liên quan trực tiếp đến ngành công nghiệp quân sự. Một trong những hướng ưu tiên trong chính sách kinh tế - quốc phòng của chính phủ Nhật Bản là tối ưu hóa hệ thống thu mua vũ khí và trang thiết bị quân sự. Cục Vũ khí và kỹ thuật quân sự của Bộ Quốc phòng Nhật Bản chịu trách nhiệm thực hiện các chương trình chế tạo và trang bị cho lực lượng phòng vệ, giám sát chi tiêu ngân sách ở mọi các giai đoạn sử dụng của vũ khí trang bị. Đặc điểm nền công nghiệp quốc phòng Nhật Bản giai đoạn hiện nay: - Thiếu vắng các nhà máy quốc phòng; vũ khí trang bị cho Bộ Quốc phòng do các xí nghiệp tư nhân sản xuất; - Đa dạng hóa sản xuất, chú trọng các sản phẩm dân dụng và lưỡng dụng; - Tập trung sản xuất trong các hiệp hội lớn có cơ sở cần thiết để cho ra đời nhiều loại trang thiết bị quân sự; - Phát triển cơ sở nghiên cứu khoa học; - Liên kết rộng rãi công nghiệp quốc dân và quốc phòng, một hệ thống thầu phụ nhiều cấp bao gồm số lượng lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia sản xuất các sản phẩm dân dụng; - Chuyển đổi và bảo lưucác cơ sở sản xuất dân sự cho quốc phòng; - Khả năng tái tạo các mẫu đã sản xuất trước đó; - Sản xuất thành thạo một loại vũ khí, khí tài tại một số công ty nhằm nâng cao tốc độ sản xuất trong thời chiến; - Tăng cường hợp tác quân sự - kỹ thuật với các công ty nước ngoài để sản xuất vũ khí trang bị đã được cấp phép, sử dụng các bộ phận, linh kiện trong và ngoài nước. Các công ty công nghiệp quốc phòng lớn nhất Nhật Bản bao gồm: Mitsubishi Jyukogyo, Kawasaki Jyukogyo, Ishikawajima Harima Jyukogyo, Mitsubishi Denki, Nippon Denki, Toshiba, Subaru. Các công ty này tham gia vào hầu hết các ngành công nghiệp quốc phòng của Nhật Bản.Tỷ lệ sản xuất vũ khí tại các xí nghiệp của các công ty này chiếm khoảng 3% tổng lượng sản phẩm. Hãng Mitsubishi Jyukogyo có các nhà máy ở tất cả các lĩnh vực công nghiệp quốc phòng và là nhà sản xuất xe bọc thép hàng đầu của Nhật Bản. Các loại sản phẩm liên quan đến kỹ thuật thiết giáp bao gồm: xe tăng, xe chiến đấu hạng nặng, xe bọc thép chở quân, xe chiến đấu bộ binh, pháo tự hành và các thiết bị kỹ thuật phụ trợ khác với các mẫu chính sau: xe tăng "10" và "90"; xe chiến đấu hạng nặng kiểu "16"; xe chiến đấu bộ binh kiểu "89"; xe thiết giáp "73"; pháo tự hành 155mm "99" và "75";pháo phòng không tự hành (ZSU) "87".
Hiện nay, công ty thực hiện đơn hàng của Bộ Quốc phòng sản xuất xe chiến đấu hạng nặng kiểu “16”, xe tăng “10” và pháo tự hành 155mm kiểu “99”.
Các lớp máy bay khác nhau do Hãng sản xuất đặt nền móng cho không quân Nhật Bản kể từ sau Chiến tranh Thế giới lần thứ hai. Các xí nghiệp của Hãng sản xuất, hiện đại hóa và sửa chữa máy bay chiến đấu F-2, F-4EJ, F-15J, máy bay trinh sát LR-1, máy bay vận tải quân sự T-400, trực thăng đa năng UH-60J, SH-60K và SH-60J, modul thân máy bay ХР-1, ХС-2.Ngoài ra, Công ty Komaki minami kogyo còn thực hiện lắp ráp SKD máy bay chiến đấu F-35A thế hệ năm, đồng thời cũng sản xuất các bộ phận riêng lẻ cho cánh, thân, đuôi và càng. Nhà máy được chứng nhận là trung tâm bảo dưỡng và sửa chữa máy bay loại này.
Trung tâm "Nagoya" sản xuất động cơ trục turbo TS-1 cho trực thăng chiến đấu OH-1, một số chi tiết, tổ máy cho trực thăng đa năng UH-60J, SH-60K và SH-60J.
(Tiếp) Hãng Mitsubishi Jukogyo cũng là một trong những nhà sản xuất hàng đầu trong ngành đóng tàu quân sự. Ví dụ, nhà máy ở Kobe chuyên sản xuất các tàu ngầm diesel các loại Soryu, Harusio và Oyashio cho lực lượng hải quân quốc gia.Nhà máy ở Nagasaki sản xuất tàu khu trục Akizuki và Asahi được trang bị hệ thống điều khiển vũ khí đa năng Aegis (ISAR), nhà máy ở Shimonoseki sản xuất tàu tên lửa loại Hayabusa.
Ngoài ra, công ty còn tham gia chương trình sản xuất và hiện đại hóa máy bay đổ bộ US-2 và máy bay chiến đấu F-2A/B.
(Tiếp) Hãng Mitsubishi Jukogyo cũng là một trong những nhà sản xuất hàng đầu trong ngành đóng tàu quân sự. Ví dụ, nhà máy ở Kobe chuyên sản xuất các tàu ngầm diesel các loại Soryu, Harusio và Oyashio cho lực lượng hải quân quốc gia.Nhà máy ở Nagasaki sản xuất tàu khu trục Akizuki và Asahi được trang bị hệ thống điều khiển vũ khí đa năng Aegis (ISAR), nhà máy ở Shimonoseki sản xuất tàu tên lửa loại Hayabusa.
Tên lửa chống hạm ASM-3 Chỉnh sửa cuối: 22/8/21 |