Nhà nước quản lý xã hội bằng biện pháp nào tại sao

Nhà nước quản lý xã hội bằng biện pháp nào tại sao
THS. MAI BỘ – Tòa án quân sự Trung ương

Nghiên cứu lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin về hình thái kinh tế – xã hội chúng tôi thấy, ngoài các yếu tố về chính trị, tư tưởng, văn hoá, thì thượng tầng kiến trúc còn bao gồm các yếu tố rất quan trọng là pháp luật và đạo đức…

Hai yếu tố này có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với hạ tầng cơ sở. Xét trên bình diện công cụ quản lý, thì pháp luật và đạo đức là hai công cụ quan trọng của việc quản lý xã hội.

Thứ nhất, nói về pháp luật thì tại Điều 12 Hiến pháp nước ta khẳng định: "Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa". Như vậy, trong đạo luật gốc, Nhà nước ta khẳng định pháp luật là công cụ quản lý xã hội. Trên phương diện lý luận, thì pháp luật là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng được tạo nên bởi cơ sở hạ tầng là quan hệ sản xuất; và có nhiệm vụ điều chỉnh quan hệ sản xuất. Nếu pháp luật phù hợp với các yếu tố của hạ tầng cơ sở (trong đó có quan hệ sản xuất), thì nó thúc đẩy quá trình phát triển quan hệ kinh tế và làm tăng trưởng kinh tế. Ngược lại, nếu pháp luật không phù hợp với các yếu tố của hạ tầng cơ sở, thì nó kìm hãm sự phát triển quan hệ kinh tế và làm giảm khả năng tăng trưởng kinh tế.

Nói tới pháp luật và để có pháp luật chuẩn (phù hợp và có khả năng điều chỉnh quan hệ sản xuất theo hướng tích cực), thì phải nói tới các môi trường tồn tại của pháp luật và đòi hỏi pháp luật phải tốt ở tất cả những môi trường tồn tại của nó. Vậy, pháp luật tồn tại ở những môi trường nào? Chúng tôi cho rằng, pháp luật tồn tại ở ba môi trường là: xây dựng pháp luật; thực hiện pháp luật; và ý thức pháp luật.

Ở môi trường xây dựng pháp luật, thì có thể nói với sự cố gắng hết mình dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quốc hội và các cơ quan có thẩm quyền đã nghiên cứu và ban hành một hệ thống đồ sộ các văn bản pháp luật để điều chỉnh các lĩnh vực quan hệ xã hội. Như vậy, có thể nói chúng ta không thiếu các văn bản pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội nói chung và quan hệ kinh tế nói riêng.

Tuy nhiên, ở môi trường thực hiện pháp luật thì mặc dù đã có rất nhiều cố gắng của các cơ quan thực thi pháp luật và đạt được rất nhiều thành quả nhất là sự tăng trưởng kinh tế trong 10 năm thực hiện Cương lĩnh nhưng vẫn nổi lên vấn đề là pháp luật không nghiêm. Nguyên nhân của nó là việc tổ chức thi hành pháp luật. Tình trạng cố tình vi phạm pháp luật hoặc lách luật vì động cơ cục bộ hoặc động cơ cá nhân xảy ra phổ biến ở nhiều cơ quan, tổ chức và công dân.

Còn ở môi trường ý thức pháp luật bao gồm hai yếu tố là hiểu biết pháp luật và tình cảm của nhân dân đối với pháp luật, thì có thể nói là rất yếu. Nhân dân không hiểu luật và ghét làm theo pháp luật. Nguyên nhân của tình trạng này xuất phát từ những hạn chế, bất cập của hoạt động phổ biến pháp luật và sự quan sát trực quan của nhân dân vào thực tiễn thi hành pháp luật của các cơ quan, tổ chức không nghiêm. Nhưng dù sao thì pháp luật vẫn là một công cụ quan trọng để quản lý xã hội, do vậy cần bổ sung vào mục tiêu tổng quát để khẳng định giá trị điều chỉnh của pháp luật và nhấn mạnh việc chúng ta chủ trương xây dựng Nhà nước Việt Nam pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Thứ hai, việc chúng ta khẳng định "Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật…" theo chúng tôi là hoàn toàn đúng nhưng chưa đủ. Bởi lẽ, phong tục và thói quen hành xử của con người Việt Nam là "Một trăm cái lý không bằng một tý cái tình". Cái tình mà tôi muốn trình bày ở đây là "đạo đức". Đạo đức suy cho cùng là quan niệm "tốt, xấu, sang, hèn, anh hùng và sợ chết", là sự thừa nhận và ca ngợi của xã hội đối với cái tốt, người tốt và là sự lên án của xã hội đối với cái xấu, người xấu. Hệ quả của việc đó là làm cho cái tốt, người tốt được nhân rộng; cái xấu, người xấu bị triệt tiêu. Lịch sử của sự kết hợp giữa đạo đức với pháp luật đã chứng minh dùng đạo đức để điều chỉnh quan hệ xã hội thì pháp luật đỡ phải gồng mình mà hiệu quả lại rất cao.

Một điều rất đáng tiếc là đạo đức (bao gồm đạo đức gia đình và đạo đức xã hội) của một bộ phận cán bộ, đảng viên, công dân chúng ta xuống cấp. Hệ quả của nó là tội phạm, là vi phạm, là cơ hội… và hiệu lực quản lý của những cán bộ, đảng viên được giao trọng trách quản lý, chỉ huy các cơ quan, tổ chức không cao và không được những người bị quản lý phục tùng.

Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đang đẩy mạnh phong trào học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, thì việc bổ sung hai yếu tố nêu trên vào mục tiêu tổng quát của thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội là cần thiết. Từ những lý do đó, chúng tôi đề nghị sửa lại đoạn 3 điểm 4 Mục II Dự thảo cương lĩnh về mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta như sau "Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là xây dựng xong về cơ bản nền kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, pháp luật, tư tưởng, văn hoá và đạo đức phù hợp, tạo cơ sở làm cho nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh".

SOURCE: CỔNG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ BỘ TƯ PHÁP

Trích dẫn từ: http://www.toaan.gov.vn/portal/page/portal/tandtc/Baiviet?p_page_id=1&p_cateid=1751909&item_id=4548081&article_details=1

Vai trò của Nhà nước trong quản lý phát triển xã hội

Ngày phát hành: 12/11/2020 Lượt xem 28706


Một số quan niệm, khái niệm chung về quản lý phát triển xã hội

Quản lý phát triển xã hội chủ yếu là hoạt động quản lý của nhà nước. Tuy nhiên, ngoài nhà nước còn có các tổ chức phi nhà nước cũng tham gia quản lý phát triển xã hội trong việc triển khai thực hiện đường lối, chủ trương, các chính sách và pháp luật của nhà nước, qua đó bảo đảm cho mọi người dân cũng như toàn bộ đời sống xã hội phát triển một cách bình thường, không để làm nảy sinh các vấn đề lớn về xã hội.

Nhà nước quản lý xã hội bằng biện pháp nào tại sao

Sự phát triển xã hội là thuộc về tất cả mọi người, do mọi người trong xã hội tự quyết định và không phải là của riêng một ai; do đó, khi bàn luận về quản lý phát triển xã hội, cần hướng tới lợi ích chung của đại đa số người dân. Do đó, quản lý phát triển xã hội cần luôn gắn với yêu cầu bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch, công bằng và bình đẳng nói riêng, cũng như tiến bộ xã hội nói chung.

Ở cấp quốc gia, quản lý phát triển là trách nhiệm chủ yếu của nhà nước. Trong quản lý phát triển, hầu hết nhà nước trên thế giới quản lý các hoạt động xã hội một cách dân chủ, công khai, minh bạch. Quản lý phát triển xã hội là công việc rất khó khăn, cực kỳ phức tạp và cần phải quản lý có phương pháp, nghệ thuật thì mới đem lại hiệu quả và thành công cho nhà nước. Như vậy, quản lý phát triển xã hội là nội dung quan trọng và là nhiệm vụ chủ yếu của quản lý xã hội ở một quốc gia.

Còn đối tượng quản lý phát triển xã hội là các thiết chế xã hội và các hoạt động của các thiết chế đó. Trong thực tế, đối tượng của quản lý phát triển xã hội chính là các thiết chế xã hội và các hoạt động của các thiết chế đó. Ngay cả thiết chế xã hội thấp nhất ở cơ sở cũng ít khi quản lý con người cá nhân, mà chỉ tập trung vào quản lý hoạt động của cá nhân với trách nhiệm cao nhất là đưa ra cảnh báo bởi các quy định của pháp luật. Thực tiễn cũng cho thấy, quản lý phát triển xã hội có hiệu quả sẽ góp phần mang lại tự do cho con người[1].

Quan niệm, khái niệm và thực trạng về quản lý phát triển xã hội ở nước ta thời gian qua

Theo một số nhà khoa học ở nước ta thì : “Quản lý phát triển xã hội là hoạt động quản lý của nhà nước và các tổ chức phi nhà nước trong việc triển khai thực hiện đường lối, chủ trương, các chính sách và pháp luật, nhằm đảm bảo cho toàn bộ đời sống xã hội phát triển bình thường, không làm nảy sinh các vấn đề xã hội”. Ngoài ra, họ còn cho rằng, quản lý phát triển xã hội là “Chìa khóa điều chỉnh sự vận hành toàn bộ hệ thống xã hội là đường lối, luật pháp và chính sách. Khi luật pháp nghiêm và công minh, quản lý tốt là quản lý để tuân thủ luật pháp; sự điều chỉnh được hạn chế tối đa. Khi luật pháp chưa hoàn thiện, thiếu công minh, ý thức pháp luật của dân chúng thấp, sự điều chỉnh cho hợp lý hoặc tối ưu là cần thiết; trường hợp này vai trò của người quản lý vô cùng quan trọng. “Lách luật” để phát triển cũng là một cách thức điều chỉnh đã từng tồn tại ở nhiều quốc gia”[2].

Một số nhà khoa học và chuyên gia khác lại cho rằng: “Quản lý phát triển xã hội là sự tác động có định hướng, có tổ chức của chủ thể quản lý đến các khách thể (con người, cộng đồng, các quan hệ xã hội, hoạt động xã hội,…) nhằm mục tiêu phát triển xã hội bền vững.”[3]

Trong thực tế, Nhà nước ta được Hiến pháp năm 2013 quy định rõ là Nhà nước “của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” và là Nhà nước “quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật”.

Quản lý xã hội của Nhà nước ta là một quá trình, với nghĩa rộng là bao hàm chủ yếu về quản lý giáo dục, y tế, văn hoá, khoa học nói chung và một số lĩnh vực liên quan, ảnh hưởng cũng như tác động không nhỏ đến chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, dân tộc, tôn giáo của đất nước. Theo chiều hướng phát triển đất nước, quản lý xã hội của Nhà nước chính là quản lý phát triển xã hội, bảo đảm cho nước ta phát triển bền vững, bao trùm, với chất lượng tăng trưởng không chỉ về kinh tế, mà bao gồm cả xã hội, vì mục tiêu trên hết là cho con người và vì con người.

Cũng theo nhiều chuyên gia, nhà quản lý ở nước ta, Nhà nước đã và đang sử dụng các công cụ pháp luật, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và bộ máy của mình để quản lý tất cả các hoạt động kinh tế - xã hội, môi trường cũng như quản lý các nguồn tài nguyên quốc gia. Qua đó, Nhà nước quản lý phát triển xã hội, góp phần vào quản lý các hoạt động đối nội và các hoạt động đối ngoại của Nhà nước ta, trong đó có quản lý các hoạt động xã hội và quản lý các hoạt động phát triển xã hội[4].

Thực trạng ở nước ta hiện nay cho thấy, Việt Nam được đánh giá là có sự ổn định chính trị và ổn định xã hội ở mức cao. Các quy định pháp luật của Nhà nước nói chung là tương đối đầy đủ để triển khai việc quản lý phát triển xã hội.

Tuy nhiên, hiệu lực của Nhà nước nói chung là chưa đủ mạnh để thực hiện có hiệu quả trong thực tế việc quản lý phát triển xã hội. Nhà nước vẫn quản lý phát triển xã hội chủ yếu theo phương thức bao cấp trách nhiệm dân sự của công dân hay nói cách khác là vẫn đang hành chính hóa các quan hệ dân sự; vì vậy, có thể nói phương thức quản lý này là chưa phù hợp với tính chất, đặc điểm của nền kinh tế thị trường và làm bộ máy quản lý hành chính của Nhà nước ta ngày càng cồng kềnh hơn[5].

Đặc biệt, Văn kiện Đại hội XII đã nhấn mạnh về những hạn chế và yếu kém của Nhà nước trong quản lý phát triển xã hội:

“Quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội còn nhiều hạn chế, khuyết điểm. Sự phát triển các lĩnh vực, các vùng, miền thiếu đồng bộ. Việc giải quyết một số vấn đề xã hội chưa hiệu quả; mục tiêu xây dựng quan hệ hài hòa giữa các lĩnh vực, ngành nghề, vùng, miền chưa đạt yêu cầu; giảm nghèo chưa bền vững, chênh lệch giàu - nghèo và bất bình đẳng có xu hướng gia tăng. Chưa nhận thức đầy đủ vai trò của phát triển xã hội hài hòa, chưa có chính sách, giải pháp kịp thời, hiệu quả đối với vấn đề biến đổi cơ cấu, phân hóa giàu - nghèo, phân tầng xã hội, kiểm soát rủi ro, giải quyết mâu thuẫn xã hội, bảo đảm an toàn xã hội, an ninh cho con người”[6].

Trong Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã chỉ rõ :“ Quản lý phát triển xã hội và giải quyết một số vấn đề xã hội chưa được quan tâm đúng tầm; chưa kết hợp đồng bộ, chặt chẽ trong quá trình phát triển kinh tế, văn hóa; thể chế, quản lý xã hội còn nhiều bất cập; tình trạng gia tăng tội phạm, tệ nạn xã hội; tiêu cực xã hội, mâu thuẫn xã hội… gây bức xúc trong dư luận nhân dân. Chưa có giải pháp để xử lý hữu hiệu những vấn đề về kiểm soát thu nhập, phân hóa giàu – nghèo, gia tăng bất bình đẳng, kiểm soát và xử lý các mâu thuẫn xã hội, xung đột xã hội phát sinh; giảm nghèo còn chưa bền vững…”[7]

Thực tế cho thấy, ngay trong nửa cuối năm 2020, nhất là dưới tác động của đại dịch Covid-19 và bão lũ ở miền Trung, việc quản lý phát triển xã hội ở nước ta đã bộc lộ rõ hơn những yếu kém, hạn chế trong nhiều lĩnh vực như giáo dục, y tế, trật tự an toàn, an ninh và an sinh xã hội, lao động và việc làm, bảo trợ xã hội,…[8]

Có thể thấy ngay một trong những nguyên nhân chủ quan và là nguyên nhân chủ yếu về công tác quản lý phát triển xã hội của Nhà nước ta còn những hạn chế, yếu kém trong thời gian qua là do việc chậm tiến hành phân cấp, cũng như chưa phân chia rõ ràng quyền lực và trách nhiệm giữa Trung ương và địa phương. Hơn nữa, sự phân chia hay tập trung quyền lực và trách nhiệm giải trình ở một số cơ quan quản lý nhà nước còn chưa thống nhất và cụ thể hoá, dẫn đến hiệu lực và hiệu quả trong quản lý phát triển xã hội của Nhà nước còn thấp.

Một số đề xuất, kiến nghị

(1) Cần tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện, thể chế hoá và cụ thể hơn chức năng xã hội của Nhà nước để Nhà nước thực sự là chủ thể đặc biệt quản lý xã hội và quản lý phát triển xã hội, phù hợp với các giai đoạn phát triển của đất nước, bảo đảm sớm hiện thực hoá mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

(2) Để quản lý phát triển xã hội có hiệu quả, trước hết Nhà nước ta cần có cơ chế, các quy định pháp luật để xây dựng và hoàn thiện các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ công và cạnh tranh bình đẳng với nhau, qua đó mang lại lợi ích lớn nhất cho người dân, đặc biệt là các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ công phi lợi nhuận; khuyến khích các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ công cho xã hội, trước hết là các dịch vụ ở đô thị, dần tiến tới là dịch vụ ở nông thôn mà chủ yếu trong các lĩnh vực y tế, giáo dục, văn hóa, thể thao, khoa học công nghệ và kỹ thuật, cũng như hỗ trợ pháp lý, hỗ trợ thông tin thị trường, khuyến nông, khuyến ngư,…

Trong thời gian tới, trên cơ sở hoàn thiện các quy định pháp luật, Nhà nước chỉ nên tập trung vào thực hiện vai trò, chức năng giám sát hoạt động của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ công.

(3) Để quản lý phát triển xã hội có chất lượng hơn, Nhà nước cần có một tổ chức đánh giá chất lượng độc lập, để bảo đảm đánh giá khách quan và kiểm soát đối với cơ quan quản lý nhà nước thực hiện chức năng giám sát hoạt động các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ công.

Ngoài ra, quá trình quản lý phát triển xã hội của Nhà nước chỉ có thể bảo đảm chất lượng khi mà Nhà nước tạo điều kiện rộng rãi cho các tổ chức cũng như mọi thành viên trong xã hội tham gia chủ động và tích cực vào phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội.

(4) Trong quản lý phát triển xã hội ở nước ta, Nhà nước cần tập trung đẩy nhanh việc tiến hành phân cấp, cũng như phân chia rõ ràng hơn quyền lực và trách nhiệm giữa Trung ương và địa phương.

Tuy nhiên, việc phân chia hay tập trung quyền lực và trách nhiệm phải bảo đảm sự thống nhất, tạo hiệu lực và hiệu quả cao cho phát triển, đồng thời tránh được việc phân tán, lãng phí nguồn lực, hay buông lỏng quản lý.

(5) Trong thời gian tới, hoạt động quản lý phát triển xã hội ở nước ta cần được Nhà nước triển khai rộng rãi hơn thông qua việc sử dụng, ứng dụng công nghệ hiện đại./.

Nguyễn Hồng Sơn

Hội đồng Lý luận TW



[1] Bộ Khoa học và Công nghệ, Chương trình KX.01/06-10, PGS. TSKH. Võ Đại Lược (Chủ biên), Những vấn đề cơ bản của phát triển kinh tế Việt Nam đến năm 2020, Nhà Xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội – 2011

[2] GS. TS Nguyễn Đăng Thuấn (chủ biên), Mô hình quản lý phát triển xã hội ở nước ta hiện nay, Chuyên đề số 10, Hà Nội - 2018.

[3] GS. TS. Phùng Hữu Phú - PGS. TSKH. Nguyễn Văn Đặng - PGS. TS Nguyễn Viết Thông, Tìm hiểu một số thuật ngữ trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Nhà Xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội – 2016, tr260.

[4] PGS. TS. Ngô Doãn Vịnh, Giải thích thuật ngữ trong nghiên cứu phát triển (Bối cảnh và điều kiện của Việt Nam), Nhà Xuất bản Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội – 2013, tr54.

[5] Bộ Khoa học và Công nghệ, Chương trình KX.01/06-10, PGS. TSKH. Võ Đại Lược (Chủ biên), Những vấn đề cơ bản của phát triển kinh tế Việt Nam đến năm 2020, Nhà Xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội – 2011

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Nxb. CTQG. Tr. 132-139

[7] Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 4-2020), Dự thảo Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; tr. 16.

[8] Ban Chấp hành Trung ương, Kết luận Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương Đản khóa XII về tình hình kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước năm 2020; phương hướng, nhiệm vụ năm 2021, ngày 22-10-2020; tr.3.