Nội dung của quản trị kỹ thuật công nghệ trong doanh nghiệp

Công nghệ và đổi mới công nghệ

Công nghệ trong các doanh nghiệp

Trong thời kỳ đầu của quá trình công nghiệp hoá người ta quan tâm đến công nghệ là các phương pháp giải pháp kĩ thuật trong các dây truyền sản xuất. Từ khi xuất hiện các quan hệ thương mại thì công nghiệp được hiểu theo nghĩa rộng hơn. Có thể hiểu công nghệ là tổng hợp các phương tiện kỹ thuật, kỹ năng, phương pháp dùng để chuyển hóa các nguồn lực thành một loại sản phẩm nào đó. Công nghệ gồm 4 thành phần cơ bản.

  • Công cụ, máy móc, thiết bị, vật liệu. Nó gọi là phẩn cứng của công nghệ.
  • Thông tin, phương pháp, quy trình bí quyết.
  • Tổ chức điều hành, phối hợp, quản lý.
  • Con người.

( ba bộ phận sau gọi là phần mềm công nghệ ).

Bât kỳ quá trình sản xuất nào đều phải đảm bảo 4 thành phần trên. Mỗi thành phần đảm nhiệm những chức năng nhất định. Trong đó thành phần trang thiết bị được coi là xương sống, cốt lõi của quá trình hoạt động nhưng nó lại do con người lắp đặt và vận hành. Thành phần con người được coi là nhân tố chìa khoá của nhân tố hoạt động sản xuất nhưng lại phải hoạt động theo hướng dẫn do thành phần thông tin cung cấp. Thành phần thông tin là cơ sở hướng dẫn người lao động vận hành các máy móc thiết bị và đưa ra các quyết định. Thành phần tổ chức có nhiệm vụ liên kêt các thành phần trên, động viên người lao động nâng cao hiệu quả sản xuất.

Tuy khoa học và công nghệ có nội dung khác nhau nhưng lại có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Mối liên hệ này được phát triển qua các giai đoạn khác nhau của lịch sử. Vào thế kỷ 17 – 18, khoa học kỹ thuật tiến hoá theo những con đường riêng, có những mặt kỹ thuật đi trước khoa học. Ví dụ, năm 1784 máy hơi nước của Giêm Oat ra đời trước khi có nguyên lý “ nhiệt động học “ của Các nô. Hoặc kỹ thuật nên men rượu đã được sử dụng từ lâu trước khi có khoa học vi trùng của Paster. Vào thế kỷ 19 khoa học kỹ thuật bắt đầu có sự tiếp cận, mỗi khó khăn của kỹ thuật gợi ý cho sự nghiên cứu khoa học và ngược lại những phát minh khoa học tạo điều kiện cho nghiên cứu ứng dụng.

Quan niệm về đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp

Đổi mới công nghệ là quá trình phát minh phát triển và dựa vào thị trường những sản phẩm mới, quá trình đổi mới công nghệ mới. Hoạt động đổi mới công nghệ bao gồm hai nội dung cơ bản.

Đổi mới sản phẩm

Đổi mới sản phẩm là việc tạo ra một sản phẩm hoàn toàn mới, hoặc cải tiến các sản phẩm truyền thống của công ty mình. Việc tạo ra một sản phẩm mới rất khó khăn.Trước hết phải đảm bảo được những điều kiện tiền đề. Đó là, có đầy đủ thông tin về yêu cầu của thị trường cũng như thông tin về kết quả đã đạt được của các công ty khác, phải có nguồn chi phí lớn để tạo ra cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động này; có đội ngũ cán bộ và công nhân kỹ thuật có khả năng triển khai hoạt động.

Sau khi chuẩn bị đầy đủ mọi điều kiện tiền đề hoạt động này thường trải qua 4 giai đoạn :

  • Trước hết, nghiên cứu xác định khả năng sản xuất sản phẩm mới và luận chứng kinh tế - kỹ thuật.
  • Tiếp theo tiến hành thiết kế sản phẩm mới, xác định các thông số kỹ thuật và quy trình công nghệ.
  • Sau đó tổ chức sản xuất thử và xác định chi phí sản xuất.
  • Cuối cùng thăm dò thị trường và sản xuất hàng loạt.

Nội dung của quản trị kỹ thuật công nghệ trong doanh nghiệp

Kết quả cải tiến sản phẩm

Đổi mới quy trình sản xuất

Tiến bộ công nghệ đối với các nước đang phát triển được tập trung chủ yếu vào việc cải tiến hiệu quy trình công nghệ. Việc cải tiến này cho phép nâng cao năng suất của người lao động. Điều này thể hiện qua việc kết quả cải tiến quy trình sản xuất chuyển dịch sang phải của đường cung phản ánh khả năng nâng cao năng lực sản xuất.

 

Nội dung của quản trị kỹ thuật công nghệ trong doanh nghiệp

Kết quả cải tiến quy trình sản xuất

Năng lực sản xuất và nâng cao năng lực sản xuất trong các doanh nghiệp

Năng lực sản xuất trong các doanh nghiệp

Năng lực sản xuất của một doanh nghiệp là khả năng hay trình độ doanh nghiệp đó trong việc phối , kết hợp các yếu tố của quá trình sản xuất và lực lượng lao động công cụ lao động và đối tượng lao động để tạo ra những sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường từ nguồn lực có sẵn của doanh nghiệp.

Chúng ta cần phải chú ý năng lực sản xuất của một doanh nghiệp không đồng nhất với quy mô của doanh nghiệp đó mà năng lực sản xuất chính là biểu hiện bằng những chỉ tiêu hiệu quả quá trình sản xuất kinh doanh như năng suất lao động , suất hao phí vốn , thời hạn hoàn vốn đầu tư … Một doanh nghiệp có thể có quy mô lớn chưa chắc đã có năng lực sản xuất, nó chỉ có năng lực sản xuất khi hiệu quả sản xuất của nó cao. Năng lực sản xuất của một doanh nghiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố như máy móc thiết bị, nguyên vật liệu đầu vào …ở đây chúng ta chỉ xem xét tới yếu tố máy móc thiết bị với tư cách là yếu tố trực tiếp trong quá trình sản xuất.

Nâng cao năng lực sản xuất trong các doanh nghiệp

Năng lực sản xuất của các doanh nghiệp được đánh giá bởi nhiều chỉ tiêu khác nhau như năng suất lao động, hiệu quả sử dụng vốn cố định, vốn lưu động... Có nhiều nguyên nhân ảnh hưởng đến năng lực sản xuất như trình độ người lao động, trình dộ quản lý và đặc biệt là khả năng áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất . Nâng cao năng lực sản xuất trong các doanh nghiệp sẽ giúp nâng cao năng lực công nghệ từ đó giúp doanh nghiệp tăng khả năng áp dụng những thành tựu khoa học công nghệ mới vào trong sản xuất , từ đó tăng khả năng đổi mới công nghệ trong doanh nghiệp .

Vai trò của đổi mới công nghệ tới năng lực sản xuất

Như đã giới thiệu ở trên, máy móc thiết bị là một trong những yếu tố tham gia trực tiếp của quá trình sản xuất chính vì thế việc hiện đại hoá máy móc thiết bị hay đổi mới công nghệ là hết sức quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp. Một doanh nghiệp sản xuất công nghiệp muốn tồn tại và phát triển được cần phải xây dựng cho mình một kế hoạch đổi mới công nghệ. Tiến bộ khoa học công nghệ, đổi mới công nghệ sẽ cho phép nâng cao chất lượng sản phẩm tạo ra nhiều sản phẩm mới, đa dạng hoá sản phẩm, tăng sản lượng, tăng năng suất lao động, sử dụng hợp lý tiết kiệm nguyên vật liệu …Nhờ vậy sẽ tăng khả năng cạnh tranh , mở rộng thị trường, thúc đẩy tăng trưởng nhanh và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Tiến bộ khoa học công nghệ , đổi mới công nghệ thực sự là hướng đi đúng đắn của một doanh nghiệp công nghiệp giàu tiềm năng.

(Sưu tầm)

Nội dung của quản trị kỹ thuật công nghệ trong doanh nghiệp

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet

Quản trị đổi mới công nghệ trong doanh nghiệp Việt Nam hiện nay

ThS. Phạm Trung Hải - Đại học Kinh tế Kỹ thuật Công nghiệp

10:00 25/04/2018

Nâng cao năng lực quản trị công nghệ và cập nhật công nghệ đối với doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh, nhất là trước xu thế toàn cầu hóa và hội nhập hiện nay. Quản trị công nghệ giúp cho doanh nghiệp hiểu rõ năng lực của đối thủ và đi trước đối thủ một bước trong đổi mới công nghệ, có các quyết định chính xác mang tính chiến lược về tài chính và phân phối vốn nhằm tăng cường hiệu quả sản xuất kinh doanh, tạo lợi thế cạnh tranh doanh nghiệp… Trao đổi về việc quản trị đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, bài viết đưa ra một số đề xuất nhằm nâng cao công tác quản trị đổi mới công nghệ trong doanh nghiệp.

Những yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của nhân viên các doanh nghiệp kiểm toán

Một số giải pháp phát triển dịch vụ bảo hiểm phi nhân thọ tại Việt Nam

Nâng cao hiệu quả tổ chức bộ máy kiểm toán nội bộ trong các doanh nghiệp Việt Nam

Phát triển thị trường khoa học và công nghệ tại TP. Hà Nội: thực trạng và giải pháp

Tầm quan trọng quản trị đổi mới công nghệ trong doanh nghiệp

Theo ThS. Nguyễn Thị Bích Liên (2017), đổi mới công nghệ là việc chủ động thay thế một phần hay toàn bộ công nghệ đang được sử dụng bằng một công nghệ khác tiên tiến hơn nhằm nâng cao hiệu quả của sản xuất - kinh doanh.

Quan điểm chung đều nhấn mạnh yêu cầu đối với một doanh nghiệp (DN) được xem là đã đổi mới công nghệ là sản phẩm mới phải được đưa ra thị trường (đổi mới sản phẩm), hoặc một quy trình sản xuất mới được đưa vào ứng dụng trong sản xuất - kinh doanh (đổi mới quy trình).

Thực tiễn những năm qua cho thấy, đổi mới công nghệ là một trong những biện pháp hàng đầu giúp DN nâng cao năng suất, hiệu quả, khả năng cạnh tranh, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng và kết hàng loạt hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương.

Đổi mới công nghệ tạo điều kiện cho DN mở rộng thị trường sản phẩm, đồng thời góp phần thúc đẩy hoạt động nghiên cứu và phát triển nhằm tạo ra các sản phẩm mới, quy trình mới, công nghệ mới.

Nhờ đổi mới công nghệ, chất lượng sản phẩm được nâng lên đồng nghĩa với việc DN sẽ tạo được vị thế bền vững trên thị trường. Đổi mới công nghệ giúp giảm chi phí, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh đang ngày càng mang tính sống còn hơn với các DN. Việc ứng dụng công nghệ hiện đại, công nghệ cao trở thành “kim chỉ nam” cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của DN.

Trước xu thế hội nhập sâu rộng cùng khu vực và thế giới của Việt Nam hiện nay, vai trò của quản trị công nghệ trong sản xuất kinh doanh rất lớn như: Bảo vệ được các hoạt động kinh doanh sẵn có sẽ đảm bảo được vị trí cạnh tranh đang có của DN và sản phẩm dịch vụ của DN; Tạo ra cơ hội kinh doanh mới.

Nội dung của quản trị kỹ thuật công nghệ trong doanh nghiệp

Thông qua việc quản trị đổi mới công nghệ, các nhà quản trị nhận dạng được cơ hội thị trường và phát triển công nghệ, giúp cho DN quyết định được là nên duy trì hay thay đổi các hoạt động kinh doanh, công nghệ, sản phẩm hiện tại, mở rộng sản xuất, hay cần có công nghệ, sản phẩm mới...

Bên cạnh đó, quản trị công nghệ giúp DN đánh giá được một số vấn đề trong tương lai để hoạt động có hiệu quả. Những dự báo này cho thấy sự thay đổi trong tương lai gắn với sự phát triển kinh tế, chính trị và xã hội và giúp cho DN thấy được ai sẽ là đối thủ cạnh tranh trong trung và dài hạn. Quản trị công nghệ cũng giúp DN giảm thiểu rủi ro khi đưa ra quyết định bởi các dự án, nhất là các dự án đổi mới sáng tạo đều có thể gặp rủi ro và chứa đựng nhiều yếu tố không chắc chắn.

Từ đó, quản trị công nghệ tốt có thể bảo đảm rằng các quyết định đưa ra đã qua một quá trình phân tích sáng suốt. Doanh nghiệp cần thấy rõ được vai trò của quản trị công nghệ là tiến trình liên kết các lĩnh vực khác nhau nhằm hoạch định, phát triển, thực hiện, giám sát và kiểm soát năng lực của mình. Từ đó, hình thành và thực thi các mục tiêu chiến lược phát triển cụ thể trong quá trình sản xuất kinh doanh, mỗi DN cần phải hoạch định rõ mục tiêu quản trị công nghệ.

Theo Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, quản trị công nghệ giúp cho DN giành chiến thắng khi tung ra một sản phẩm mới hay một chiêu thức marketing mới nhằm thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm hiện có; Giúp cho DN hiểu rõ năng lực của đối thủ và đi trước đối thủ một bước trong việc đổi mới công nghệ.

Quản trị công nghệ tốt sẽ giúp DN nhìn nhận rõ năng lực thực sự của mình nhằm khắc phục các điểm yếu, nhằm phát huy các điểm mạnh. Từ đó, DN có các quyết định chính xác mang tính chiến lược về tài chính và phân phối vốn cũng như có những quyết định khôn khéo và tăng cường hiệu quả sản xuất kinh doanh, tạo lợi thế cạnh tranh DN và đảm bảo nguồn nhân lực phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình...

Thực trạng quản trị đổi mới công nghệ trong doanh nghiệp

Những năm qua, Đảng và Nhà nước đặc biệt coi trọng việc thúc đẩy, hỗ trợ hoạt động đổi mới công nghệ trong DN. Ngày 01/11/2012, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 20/NQ-TW về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế.

Nghị quyết này đã đặt ra mục tiêu cụ thể đến năm 2020, thông qua yếu tố năng suất tổng hợp (TFP) hoạt động khoa học và công nghệ đóng góp khoảng 35% tăng trưởng kinh tế; Xây dựng được một số sản phẩm quốc gia mang thương hiệu Việt Nam; Giá trị sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao đạt khoảng 40% tổng giá trị sản xuất công nghiệp; Tốc độ đổi mới công nghệ, thiết bị đạt khoảng 20%/năm...

Ngày 10/5/2011, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 677/QĐ-TTg về việc phê duyệt chương trình đổi mới công nghệ quốc gia đến năm 2020 với mục tiêu cụ thể đến năm 2020: Số lượng DN thực hiện đổi mới công nghệ tăng trung bình 15%/năm, trong đó có 5% DN ứng dụng công nghệ cao; 100% DN sản xuất sản phẩm chủ lực, sản phẩm trọng điểm, sản phẩm quốc gia làm chủ và tạo ra được công nghệ tiên tiến để sản xuất sản phẩm…

Nội dung của quản trị kỹ thuật công nghệ trong doanh nghiệp

Ngày 11/4/2012, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục ban hành Quyết định số 418/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ giai đoạn 2011-2020 với mục tiêu giai đoạn 2011-2020 tốc độ đổi mới công nghệ, thiết bị giai đoạn 2011-2015 đạt 10-15% và giai đoạn 2016-2020 đạt 20%.

Mới đây, ngày 16/6/2015, để hỗ trợ DN trong quản trị công nghệ và cập nhật công nghệ, Quỹ Đổi mới công nghệ Quốc gia (Bộ Khoa học Công nghệ) đã được ra mắt với số vốn 1.000 tỷ đồng nhằm hỗ trợ, tài trợ các dự án của DN và cho DN vay được triển khai vào năm 2017…

Trong nhiều năm qua, Chính phủ luôn xác định lấy DN là trung tâm của đổi mới khoa học và công nghệ, xây dựng và triển khai các chính sách hỗ trợ của Nhà nước thông qua việc hình thành các Quỹ phát triển khoa học và công nghệ, Quỹ Đổi công nghệ Quốc gia, các Quỹ hỗ trợ DN vừa và nhỏ từ quy mô quốc gia đến quy mô địa phương, các chương trình quốc gia thuộc các bộ, ngành.

Điều này thể hiện quyết tâm của Chính phủ cũng như của các bộ, ngành trong việc tập trung nỗ lực nâng cao chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng lấy khoa học và công nghệ và hoạt động đổi mới sáng tạo làm nền tảng, tạo động lực cho sự phát triển bền vững của đất nước.

Tuy nhiên, năng lực đổi mới công nghệ của các DN Việt Nam còn khiêm tốn so với các DN các nước trong khu vực và trên thế giới. Việc DN Việt Nam chủ yếu tham gia ở phân khúc thị trường có giá trị gia tăng thấp, khiến DN thường chậm đổi mới về công nghệ.

Các DN nhỏ và vừa - đại diện cho phần lớn khu vực tư nhân trong nước thường thiếu công nghệ cần thiết để tăng năng suất. Hiện nay, máy móc, thiết bị đang được sử dụng ở khu vực DN tư nhân chỉ có 10% hiện đại, 38% trung bình, 52% lạc hậu và rất lạc hậu.

Hầu hết DN thiếu vốn để đầu tư đổi mới công nghệ. Kinh phí cho nghiên cứu và phát triển của các DN Việt Nam chỉ ở mức trung bình. Cụ thể, các DN Việt chỉ chi 1,6% doanh thu hàng năm cho R&D, trong khi tỷ lệ này ở Campuchia là 1,9%, Lào 14,5%.

So với Philippines và Malaysia, Việt Nam cũng thua kém khi mà tỷ lệ dành tiền cho hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) của các DN ở hai nước này lần lượt là 3,6% và 2,6%.

Ngoài ra, dù đã nỗ lực ban hành và thực thi nhiều chính sách hỗ trợ, song đầu tư của Nhà nước và xã hội cho khoa học công nghệ chưa tương xứng, chưa huy động được nguồn vốn ngoài ngân sách. Cơ chế quản lý có đổi mới nhưng chưa theo kịp với các đòi hỏi của cơ chế thị trường…

Doanh nghiệp chưa quan tâm đến quản trị đổi mới công nghệ

Đầu tư cho công nghệ dù mang lại nhiều lợi ích, nhưng trên thực tế, đổi mới công nghệ không phải là điều dễ dàng với nhiều DN. Hiện nay, việc DN chưa quan tâm nhiều đến quản trị đổi mới công nghệ bắt nguồn từ một số nguyên nhân căn bản sau:

Một là, nguồn lực tài chính còn hạn chế. Hầu hết các DN vẫn còn thiếu về nguồn lực tài chính để triển khai đầu tư đổi mới công nghệ. Hiện 96% DN Việt Nam là DN nhỏ và vừa, trong số đó, các DN sản xuất trực tiếp chỉ chiếm tỷ lệ thấp.

Do quy mô nhỏ, tiềm lực tài chính hạn hẹp nên năng lực đổi mới công nghệ của các DN nhỏ và vừa cũng rất hạn chế.Thống kê cho thấy, kinh phí cho nghiên cứu và phát triển của các DN Việt Nam chỉ ở mức trung bình và thấp hơn nhiều quốc gia trong khu vực.

Nội dung của quản trị kỹ thuật công nghệ trong doanh nghiệp

Hai là, DN chưa quan tâm đến hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) khoa học công nghệ để năng cao sức cạnh tranh và thúc đẩy phát triển. Theo nghiên cứu “Tăng cường sức cạnh tranh và liên kết DN vừa và nhỏ” mà Ngân hàng Thế giới (WB) vừa công bố mới đây, mức chi trả cho hoạt động R&D của DN Việt Nam đang kém hơn so với Campuchia và thuộc “top” dưới trong khối các nước Đông Nam Á.

Cụ thể, các DN Việt chỉ chi 1,6% doanh thu hàng năm cho R&D, trong khi tỷ lệ này ở Campuchia là 1,9%, Lào 14,5%. So với Philippines và Malaysia, Việt Nam cũng thua kém khi mà tỷ lệ dành tiền cho R&D của các DN ở hai nước này lần lượt là 3,6% và 2,6%.

Với việc không coi trọng R&D như vậy, báo cáo chỉ ra rằng chỉ có khoảng 23% các DN Việt Nam đã tuyên bố đã giới thiệu một sản phẩm, dịch vụ mới hoặc được cải thiện sản phẩm trong vòng 3 năm gần đây. Xét về tổng quan, khi so sánh với các DN trong cùng khu vực, WB tổng kết rằng các mức độ về đổi mới sản phẩm, đổi mới quy trình, tỷ lệ chi cho R&D của DN Việt Nam đều ở vào mức trung bình tại Đông Nam Á. Ngoài ra, ở Việt Nam chỉ có 26% DN vừa và lớn tuyên bố có chi cho đầu tư R&D, trong khi chỉ có 9% DN nhỏ thực hiện điều này.

Ba là, các chính sách về hỗ trợ cải tiến, đổi mới công nghệ chưa thực sự hấp dẫn, chưa có đủ cơ sở pháp lý để thúc đẩy và thu hút DN đầu tư đổi mới công nghệ. Nhiều DN cho rằng, chương trình hỗ trợ DN đổi mới công nghệ của Chính phủ rất thiết thực, song DN khó tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi, lĩnh vực được hỗ trợ còn bó hẹp, điều kiện hỗ trợ khắt khe và một số chủ trương của Nhà nước cũng vướng mắc khi triển khai vào thực tế...

Bốn là, các DN, đặc biệt là các DN nhỏ và vừa cũng đối mặt với hàng loạt khó khăn, rào cản khi đổi mới, ứng dụng công nghệ cao vào hoạt động sản xuất, kinh doanh như: Thiếu nhân lực trình độ, thiếu vốn đầu tư, thiếu thông tin; Không biết đánh giá như thế nào để lựa chọn công nghệ thích hợp nên chi phí đầu tư thường cao hơn so với giá trị thương mại của công nghệ mua về; Chưa quen có kinh nghiệm trong việc lựa chọn hình thức phù hợp để mua công nghệ và đàm phán hợp đồng chuyển giao công nghệ với các nhà cung cấp; Chưa chú trọng đầu tư cho các hoạt động thích nghi, làm chủ và cải tiến công nghệ mua về nên hiệu quả ứng dụng chưa cao…

Một số kiến nghị và đề xuất

Nhằm nâng cao công tác quản trị đổi mới công nghệ trong DN, thời gian tới cần chú ý một số vấn đề sau:

Thứ nhất, cần nhận thức đúng đắn về yêu cầu đổi mới công nghệ. DN cần đóng vai trò chủ động, là trung tâm của hoạt động đổi mới công nghệ. Đổi mới công nghệ là nhu cầu tự thân vận động của DN, Nhà nước chỉ tạo môi trường pháp lý thuận lợi chứ không làm thay.

Thứ hai, thực hiện hiệu quả và đồng bộ các cơ chế, chính sách khuyến khích DN, đặc biệt là chính sách hỗ trợ về tài chính nhằm thúc đẩy DN triển khai các hoạt động đổi mới công nghệ và cải thiện năng lực quản trị công nghệ.

Thứ ba, chú trọng tổ chức đào tạo về quản lý công nghệ, quản trị công nghệ và cập nhật công nghệ mới cho DN; tăng cường bồi dưỡng, cập nhật kiến thức về đổi mới công nghệ cho cán bộ quản lý DN.

Thứ tư, hỗ trợ DN nghiên cứu, sản xuất thử nghiệm, ứng dụng công nghệ tiên tiến, đào tạo, thuê chuyên gia thiết kế, sản xuất sản phẩm mới và thay đổi quy trình công nghệ. Hỗ trợ hình thành các cơ sở ươm tạo DN khoa học và công nghệ nghiên cứu, ứng dụng và sản xuất sản phẩm mới. Hỗ trợ DN kinh phí sử dụng các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia để nghiên cứu, thiết kế và chế tạo các sản phẩm mới.

Thứ năm, tạo điều kiện thuận lợi để các DN Việt Nam hợp tác với các tổ chức khoa học và công nghệ, cá nhân và DN nước ngoài phát triển công nghệ, tham gia các triển lãm, hội chợ công nghệ và thiết bị ở nước ngoài. Tổ chức, phối hợp và hỗ trợ các DN trong việc hợp tác với các tổ chức, cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ để giải mã làm chủ công nghệ nhập khẩu nhằm nâng cao khả năng quản trị công nghệ.

Tài liệu tham khảo:

1. Ban Chấp hành Trung ương khóa XI (2012), Nghị quyết số 20/NQ-TW ngày 01/11/2012 về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội nhập quốc tế;

2. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 677/QĐ-TTg ngày 10/5/2011 về việc phê duyệt Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia đến năm 2020;

3. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 418/QĐ-TTg ngày 11/4/2012 phê duyệt Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ giai đoạn 2011-2020;

4. ThS. Nguyễn Thị Bích Liên (2017), Cách thức đổi mới công nghệ của DN nhỏ và vừa, Đại học Vinh;

5. Bình An (2017), DN cần nâng cao năng lực quản trị công nghệ và cập nhật công nghệ, Báo Kinh tế Đô thị;

6. Thanh Hồ (2017), DN chậm đổi mới công nghệ, Petrotimes.

In bài viết

Quản trị công nghệ doanh nghiệp doanh nghiệp nhỏ và vừa hiệp định thương mại

THÔNG TIN CẦN QUAN TÂM

  • Nội dung của quản trị kỹ thuật công nghệ trong doanh nghiệp

    DATC tập trung xây dựng chiến lược cho giai đoạn mới

  • Nội dung của quản trị kỹ thuật công nghệ trong doanh nghiệp

    Sẽ có nguyên tắc mới về bàn giao, tiếp nhận nợ và tài sản cho DATC

  • Nội dung của quản trị kỹ thuật công nghệ trong doanh nghiệp

    Mở rộng quyền sử dụng vốn cho DATC thực hiện nhiệm vụ

Tin nổi bật

Nội dung của quản trị kỹ thuật công nghệ trong doanh nghiệp

Nâng cao vai trò định hướng của nguồn lực tài chính nhà nước trong đầu tư phát triển kinh tế - xã hội

Nội dung của quản trị kỹ thuật công nghệ trong doanh nghiệp

Phát triển lành mạnh dịch vụ thuế ở Việt Nam

Nội dung của quản trị kỹ thuật công nghệ trong doanh nghiệp

Công ty TNHH Phương Trang Đà Lạt được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba

Nội dung của quản trị kỹ thuật công nghệ trong doanh nghiệp

Chính sách bảo vệ người tiêu dùng tài chính tại Việt Nam

Nội dung của quản trị kỹ thuật công nghệ trong doanh nghiệp

Bộ Tài chính đề xuất nhiều quy định mới tăng tính công khai, minh bạch thị trường trái phiếu doanh nghiệp