Phage xâm nhập vào tế bào chủ bằng cách nào

Thể thực khuẩn M13 [Enterobacteria phage M13] là loại thể thực khuẩn dạng sợi có một phân tử DNA mạch đơn [ssDNA], ký sinh ở trực khuẩn Escherichia coli.[1][2] Ở dạng tiền xâm nhập, mỗi M13 là một sợi dài khoảng 700 nm và rộng khoảng 6 nm, nhỏ hơn vật chủ của nó hàng nghìn lần.[3] DNA của nó có cấu trúc vòng tương tự như plasmit, nên còn được gọi là plasmit M13.[4] M13 xâm nhập vào vách tế bào E. coli, làm tế bào chủ tiết ra enzym phân huỷ lớp vỏ prôtêin của nó, nhờ đó plasmit M13 thoát ra và có thể xâm nhập sâu hơn nữa vào tế bào chủ.[2][5] Trong nghiên cứu sinh học phân tử và kỹ thuật di truyền, các plasmit M13 được sử dụng trong quá trình DNA tái tổ hợp và nhiều ứng dụng công nghệ nano.[6][7]

Thể thực khuẩn M13

Màu lam: P3. Nâu: P6. Đỏ: P7. Vàng: P8. Chanh: P9. Tím: DNA sợi đơn vòng.

Phân loại virusNhóm: Nhóm II [ssDNA]Họ [familia]InoviridaeChi [genus]InovirusSpecies

Enterobacteria phage M13

Mỗi "con" M13 ở dạng tiền xâm nhập gồm hai thành phần chính: vỏ prôtêin và lõi DNA.

  • Vỏ gồm hai lớp chính, do khoảng sáu loại prôtêin họp thành.
    • Lớp vỏ trong cùng cấu tạo từ prôtêin P8. Mỗi phân tử P8 gồm khoảng 50 amino acid được mã hóa bởi gen G8P trong bộ gen của nó. Lớp vỏ trong này ở M13 hoang dã, gồm tới khoảng 2700 phân tử, để tạo ra lớp vỏ có thể dài tới 900 nm hoặc hơn nữa.[3] Kích thước này không cố định mà rất linh hoạt, được nó điều chỉnh cho phù hợp với lõi DNA bên trong. Chẳng hạn, khi bộ gen M13 co lại từ 6,4 kb xuống chỉ còn 221 b, thì lớp vỏ cũng ngắn lại tương ứng.[8]
    • Có bốn loại prôtêin khác phủ trên bề mặt M13 tạo thành lớp vỏ ngoài, trong đó P7 và P9 phủ ở hai đầu như hai chiếc "chổi cùn". Những prôtêin này rất nhỏ, chỉ chứa khoảng 30 - 33 amino acid, mặc dù phần đầu N của mỗi loại này có thể được bổ sung thêm chút ít amino acid trong quá trình sống của nó.
    • Ở đầu kia của M13 là năm phân tử P3 xen kẽ với P6, tạo thành khối prôtêin đầu tiên tương tác với vật chủ E. coli trong quá trình lây nhiễm.
  • Lõi của M13 là một phân tử DNA vòng, mạch đơn gồm 6407 nuclêôtit được gói gọn trong lớp vỏ của prôtêin P8 và phủ bên ngoài cùng bởi nhiều vỏ prôtêin nhỏ khác là P3, P6, P7, P8, P9 như trên đã trình bày.
  • P8 [cũng viết PVIII] gọi là "capsid protein G8P" được mã hoá bởi gen 8 của nó.
  • Quá trình xâm nhập ban đầu của MP3 thực hiện nhờ protein P3 của nó gắn vào thụ thể ở đầu sợi pilus F ở màng tế bào chủ Escherichia coli [vật chủ đặc trưng của nó], kích thích tế bào chủ tiết ra enzym tự phân huỷ lớp vỏ prôtêin của nó, nhờ đó DNA của nó [sợi cha mẹ] xâm nhập vào tế bào chất. Sau đó, quá trình nhân đôi DNA M13 ở E. coli theo các bước chính như sau.
  1. DNA ban đầu của nó gọi là sợi cha mẹ [parental replicative, viết tắt là RF] kí hiệu là "+", sau khi đã ở tế bào chất của vật chủ, thì chuỗi bổ sung [kí hiệu là "-"] được tổng hợp ra nhờ các enzyme của vật chủ, gồm DNA gyraza [một loại topôizômeraza II] xúc tác cho sự hình thành các siêu xoắn âm của DNA [nghĩa là được tháo xoắn] và enzym DNA pôlymeraza xúc tác chính cho nhân đôi.
  2. Cơ chế nhân đôi - về cơ bản - diễn ra theo cơ chế nhân đôi của DNA vòng.
  3. Sản phẩm cuối cùng là DNA đã nhân đôi gồm "chuỗi dương" [+] RF và "chuỗi âm" [-].
  4. Một protein của nó là P2 chọn chuỗi [+] ở đầu 3'-hydroxyl của RF, hoạt động như một mồi để khởi tạo ra chuỗi mới.
  5. Chuỗi âm của RF được chọn làm khuôn mẫu của phiên mã, tổng hợp ra các mRNA của nó, từ đó tạo thành nhiều protein của nó, đều nhờ bộ máy phiên mã và dịch mã có sẵn trong vật chủ.
  • Trong số các protein được tạo ra trong tế bào chất của tế bào chủ có P2, P5 và P10, trong đó:

- P5 liên kết với DNA sợi đơn mới để ngăn chặn chuyển đổi sang DNA RF, tạo thành phức hợp cấu trúc P5-DNA.

- Khi P5 đạt đến nồng độ nhất định [gọi là "critical concentration" tức nồng độ tới hạn] thì quá trình tổng hợp DNA RF ngừng. Sao chép DNA chuyển sang tổng hợp chuỗi dương [+] đơn.

  • Trước khi thoát ra ngoài, nó tự lắp ráp "cơ thể" thành một vỏ bọc [capsid] xoắn bao bên ngoài DNA của nó, khi đó mỗi "cơ thể" có cấu trúc dạng sợi, chiều dài 760-1950 nm và rộng [đường kính] 6-8 nm. Sự lắp ráp diễn ra tại màng trong của tế bào vật chủ.[9]
  • Thể thực khuẩn.
  • DNA vòng.
  • Chu trình tan.
  • Chu trình tiềm tan.
  • Phagemid.
  • Barbas, Carlos F; Burton, Dennis R; Silverman, Gregg J [tháng 10 năm 2004]. Phage Display: A Laboratory Manual [ấn bản 1]. Cold Spring Harbor Laboratory Press. ISBN 978-0-87969-740-2. Đã bỏ qua tham số không rõ |name-list-format= [gợi ý |name-list-style=] [trợ giúp]
  • Messing J [1993]. “M13 Cloning Vehicles” [PDF]. Trong Griffin H.G., Griffin A.M. [biên tập]. DNA Sequencing Protocols. Methods in Molecular Biology™. Methods in Molecular Biology. 23. Humana Press. tr. 9–22. doi:10.1385/0-89603-248-5:9. ISBN 0-89603-248-5. PMID 8220775. Bản gốc [large 21mb file] lưu trữ ngày 19 tháng 2 năm 2012.

  • Barbas, Carlos F; Burton, Dennis R; Silverman, Gregg J [tháng 10 năm 2004]. Phage Display: A Laboratory Manual [ấn bản 1]. Cold Spring Harbor Laboratory Press. ISBN 978-0-87969-740-2. Đã bỏ qua tham số không rõ |name-list-format= [gợi ý |name-list-style=] [trợ giúp]
  • Messing J [1993]. “M13 Cloning Vehicles” [PDF]. Trong Griffin H.G., Griffin A.M. [biên tập]. DNA Sequencing Protocols. Methods in Molecular Biology™. Methods in Molecular Biology. 23. Humana Press. tr. 9–22. doi:10.1385/0-89603-248-5:9. ISBN 0-89603-248-5. PMID 8220775. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 2 năm 2012.Quản lý CS1: URL hỏng [liên kết]

  1. ^ Michael Blaber. “M13 Phage”.
  2. ^ a b Phạm Thành Hổ: "Di truyền học" - Nhà xuất bản Giáo dục, 1998.
  3. ^ a b “UniProtKB - P69541 [CAPSD_BPM13]”.
  4. ^ Opella SJ, Stewart PL, Valentine KG [tháng 2 năm 1987]. “Protein structure by solid-state NMR spectroscopy”. Quarterly Reviews of Biophysics. 19 [1–2]: 7–49. doi:10.1017/S0033583500004017. PMID 3306759.
  5. ^ Đỗ Lê Thăng: "Di truyền học" - Nhà xuất bản Giáo dục, 2005.
  6. ^ Khalil AS, Ferrer JM, Brau RR, Kottmann ST, Noren CJ, Lang MJ, Belcher AM [tháng 3 năm 2007]. “Single M13 bacteriophage tethering and stretching”. Proceedings of the National Academy of Sciences of the United States of America. 104 [12]: 4892–7. doi:10.1073/pnas.0605727104. PMC 1829235. PMID 17360403.
  7. ^ Suthiwangcharoen N, Li T, Li K, Thompson P, You S, Wang Q [tháng 5 năm 2011]. “M13 bacteriophage-polymer nanoassemblies as drug delivery vehicles. Nano Research”. 4 [5]: 483–93. doi:10.1007/s12274-011-0104-2. Chú thích journal cần |journal= [trợ giúp]
  8. ^ Specthrie L, Bullitt E, Horiuchi K, Model P, Russel M, Makowski L [tháng 12 năm 1992]. “Construction of a microphage variant of filamentous bacteriophage”. Journal of Molecular Biology. 228 [3]: 720–4. doi:10.1016/0022-2836[92]90858-h. PMID 1469710.
  9. ^ “UniProtKB - P69541 [CAPSD_BPM13]”.

Lấy từ “//vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Thể_thực_khuẩn_M13&oldid=66720443”

Virus không có quá trình trao đổi chất, không có khả năng tự nhân lên ngoài tế bào sống. Vì vậy sự nhân lên của virus chỉ có thể được thực hiện ở trong tế bào sống.

Virus không có quá trình trao đổi chất, không có khả năng tự nhân lên ngoài tế bào sống. Vì vậy sự nhân lên của virus chỉ có thể được thực hiện ở trong tế bào sống nhờ vào sự trao đổi chất của tế bào chủ. Điều này cho thấy tính ký sinh của virus trong tế bào sống là bắt buộc.

Sự nhân lên của virus là một quá trình phức tạp, trong đó axit nucleic của virus giữ vai trò chủ đạo truyền đạt các thông tin di truyền của chúng cho tế bào chủ. Virus hướng các quá trình trao đổi chất của tế bào chủ sang việc tổng hợp các hạt virus mới.

Nói chung quá trình nhân lên của virus trong tế bào được chia thành 5 giai đoạn:

Hấp phụ => Xâm nhập => Tổng hợp các thành phần cấu trúc => Lắp ráp => Giải phóng.

Sự hấp phụ của virus vào bề mặt  tế bào

Sự hấp phụ xảy ra khi các cấu trúc đặc hiệu trên bề mặt hạt virus gắn được vào các thụ thể [receptor ] đặc hiệu với virus nằm ở trên bề mặt của tế bào. Do tính đặc hiệu trên mà mỗi loài virus chỉ có thể hấp phụ và gây nhiễm cho một loại tế bào nhất định gọi là các tế bào cảm thụ với chúng. Ví dụ virus cúm chỉ gây nhiễm tế bào biểu mô của đường hô hấp trên, virus HIV chỉ xâm nhập tế bào bạch huyết gọi là tế bào lympho CD4.

Sự xâm nhập của virus vào trong tế bào

Các virus động vật  sau khi đã gắn vào các thụ thể đặc hiệu trên bề mặt tế bào cảm thụ sẽ xâm nhập vào tế bào theo cơ chế  ẩm bào. Khi đã lọt vào tế bào, capsid của virus sẽ được enzyme cởi vỏ [decapsidase] của tế bào phân hủy, giải phóng ra axit nucleic của virus. Đó là giai đoạn “cởi áo”.

Đối với phage, sau khi hấp phụ lên bề mặt tế bào thì bao đuôi co rút, lõi bên trong chọc thủng màng tế bào và bơm axit nucleic vào tế bào còn casid nằm lại bên ngoài.

Sự tổng hợp các thành phần cấu trúc của virus

Ngay sau khi axit nucleic của virus được giải phóng, virus bị mất khả năng lây nhiễm và đi vào giai đoạn tiềm ẩn, trong giai đoạn này không thấy virus trong tế bào nữa. Đây chính là giai đoạn các virus truyền đạt những thông tin di truyền của mình cho tế bào chủ và bắt tế bào chủ chuyển hướng hoạt động của mình sang việc tổng hợp các thành phần của virus. Trước hết, các axit nucleic của virus được nhân lên, sau đó protein của virus được tổng hợp. Các axit nucleic của virus xác định tính đặc hiệu của protein. Như vậy cấu trúc kháng nguyên của virus không bị phụ thuộc vào tế bào chủ mà do các axit nucleic của virus quyết định. Cơ chế nhân lên của các  ADN và  ARN của virus có khác nhau. Dưới đây là ví dụ về ba loại virus có ba loại axít nucleic khác nhau:

Ở các virus chứa ADN hai sợi: đầu tiên các thông tin di truyền của virus được sao chép từ ADN sang ARN thông tin nhờ  ARN polymerase phụ thuộc  ADN. Các  ARN thông tin của virus sẽ đóng vai trò truyền tin để tạo ra các ADN và các protein của virus.

Ở các virus chứa ARN một sợi dương:  các thông tin di truyền của virus được mã hóa trong phân tử  ARN sẽ sao chép sang một ARN bổ sung nhờ có ARN polymerase phụ thuộc ARN và từ đó chúng được làm khuôn mẫu để tạo ra các ARN của virus. Đồng thời các ARN của virus cũng đóng vai trò của ARN thông tin để tổng hợp nên các protein của virus.

Ở các virus chứa ARN có enzyme sao chép ngược: các thông tin di truyền được mã hóa trong ARN của virus được sao chép ngược để tạo ra một  ADN trung gian nhờ có enzyme sao chép ngược [reverse transcriptase; ADN polymerase phụ thuộc ARN].Từ ADN trung gian các mã thông tin di truyền của virus sẽ được sao chép sang ARN thông tin, từ đó chúng tiếp tục được sao chép để tổng hợp ra các ARN virus và các protein virus.

Sự lắp ráp các thành phần của virus

Sau khi các thành phần cơ bản của virus đã được tổng hợp và đã được tích lũy phong phú trong tế bào chủ thì sẽ bắt đầu quá trình lắp ráp. Hình như cơ chế lắp ráp các thành phần của virion xảy ra tự phát do kết quả của sự tương tác phân tử đặc biệt của các cao phân tử capsid với axit nucleic virus để tạo thành các virion.

Việc lắp ráp đúng sẽ tạo ra các virus hoàn chỉnh [các virion] và nếu lắp ráp sai sẽ tạo ra các virus không hoàn chỉnh [hạt DIP] hoặc tạo ra các virus giả [Pseudovirion].

Sự giải phóng các hạt virus ra khỏi tế bào

Virus thoát ra khỏi tế bào chủ theo nhiều kiểu khác nhau tùy theo loài virus.

Nhiều virus được giải phóng theo kiểu phá vỡ màng tế bào làm hủy hoại tế bào và các virus đồng loạt được phóng thích. Hoặc được giải phóng nhờ sự xuất bào [exocytosis] hoặc qua các rãnh đặc biệt mà không làm hủy hoại tế bào chủ.

Các virus có vỏ ngoài được giải phóng theo kiểu nẩy chồi qua các chổ đặc biệt của màng tế bào chủ và virus sẽ nhận được một phần của màng tế bào chủ.

Thời gian nhân lên của virus thường ngắn hơn rất nhiều so với vi khuẩn.Ví dụ từ virus ban đầu, một tế bào bị nhiễm virus cúm có thể tạo ra hàng nghìn virus mới sau khoảng 5 - 6 giờ.

Video liên quan

Chủ Đề