Phạm Ngũ Lão quan niệm như thế nào về chí làm trai qua bài thơ to lòng

Đề bài: Sau khi học xong Thuật hoài (Tỏ lòng), anh/chị có cảm tưởng  về bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão như thế nào. Hãy viết bài văn ngắn trình bày cảm tưởng, suy nghĩ của mình về bài thơ.

Mục Lục bài viết:
1. Bài mẫu số 1
2. Bài mẫu số 2

Bài văn mẫu Cảm tưởng của anh (chị) về bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão
 

1. Cảm tưởng của anh (chị) về bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão, mẫu số 1:

Tỏ lòng là bài thơ nói về chí làm trai theo quan niệm Nho giáo xưa. Bài thơ đã xây dựng nên một hình tượng đẹp về người anh hùng thời loạn: một tráng sĩ hiên ngang tay cắp ngang ngọn giáo, đánh đông dẹp bắc để lập công danh. Bài thơ khiến ta nhớ đến bài ca dao:

Làm trai cho đáng nên trai

Phú Xuân đã trải, Đồng Nai đã từng

Đó là tiêu chuẩn lí tưởng của người đàn ông trong bất cứ thời đại nào. Trong thời loạn, chí khí ấy lại càng cần thiết. Phạm Ngũ Lão đã hình tượng hoá quan niệm của Nho gia về đáng nam nhi. Đây là một quan niệm dúng đắn và cao đẹp. Là con người, dù là đàn ông hay đàn bà, dù là già hay trẻ đều phải có trách nhiệm với đất nước, với quê hương, với cộng đồng, huống chi là người tráng sĩ sinh ra trong thời loạn. Họ phải biết mang sức lực, tài trí của mình ra giúp dân, giúp nước, bảo vệ sự ổn định của xã hội. Với những bậc quân tử xưa, đền nợ nước, báo ơn vua là lí tưởng và mục đích sống của họ. Như Nguyễn Công Trứ từng nói:

Đã sinh ra ở trong trời đất

Phải có danh gì với núi sông

Nếu họ không thực hiện được con đường công danh ấy, họ sẽ cảm thấy hổ thẹn với mọi người. Cả cuộc đời người quân tử chỉ có một lí tưởng duy nhất để theo đuổi đó là lập công danh. Con đường mà Nho giáo đã vạch sẵn cho tất cả các đấng nam nhi là "tề gia, trị quốc, bình thiên hạ". Tư tưởng này đã trở thành một động lực thôi thúc các nhà Nho phát huy tài trí của mình ra giúp nước. Nhà Nho tiến bộ của thế kỉ XX - Phan Bội Châu- cũng đã từng thể hiện một cách hùng hồn và đầy nhiệt huyết cái chí khí ấy của người anh hùng thời loạn:

Làm trai phải lạ ở trên đời

Há để càn khôn tự chuyển rời

Trong khoảng trăm năm cần có tớ

Sau này muôn thủa há không ai?
 

Bài văn Cảm tưởng về bài thơ Tỏ lòng hay nhất

Tư tưởng ấy đã làm nên một hình tượng đẹp thể hiện khát vọng cứu nước trong văn học Việt Nam:

Muốn vượt biển đông theo cánh gió

Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi

Trong suốt mấy ngàn năm lịch sử, đất nước ta đã phải trải qua nhiều cuộc chiến tranh vệ quốc. Một đất nước nhỏ bé luôn đứng trước nguy cơ bị xâm lược nên ý thức giữ nước đã trở thành ý thức có tính chất bản năng của mỗi người dân. Vì thế mà hình tượng đẹp nhất về người anh hùng bao giờ cũng là người anh hùng thời loạn. Trong đó hình tượng người tráng sĩ trong Tỏ lòng là một hình tượng có vẻ đẹp lí tưởng, bởi thời kì lịch sử ấy, nhà Trần với ba lần chiến thắng quân Nguyên Mông đã viết lên những trang sử vô cùng chói lọi trong thiên sử chống ngoại xâm của dân tộc ta.. Sau người tráng sĩ ấy còn biết bao hình tượng đẹp nữa, trong đó không thể không kể đến những anh bộ đội cụ Hồ, những anh vệ quốc quân trong kháng chiến chống Pháp, những anh giải phóng quân - chàng Thạch Sanh của thế kỉ XX - trong kháng chiến chống Mĩ...

Người anh hùng với lí tưởng cao đẹp đã từng đánh đông dẹp bắc, từng làm nên cái khí thế "nuốt sao Ngưu" dũng mãnh ấy, khi nhìn lại sự nghiệp của mình vẫn mang những niềm trăn trở day dứt:

Công danh nam tử còn vương nợ

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu

Đây là cái thẹn của một nhân cách cao đẹp. Như thế vẫn chưa thoả mộng công danh, người quân tử không có điểm dừng trong sự nghiệp công danh của mình. Phạm Ngũ Lão với Tỏ lòng đã thể hiện một nhân cách cao đẹp của người tướng lĩnh, con người suốt cuộc đời khao khát lập công, khao khát mang sức lực và tài trí của mình ra giúp nước. Bài thơ là niềm tự hào của mỗi chúng ta về truyền thống đạo đức, truyền thống yêu nước của cha ông ta.

Phạm Ngũ Lão là một danh tướng đời Trần nổi tiếng văn võ song toàn. Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông xâm lược, Phạm Ngũ Lão dưới trướng của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đã lập nên nhiều chiến công hiển hách, góp phần quan trọng tạo nên hào khí Đông A của thời đại. Tuy nhiên nhắc đến Phạm Ngũ Lão, người ta không chỉ nhớ đến ông là một võ tướng mà còn biết đến ông như một nhà thơ. Trong đó, Thuật Hoài (Tỏ lòng) là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của Phạm Ngũ Lão. 

Bài thơ Thuật hoài được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. Qua bài thơ, Phạm Ngũ Lão đã nói lên khát vọng của tuổi trẻ trong xã hội phong kiến đương thời, nỗi lòng mong muốn được cống hiện cho đất nước, chủ nghĩa anh hùng yêu nước và khí thế của quân dân nhà Trần lúc bấy giờ.

Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu

Tam quân tì hổ khí thôn ngưu

Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.

Trong hai câu thơ đầu, tác giả đã tập trung diễn tả vẻ đẹp của người tráng sĩ Đông A:

Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu

Tam quân tì hổ khí thôn ngưu.

Bằng cách miêu tả trực tiếp, Phạm Ngũ Lão đã xây dựng lên con người mang vẻ đẹp của thời đại: gân guốc, mãnh liệt, tràn đầy sức sống của những trang nam nhi - chiến binh đang xả thân vì đất nước.

“Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu” theo dịch nghĩa tức là “cầm ngang ngọn giáo giữ gìn non sông đã mấy thu”. So với bản dịch thơ “Múa giáo non sông trải mấy thu” thì bản dịch thơ chưa lột tả hết vẻ kiêu hùng trong tư thế của người lính đứng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Dáng vẻ cầm ngang ngọn giáo tạo tư thế vững chãi, hiên ngang như một bức tượng đồng, uy nghi vững chãi. Còn “múa giáo” lại mang lại vẻ rộn ràng, chuyển động. Ý thơ “cầm ngang ngọn giáo gìn giữ non sông” phác họa lên hình ảnh người tráng sĩ sánh ngang cùng vũ trụ, nổi lên trên giang sơn, sông núi, sừng sững vững chãi suốt mấy mươi năm. Có thể nói, câu thơ đầu tiên đã khắc họa thành công bức tượng đài người tráng sĩ bảo vệ đất nước, một vẻ đẹp hiên ngang tiêu biểu cho hào khí thời Trần.

Trình bày cảm tưởng sau khi học xong bài thơ Tỏ lòng

Tiếp theo, câu thơ thứ hai “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”, ở đây tác giả sử dụng thành ngữ "khí thôn ngưu đẩu" để thể hiện khí thế chiến đấu không gì có thể ngăn cản được của quân dân nhà Trần. Tác giả đã sử dụng nghệ thuật thậm xưng để đem sức mạnh của quân dân ta sáng ngang, thậm chí vượt qua được cả sức mạnh của vũ trụ, át cả ngôi sao sáng trên trời. Câu thơ có sử dụng biện pháp thậm xưng để làm nổi bật được vẻ đẹp của người dũng sĩ nhà Trần, nâng tầm vẻ đẹp đó sánh ngang cùng với vũ trụ.

Xuất thân là một danh tướng dày dạn kinh nghiệm, sau trở thành một danh tướng khi còn rất trẻ. Phạm Ngũ Lão cũng như bao chàng tráng sĩ khác, mang trong mình lí tưởng cao đẹp, bảo vệ đất nước, "trung quân ái quốc" và khát khao được ghi tên mình vào sử sách "lưu danh hậu thế". Chí làm trai của Phạm Ngũ Lão cũng là tư tưởng lớn ta dễ bắt gặp trong thơ văn cổ, như bài Chí làm trai của Nguyễn Công Trứ có nói: “Làm trai đứng ở trong trời đất? Phải có danh gì với núi sông". Bởi vì khát vọng lớn lao ấy nên khi chưa trả hết nợ công danh thì sẽ tự lấy làm hổ thẹn: 

Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.

Dịch thơ: 

Công danh nam tử còn vương nợ

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.

Vũ Hầu tức là Khổng Minh, một vị quân sự tài ba thời Tam Quốc nhiều phen lập được chiến công lớn khiến sử sách ngàn đời sau còn vang danh. 

Phạm Ngũ Lão đã nhìn vào những đấng anh hùng, kiệt tướng lớn trong lịch sử, soi mình vào đó để phấn đấu. Lấy chữ "thẹn" làm động lực để tiếp tục tiến lên, nhìn gương người đi trước mà noi theo. Câu thơ thể hiện niềm khát vọng của tác giả nói riêng và những chàng trai thời bấy giờ nói chung, đó chính là khát vọng được cống hiến, được góp phần bảo vệ non sông gấm vóc. Chính khát vọng này đã  tạo nên hào khí Đông A lẫy lừng trong lịch sử. 

Thuật Hoài của Phạm Ngũ Lão tuy chỉ có bốn câu thơ ngắn gọn nhưng hàm súc, lời thơ đanh thép, sử dụng hình ảnh độc đáo. Bài thơ đã khắc họa thành công hình ảnh người tráng sĩ hiên ngang, đồng thời nêu cao tinh thần đem sức mình dâng hiến, bảo vệ tổ quốc. Thuật Hoài không chỉ là “Tỏ lòng” của Phạm Ngũ Lão nói riêng mà còn là tinh thần, ý chí đại diện cho cả một dân tộc, cả thời đại nhà Trần nói chung. Chính những tráng sĩ, những danh tướng như Phạm Ngũ Lão đã làm nên những chiến công hiển hách, chiến thắng quân Nguyên Mông bảo vệ tổ quốc. Trải qua nhiều thế kỷ, nhưng mỗi lần đọc lại bài thơ Thuật Hoài, ta vẫn có thể thấy được những âm vang, hào hùng của cả một thời đại trong lịch sử.

-------------------HẾT-------------------

Bài cảm tưởng của anh (chị) về bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão sẽ giúp các bạn hiểu hơn về tình yêu nước, ý thức trách nhiệm sâu sắc của “kẻ làm trai” trước vận mệnh của đất nước. Các bạn hãy cùng tham khảo bài cảm nhận phân tích tỏ lòng dưới đây để bổ sung thêm những kiến thức thú vị và rèn luyện kĩ năng viết bài của mình nhé!

Hình ảnh trang nam nhi thời trần trong bài Thuật hoài (Tỏ lòng) Phạm Ngũ Lão Cảm nhận về hào khí Đông A thời Trần qua bài Tỏ lòng Phân tích hai câu cuối bài Tỏ lòng Sơ đồ tư duy bài thơ Tỏ lòng Dàn ý cảm nhận về bài thơ Tỏ lòng Dàn ý phân tích bài Tỏ lòng để làm sáng tỏ nhận định: Tỏ lòng khắc hoạ vẻ đẹp con người có sức mạnh, có lí tưởng...

Phạm Ngũ Lão quan niệm như thế nào về chí làm trai qua bài thơ to lòng

Phân tích vẻ đẹp chí nam nhi qua bài thơ “Tỏ Lòng” của Phạm Ngũ Lão

Phạm Ngũ Lão là anh hùng xuất chúng của dân tộc, có công lớn trong công cuộc chống xâm lược Mông – Nguyên. Bài thơ Thuật hoài là một trong những tác phẩm ít ỏi còn sót lại của vị dũng tướng. Với lời thơ ngắn gọn, đạt đến độ súc tích cao, bài thơ khắc họa được vẻ đẹp của con người có sức mạnh, có lý tưởng, có nhân cách cao cả cùng khí thế hào hùng của thời đại”

Vẻ đẹp chí nam nhi qua vóc dáng hùng dũng, sánh ngang tầm vũ trụ:

+ Hình ảnh tráng sĩ: hiện lên qua tư thế “ cầm ngang ngọn giáo” (hoành sóc) giữ non sông. Đó là tư thế hiên ngang với vẻ đẹp kì vĩ mang tầm vóc vũ trụ. + Hình ảnh “ba quân” hiện lên với sức mạnh của đội quân đang sôi sục khí thế quyết chiến thắng.

+ Hình ảnh tráng sĩ lồng trong hình ảnh “ba quân” mang ý nghĩa khái quát, gợi ra hào khí dân tộc thời Trần – “hào khí Đông A”

Vẻ đẹp chí nam nhi khát vọng công danh, lẽ sống lớn của người anh hùng:

Khát vọng lập công danh để thoả “chí nam nhi”, cũng là khát vọng được đem tài trí “tận trung báo quốc” – thể hiện lẽ sống lớn của con người thời đại Đông A.

Nghệ thuật : Hình ảnh thơ hoành tráng, thích hợp với việc tái hiện khí thế hào hùng của thời đại và tầm vóc, chí hướng của người anh hùng. Ngôn ngữ cô đọng, hàm súc, có sự dồn nén cao độ về cảm xúc

Bài thơ thể hiện vẻ đẹp chí nam nhi, lí tưởng cao cả của vị danh tướng Phạm Ngũ Lão, khắc ghi dấu ấn đáng tự hào về một thời kì oanh liệt, hào hùng của lịch sử dân tộc.

Bài tham khảo: vẻ đẹp chí nam nhi qua bài thơ “Tỏ Lòng” của Phạm Ngũ Lão

Phạm Ngũ Lão là một nhận vật lịch sử có công lớn trong cuộc kháng chiến cống Nguyên – Mông, được mệnh danh là “Phúc tướng” của đời Trần. Con người ấy chính trực, khí khái, sống chan hòa và luôn chia ngọt sẻ bùi với quân sĩ của mình. Ông còn là người văn võ toàn tài. Văn thơ để lại tuy ít nhưng thể hiện mạnh mẽ hào khí một thời oanh liệt của dân tộc. Thuật hoài (Tỏ lòng) là bài thơ thể hiện chí nam nhi của người trai thời loạn, muốn vươn tới chiến công hiển hách, lưu danh thiên cổ.

Thuật hoài

Hoành sóc giang sơn kháp kỷ thu,
Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu.
Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.

Dịch nghĩa:

Cắp ngang ngọn giáo gìn giữ non sông đã mấy thu,
Ba quân như gấu hổ, át cả sao Ngưu Đẩu.
Thân nam nhi nếu chưa trả xong nợ công danh,
Ắt thẹn thùng khi nghe người đời kể chuyện Vũ hầu.

Bài thơ được sáng tác khoảng cuối năm 1284 khi cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông – Nguyên đến gần. Trước thời khắc trọng đại của lịch sử, người anh hùng nhìn nhận lại bản thân, củng cố sĩ khí, chuẩn bị cho những cuộc chiến ác liệt bảo vệ biên cương bờ cõi. Có thể xem bài thơ Thuật hoài là một bản “phê bình” trung thực nhằm nâng cao ý chí chí chiến đấu, kiện toàn bản thân của dũng tướng Phạm Ngũ Lão.

Thời đại ra đời của hào khí Đông A, vua tôi tiến sĩ dân đồng sức đồng lòng chiến đấu đánh đuổi kẻ thù xâm lược. Nội dung chủ đạo của nền văn học trung đại Việt Nam giai đoạn từ thế kỉ X- XIV là nội dung yêu nước. Tâm lược Hịch tướng sĩ văn vang dậy núi sông của Trần Hưng Đạo, khúc ca khải hoàn đại thắng Phò giá về kinh của Trần Quang Khải, áng văn vô tiền khoáng hậu Phú Sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu, … và cả trong lời Tỏ lòng của kẻ làm trai thời loạn Phạm Ngũ Lão là những áng văn bất hủ, có sức mạnh khơi bừng sĩ khí đến muôn đời. Tâm thế ấy, sĩ khí ấy được thể hiện ngay ở hai câu thơ đầu:

“Hoành sóc giang sơn kháp kỷ thu,
Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu.”

(Cắp ngang ngọn giáo gìn giữ non sông đã mấy thu,
Ba quân như gấu hổ, át cả sao Ngưu Đẩu)

Bài thơ mở ra hình ảnh người tướng sĩ “hoành sóc” (cầm ngang ngọn giáo) bảo vệ non sông, đất nước. Đó là hình ảnh một con người có tầm vóc kì vĩ, hiên ngang, hùng dũng phi thường. Con người này ý thức được trách nhiệm, trọng trách của mình là bảo vệ quê hương đất nước. Kích thước ngọn giáo đo bằng nhiều chiều dài nọn sông làm  nên tầm vóc vĩ đại của người tráng sĩ vệ quốc.

Cầm ngang ngọn giáo (hoành sóc) là một tư thế chiến đấu vô cùng hiên ngang dũng mãnh. Câu thơ “Hoàng sóc giang sơn kháp kỉ thu”  là một câu thơ có hình tượng kì vĩ tráng lệ, vừa mang không gian tầm vóc giang sơn vừa mang kích thước thời gian chiều dài lịch sử (kháp kỳ thu). Nó thể hiện tư thế người chiến sĩ thuở “bình Nguyên” (dẹp giặc Nguyên) ra trận hiên ngang, hào hùng như các dũng sĩ trong huyền thoại. Chủ nghĩa yêu nước được biểu hiện qua một vầng thơ cổ kính trang nghiệm: cầm ngang ngọn giáo, xông pha trận mạc suốt mấy mùa thu để bảo vệ giang sơn yêu quý.

Câu thơ có một không gian rộng lớn, bát ngát mênh mông, trải khắp, mở ra theo chiều rộng “non sông”. Thời gian trải dài mà vẫn xác thức cụ thể không phải chốc lát mà đã “mấy thu rồi”. Không thời gian ấy càng làm nổi bật hình ảnh con người. Tư thế hiên ngang tầm vũ trụ và con người kì vĩ như át cả không gian bao la

“Tam quan tỳ hổ khí thôn Ngưu”

(Ba quân như gấu hổ, át cả sao Ngưu Đẩu)

Trong câu thơ thứ hai, hình ảnh “ba quân” tượng trưng cho quân đội nhà trần nhưng đồng thời nói lên sức mạnh của cả dân tộc. Biện pháp so sánh và cường điệu phóng đại đã được sử dụng để khẳng đinh sức mạnh của ba quân. Sức mạnh của khí thế “sát thát” ra trận vô cùng đông đảo, trùng điệp (ba quân) với sức mạnh phi thường, mạnh như hổ báo ( tỷ hổ) quyết đánh tan mọi kẻ thù xâm lược. Khí thế của đội quân ấy  ào ào ra trận, không một thế lực nào, kẻ thù nào có thể ngăn nổi.

“Khí ngôn ngưu” nghĩa là khí thế, tráng trí nuốt  cả sao Ngưu, lấn át và làm lu mờ sao Ngưu trên bầu trời. Hoặc có thể hiểu: ba quân thế mạnh nuốt trôi trâu. Biện pháp tu từ thậm xứng sáng tạo nên một hình tượng thơ mang tầm vóc hoành tráng, vũ trụ: “Tam quân tì hồ khí Ngưu”. Hình ảnh ẩn dụ so sánh: “Tam quân tì hồ …” trong thơ Phạm Ngũ Lão rất độc đáo. Không chỉ có sức biểu hiện sâu sắc sức mạnh vô địch của quân đội quân “Sát Thát” đánh đâu thắng đấy mà còn là khơi nguồn cảm hứng thơ ca. Hình ảnh ấy tồn tại như một điển tích, một thi liệu sáng giá trong nền văn học dân tộc.

Mối quan hệ giữa cá nhân anh hung và cộng đồng anh hung làm nên sức mạnh thời đại được thể hiện sâu đậm qua hai câu thơ cuối:

“Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu.”

(Thân nam nhi nếu chưa trả xong nợ công danh,
Ắt thẹn thùng khi nghe người đời kể chuyện Vũ Hầu)

Người chiến sĩ “bình Nguyên” mang theo một ước mơ cháy bỏng: khao khát lập chiến công để đền ơn vua, báo nợ nước. Thời đại anh hùng mới có khát vọng anh hùng “phá cường địch, báo hoài ân” (Trần Quốc Toản) – “ thân này gói trong da ngựa, ta cũng cam long” (Trần Quốc Tuấn) …  Khát vọng ấy là biểu hiện rực rỡ những tấm lòng trung quân ái quốc của tướng sĩ, khi tầng lớp quý tộc của đời Trần trong xu thế đi lên đang gánh vác sứ mệnh lịch sử trọng đại. Họ mơ ước về những chiến tích hiển hách, về những võ công oanh liệt của mình có thể sách ngang tầm sự nghiệp anh hùng của Vũ Hầu Gia Cát Lượng thời tam Quốc.

Công danh đó chính là cái đạo lập thân của kẻ sĩ thời phong kiến. Lập công để lại sự nghiệp và lập danh để lại tiếng thơm, là nghĩa vụ với dân, với nước. Xem công danh là cái “nợ” không phải là tư tưởng của kẻ háo danh mà là suy tư về chí làm trai, trách nhiệm làm trai ở trên đời.

Với đấng nam nhi, công danh là cái chí, khát vọng làm nên sự nghiệp lớn. Sự khẳng định tài năng và cống hiến, đưa con người thoát khỏi lối sống tầm thường, ích kỉ sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp lớn lao “cùng trời đất muôn đời bất hủ”.

Phạm Ngũ Lão cũng từ cái chí, cái nợ nam nhi, nam tử đó mà cùng dân tộc chiến đấu chống xâm lược bền bĩ, ròng rã bao năm. Đặc biệt ở đây cũng từ cái chí, cái nợ đó mà nảy sinh trong tâm trạng một nỗi thẹn. Nói cách khác cái tâm thể hiện nỗi thẹn…

“Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”

(Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu)

Phạm Ngũ Lão “thẹn” chưa có tài mưu lược lớn như Vũ Hầu Gia Cát Lượng đời Hán để trừ giặc, cứu nước. Ông thẹn bởi vì so với bậc quân sư kia mình chưa có cái gì đáng nói. Gia Cát Lượng là quân sư của Lưu Bị, mưu trí tuyệt vời. Song điểm làm cho Gia Cát Lượng nổi tiếng là lòng tuyệt đối trung thành với chủ. Vì  thế “luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu thực chất là lời suốt đời  tận tụy với chủ tướng Trần Hưng Đạo.

Thẹn còn được hiểu là cách nói chuyện khát vọng hoài bão muốn sách với Vũ hầu. Thẹn với Khổng Minh – Gia Cát Lượng không phải lỗi thẹn của sự tự ti, hoặc cảm thấy sự khiêm tốn mà là khát vọng mãnh liệt. Vì hiểu rõ ý nghĩa sống còn của kẻ làm trai trong thời loạn loạn là phải phải gắn mình với vận mệnh đất nước. Nỗi thẹn ấy làm con người thấp bé đi mà góp phần nâng cao nhân cách gắn mình với vận mệnh đất nước.

Xưa nay, những người có nhân cách vẫn thường mang trong mình nỗi thẹn, Nguyễn Khuyến trong bài thơ “Thu vịnh” từng bày tỏ nỗi thẹn vì chưa trả xong nợ nước. Đó là nỗi thẹn có giá trị nhân cách. Trong bài Thuật hoài, Phạm Ngũ Lão thẹn vì chưa trả xong nợ nước. Đó là lỗi thẹn có giá trị nhân cách, nâng cao con người vươn đến ánh sáng. Bài thơ không những thẻ hiện vẻ đẹp chí nam nhi của người anh hùng, vinh danh vị tướng trẻ văn võ song toàn Phạm Ngũ Lão mà còn có tác dụng giáo dục rất sâu sắc về nhân sinh quan và lối sống tích cực đối với thanh niên mọi thời đại.

  • Chí làm trai
  • Tỏ lòng (Phạm Ngũ Lão)