Phân tích nhân vật Mị Châu Trọng truyện An Dương Vương và Mị Châu Trọng Thủy

Hướng dẫn phân tích nhân vật Mị Châu lớp 10 mới nhất mà Tophaynhat.com mang đến cho các em học sinh những bài viết hay nhất, chất lượng nhất để từ đó các em có thể đa dạng vốn từ của mình. Bài viết không chỉ đúng mà còn vô cùng hay.

Phân tích nhân vật Mị Châu là một trong những đề văn không mới, thế nhưng để làm được bài văn này thì đòi hỏi các em phải có một kiến thức tổng quát, sâu rộng về tác phẩm. Cách tốt nhất để đem đến lượng kiến thức bổ ích cho các em chính là theo dõi những bài văn mẫu dưới đây.

Phân tích nhân vật Mị Châu – Bài làm 1

Truyện An Dương Vương và Mị Châu Trọng Thủy là một truyện truyền thuyết vô cùng hay và đặc sắc. Truyện cũng đã nêu được ra một bài học cảnh giác đầu tiên của lịch sử đấu tranh giữ nước của dân tộc ta. Ngay từ phần đầu truyện phản ánh vai trò của An Dương Vương trong việc xây dựng và bảo vệ nước Âu Lạc. Tiếp đến là phần sau là bi kịch nước mất nhà tan do sự mất cảnh giác của cha con An Dương Vương. Trong đó thì hình ảnh nhân vật Mị Châu cũng luôn để lại trong lòng bạn đọc biết bao cảm xúc, thương có giận có, hờn trách và cảm thông,…

Lập nước Âu Lạc vua An Dương Vương cho xây thành Cổ Loa nhưng xây rồi lại đổ. Khi đó được Rùa Vàng giúp nhà vua xây thành, còn tặng một cái móng để làm lẫy nỏ chống giặc. Triệu Đà ở phương Bắc đã có dã tâm xâm lược Âu Lạc. Nhờ nỏ thần, An Dương Vương thắng giặc. Triệu Đà xin hòa và đã âm mưu cho con là Trọng Thuỷ sang cầu hôn. Vua An Dương Vương không nghi ngờ, gả con là Mị Châu cho Trọng Thủy. Khi đó thì Mị Châu bị Trọng Thủy lừa đánh tráo lấy nỏ rồi trở về phương Bắc. Triệu Đà lúc này khi đã có nỏ thần trong tay đã mang quân đến tấn công Âu Lạc, An Dương Vương bại trận. Vua lúc này cùng con gái chạy đến vùng biên. Rùa Vàng hiện lên, kết tội Mị Châu là giặc. Nhà vua đã chém Mị Châu rồi đi xuống biển. Khi Trọng Thuỷ tìm theo dấu lông ngỗng mà tìm thấy xác Mị Châu, vô cùng thương tiếc Mị Châu, hối hận nhảy xuống giếng tự tử máu Mị Châu chảy xuống biển, loài trai ăn phải, biến thành ngọc cả.

Mị Châu là một người con gái ngoan ngoãn và tài sắc. Khi vua cha gả Trọng Thủy thì nàng cũng nghe theo sự sắp đặt của cha. Nàng yêu say đắm chồng của mình đến mù quáng và ngay cả khi Trọng Thủy lừa tráo lấy nỏ thần Mị Châu cũng không biết nữa. Có thể thấy được bi kịch tình yêu Mị Châu – Trọng Thủy thể hiện thái độ phê phán rạch ròi của nhân dân trong việc giải quyết mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng. Thông qua đây ta nhận thấy được đây cũng chính là bài học muôn đời cho những ai đặt tình yêu cá nhân lên trên vận mệnh của quốc gia, đặt trên vận mệnh của dân tộc, tách tình yêu khỏi những mối quan tâm chung.

Nhân vật Mị Châu ngây thơ hết lòng vì chồng thì Trọng Thủy thì cũng đã sẵn có âm mưu chiếm nỏ thần. Thế nhưng những ngày ở Âu Lạc, những ngày bên cạnh người vợ đẹp người, ngoan nết thì Trọng Thủy đã nảy sinh mối tình thật sự với Mị Châu. Khi đó thì ngay cả Trọng Thủy cũng là nảy sinh mâu thuẫn giữa hai tham vọng lớn cùng tồn tại trong con người Trọng Thuỷ. Trong các tham vọng đó có thể kể đến đó chính là tham vọng chiếm được nước Âu Lạc và trọn tình với người đẹp. Thế nhưng cũng chính hai tham vọng đó không thể dung hòa. Có lẽ chính vì vậy sau khi chiến thắng, đáng lẽ Trọng Thủy lúc này đây cũng phải là người vui mừng hưởng vinh quang thì lại tự tử vì nỗi tiếc thương Mị Châu khôn cùng biết bao nhiêu.

Thế rồi trước khi chết, Mị Châu cũng đã kịp nhận ra mình bị lừa, mà kẻ lừa nàng lại chính là người nàng tin yêu nhất. Và đau xót hơn nữa, sự nhẹ dạ của nàng đã phải trả giá rất đắt bằng chín sinh mạng nàng, nàng đã phải để người cha thân yêu mất mạng và lớn hơn nữa chính là số phận của cả một dân tộc cũng rơi vào tình cảnh lao đao.

Nhân vật Mị Châu đã ý thức được tội lỗi nặng nề của mình, chính bản thân của nàng không xin tha chết, chỉ xin được hóa thành châu ngọc để tẩy sạch mối nhục thù. Khi hình ảnh ngọc trai nước giếng tượng trưng cho sự tái ngộ của hai người ở kiếp sau. Thực sự thì đó không phải là biểu tượng của mối tình chung thuỷ mà chỉ là hình ảnh một nỗi oan tình được hóa giải.

Công chúa Mị Châu dù có vô tình phạm tội cũng không thể coi là không có tội. Kết cục bi thảm của cha con An Dương Vương chắc chắn sẽ mãi mãi là bài học nhắc nhở ý thức công dân của mỗi người đối với cộng đồng. Đó là bài học phải cảnh giác với kẻ thù.

Phân tích nhân vật Mị Châu Trọng truyện An Dương Vương và Mị Châu Trọng Thủy

Phân tích nhân vật Mị Châu

Phân tích nhân vật Mị Châu – Bài làm 2

Mị Châu là con gái của An Dương Vương Thục Phán, là một cô công chúa lá ngọc, cành vàng, có tâm hồn ngây thơ trong trắng, nhẹ dạ, cả tin và không có một chú gì về ý thức công dân. Xuất hiện ở phần sau của tác phẩm, Mị Châu cũng là người phải chịu trách nhiệm lớn trước bi kịch “nước mất nhà tan”.

Khi đánh giá về nhân vật này, đã xuất hiện nhiều ý kiến khác nhau, người lên án, kẻ bênh vực.

Những người bênh vực thì đã lấy đạo “tam tòng” (tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử), một quan điểm đạo đức thời phong kiến để bênh vực cho nàng. Theo họ, Mị Châu là người con gái hiền thục, trọn đạo hiếu, vâng lời cha lấy chồng, lấy chồng thì một lòng tin yêu chồng. Sao có thể trách nàng mất cảnh giác với cả chồng mình được? Vì vậy việc Mị Châu không giấu giếm Trọng Thuỷ điều gì là vô tội. Nhưng họ đã quên rằng, trong một đất nước nhiều giặc giã, một nàng công chúa lại chỉ biết làm trọn chữ “tòng” mà vô tình với vận mệnh quốc gia là có tội. Mị Châu tin yêu chồng không có gì đáng trách nhưng nàng đã vi phạm nguyên tắc “bí mật quốc gia” của một người dân đối với đất nước, đặt tình riêng lên trên việc nước dù đó chỉ là do sự nhẹ dạ, vô tình. Nếu sự mất cảnh giác của ADV là nguyên nhân gián tiếp thì sự nhẹ dạ, ngây thơ của Mị Châu là nguyên nhân trực tiếp gây lên hoạ nước mất. Mị Châu tin yêu chồng bằng một tình yêu mù quáng. Nhân dân ta đã sáng tạo nên hình ảnh áo lông ngỗng là chi tiết nghệ thuật tài tình để thể hiện sáng rõ sự mù quáng đáng trách của Mị Châu. Trọng Thuỷ đánh tráo nỏ thần, trước khi về nước đã hỏi Mị Châu: “Ta nay trở về thăm cha … làm giấu.” Mị Châu đáp: “Thiếp có … làm dấu”. Trọng Thuỷ vừa về nước, chiến tranh hai nước xảy ra, lẫy nỏ không còn, phải lên ngựa bỏ chạy cùng vua cha, lẽ ra phải biết đó là âm mưu của Trọng Thuỷ, thế mà Mị Châu vẫn nhẹ dạ, mù quáng, không suy xét sự tình, vẫn rắc lông ngỗng làm dấu, có khác gì chỉ đường cho giặc đuổi theo mình. Việc làm đó của nàng đã trực tiếp dẫn tới bi kịch nhà tan. Vì vậy, không thể cho rằng làm một người vợ thì Mị Châu phải tuyệt đối nghe và làm theo lời chồng. Không thể cho rằng nàng là người vô tội, không phải chịu bất cứ trách nhiệm gì trước bi kịch nước mất nhà tan. Tội lỗi của nàng là hết sức nặng nề. Chính vì vậy, nhân dân ta không đánh giá nàng theo quan điểm đạo đức phong kiến thông thường mà đứng trên quan điểm của quốc gia, dân tộc để kết tội nàng. Với những lỗi lầm không thể tha thứ của một người dân đối với đất nước, nhân dân ta không những đã để cho Rùa Vàng (đại diện cho công lí của nhân dân) kết tội đanh thép, không khoan nhượng gọi nàng là giặc mà còn để cho Mị Châu phải chết dưới lưỡi kiếm nghiêm khắc của vua cha.

Song thái độ, cách đánh giá của nhân dân vừa thấu tình, vừa đạt lí. Mị Châu có tội nhưng những tội lỗi mà nàng gây ra không phải là chủ ý của nàng mà do nàng quá nhẹ dạ, yêu chồng bị lừa dối mà mắc tội. Hơn nữa, cuối cùng, nàng cũng đã tỉnh ngộ nhận ra kẻ thù và chấp nhận một cái chết đau đớn. Mị Châu có tội nàng đã phải đền nhưng nỗi oan của nàng cũng cần được giải. Sáng tạo nên chi tiết thần kì, ứng nghiệm với lời cầu khấn trước khi chết của Mị Châu, nhân dân ta đã bày tỏ thái độ bao dung, niềm cảm thông mà minh oan cho nàng. Đồng thời, thông qua chi tiết thần kì đó, ông cha ta cũng thể hiện thái độ nghiêm khắc của mình và truyền lại một bài học lịch sử muôn đời cho con cháu trong việc giải quyết mối quan hệ riêng – chung.

Trước lúc chia tay về nước dâng lẫy nỏ thần cho Triệu Đà, Trọng Thuỷ đã nói với Mị Châu: “Tình vợ chồng … làm dấu”. Đây không hoàn toàn là những lời dối trá, lạnh lùng mà nó ẩn chứa ít nhiều tình cảm bùi ngùi, một nỗi đau li biệt.

Xem thêm:  Top 9 bài văn cảm nhận về bài thơ Thu Hứng lớp 10 mới nhất

Tính người của Trọng Thuỷ còn được thể hiện rõ hơn rất nhiều ở phần cuối cùng của tác phẩm khi tác giả dân gian miêu tả tâm trạng của Trọng Thuỷ sau cái chết của Mị Châu. Không đắm mình trong hào quang, danh vọng, trong hạnh phúc của sự thống trị uy quyền, sau khi Mị Châu chết, Trọng Thuỷ luôn sống trong nỗi niềm thương nhớ, trong nỗi ân hận dày vò và cuối cùng bế tắc, cùng đường hắn đã tự tìm cho mình cái chết. Trọng Thuỷ quyên sinh không phải chỉ là hành động sám hối cho một sai lầm mù quáng, mà còn là sự thức tỉnh của nhân tính, sự phủ nhận chiến tranh, sự từ chối mọi vinh quang quyền lực tìm về với cõi thiên thu để có được một tâm hồn thanh thản.

Phân tích nhân vật Mị Châu – Bài làm 3

Mị Châu là con gái của Thục Phán An Dương Vương, là một cô công chúa lá ngọc cành vàng, có tâm hồn ngây thơ, trong sáng, nhẹ dạ cả tin và không có chút gì về ý thức công dân. Xuất hiện ở phần sau của truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy, nàng cũng là người phải chịu trách nhiệm rất lớn về bi kịch “nước mất nhà tan”

Mị Châu sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh An Dương Vương “xây thành chế nỏ” và đánh bại quân xâm lược Triệu Đà lần thứ nhất. Có thể nói, nàng sống trong cuộc kháng chiến chống xâm lược mà cha nàng là thủ lĩnh tối cao, nhưng qua truyền thuyết, chúng ta thấy Mị Châu hoàn toàn ngây thơ, không quan tâm và không có chút hiểu biết gì về việc bảo vệ đất nước. Điều đó thể hiện qua việc Mị Châu lén lấy trộm nỏ thần cho Trọng Thủy xem. Hành động đó vừa đáng thương, vừa đáng trách. Đáng thương vì Mị Châu đã làm theo đạo tam tòng nhưng đáng trách vì trong hoàn cảnh đất nước có giặc giã, một nàng công chúa con vua mà chỉ biết làm trọn chữ “tòng” mà không quan tâm đến vận mệnh đất nước, nhân dân là có tội. Mị Châu tin yêu chồng thì không có gì đáng trách nhưng nàng đã vi phạm nguyên tắc “bí mật quốc gia” của một công dân, tất yếu sẽ bị lên án, phê phán.

Mị Châu đã đặt tình riêng cao hơn nghĩa nước, một hành động không nghĩ đến bổn phận của cá nhân đối với Tổ Quốc, càng không nhận thức được quyền lợi của quốc gia tác động đến cá nhân. Nếu sự mất cảnh giác của An Dương Vương là nguyên nhân gián tiếp thì sự nhẹ dạ, cả tin, ngây thơ của Mị Châu lại chính là nguyên nhân trực tiếp gây ra họa mất nước. Mị Châu tin yêu chồng bằng một tình yêu mù quáng. Nhân dân ta đã sáng tạo ra hình ảnh áo lông ngỗng là một chi tiết nghệ thuật tài tình để thể hiện rõ sự mù quáng, đáng trách đó. Trọng Thủy đánh tráo nỏ thần, trước khi về nước đã hỏi Mị Châu: “Tình vợ chồng không thể lãng quên, nghĩa mẹ cha không hề dứt bỏ. Ta nay trở về thăm cha, nếu như đến lúc hai nước thất hòa, Bắc Nam cách biệt, ta lại tìm nàng, lấy gì làm dấu”. Mị Châu đáp: “Thiếp có áo gấm lông ngỗng thường mặc trên mình, đi đến đâu sẽ dứt lông mà rắc ở ngã ba đường để làm dấu, như vậy sẽ có thể cứu được nhau”. Trọng Thủy vừa về nước, chiến tranh hai nước đã xảy ra. Lẫy nỏ không còn, phải lên ngựa bỏ chạy cùng vua cha, lẽ ra phải sớm tình ngộ đó là âm mưu của Trọng Thủy, vậy mà Mị Châu vẫn nhẹ dạ mù quáng, không suy xét sự tình mà vẫn rắc lông ngỗng để làm dấu, khác nào chỉ đường cho giặc tìm đến bắt mình. Việc làm đó trực tiếp dẫn tới bi kịch mất nước nhà tan. Nhờ lời nhắc nhở của thần Kim Quy, nàng mới nhận ra bản chất giả dối của Trọng Thủy và dứt khoát từ bỏ, vĩnh biệt Trọng Thủy trong cuộc đời cũng như trong tâm khản của mình. Trước khi chết, Mị Châu đã nói: “Thiếp là phận gái, nếu có lòng phản nghịch mưu hại cha, chết đi sẽ biến thành cát bụi. Nếu một lòng chung hiếu mà bị người dối lừa, chết đi sẽ biến thành châu ngọc để rửa sạch mối nhục thù”. Nàng chỉ muốn rửa tiếng “bất trung”, “bất hiếu”, chỉ muốn cho mọi người hiểu rằng mình bị lừa dối chứ không dám kêu oán, cũng như xin tha tội. Tuy vậy, nhân dân ta không đánh giá nàng theo quan điểm đạo đức phong kiến thông thường mà đứng trên quan điểm của quốc gia, dân tộc để kết tội nàng. Với những lỗi lầm không thể tha thứ của một công dân đối với đất nước, nhân dân ta đã không những để cho Rùa Vàng kết tội đanh thép, không khoan nhượng, gọi nàng là “giặc” mà còn để cho Mị Châu phải chết dưới lưỡi kiếm nghiêm khắc của vua cha. Bi kịch của Mị Châu đã trở thành bài học về lợi ích giữa cái riêng và cái chung, và cho những người con trai, con gái sau này về bản chất nhẹ dạ cả tin. Dù là ai thì cũng cần phải có ý thức về sự tồn vong của đất nước.

Song thái độ, cách đánh giá của nhân dân vừa thấu tình lại vừa đạt lí. Mị Châu có tội nhưng những tội lỗi mà nàng gây ra là do nàng quá nhẹ dạ, yêu chồng nên bị lừa dối. Hơn nữa, nàng cũng tình ngộ và phải chịu cái chết đau đớn. Tuy nhiên, tác giả dân gian lại không muốn kết thúc số phận Mị Châu bằng cái kết thê thảm ấy. Nàng đã được hóa thân thành một hình hài khác: “Mị Châu chết ở bờ biển, máu chảy xuống nước, trai sò ăn phải đều biến thành hạt châu”, “Xác nàng đem về táng ở Loa Thành, xác biến thành ngọc thạch. Đây là một thủ pháp nghệ thuật quen thuộc mang tính truyền thống của truyện kể dân gian: sử dụng hình thức hóa thân để kéo dài sự sống cho nhân vật. Nhưng ở nhiều truyện, nhân vật chỉ hóa thân trong một hình hài thì Mị Châu lại không hóa thân trọn vẹn. Hình thức hóa thân, phân thân độc đáo này thể hiện sự cảm thông, bao dung của nhân dân với sự trong trắng của Mị Châu, vừa thể hiện thái độ nghiêm khắc cùng bài học lịch sử.

Phân tích nhân vật Mị Châu Trọng truyện An Dương Vương và Mị Châu Trọng Thủy

Nhân vật Mị Châu

Phân tích nhân vật Mị Châu – Bài làm 4

Mị Châu là con gái của An Dương Vương Thục Phán, là một cô công chúa lá ngọc, cành vàng, có tâm hồn ngây thơ trong trắng, nhẹ dạ. Xuất hiện ở phần sau của tác phẩm, Mị Châu cũng là người phải chịu trách nhiệm lớn trước bi kịch “nước mất nhà tan”.

Khi đánh giá về nhân vật này, đã xuất hiện nhiều ý kiến khác nhau, người lên án, kẻ bênh vực.

Những người bênh vực thì đã lấy đạo “tam tòng” (tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử), một quan điểm đạo đức thời phong kiến để bênh vực cho nàng. Theo họ, Mị Châu là người con gái hiền thục, trọn đạo hiếu, vâng lời cha lấy chồng, lấy chồng thì một lòng tin yêu chồng. Sao có thể trách nàng mất cảnh giác với cả chồng mình được? Vì vậy việc Mị Châu không giấu giếm Trọng Thuỷ điều gì là vô tội. Nhưng họ đã quên rằng, trong một đất nước nhiều giặc giã, một nàng công chúa lại chỉ biết làm trọn chữ “tòng” mà vô tình với vận mệnh quốc gia là có tội. Mị Châu tin yêu chồng không có gì đáng trách nhưng nàng đã vi phạm nguyên tắc “bí mật quốc gia” của một người dân đối với đất nước, đặt tình riêng lên trên việc nước dù đó chỉ là do sự nhẹ dạ, vô tình. Nếu sự mất cảnh giác của ADV là nguyên nhân gián tiếp thì sự nhẹ dạ, ngây thơ của Mị Châu là nguyên nhân trực tiếp gây lên hoạ nước mất. Mị Châu tin yêu chồng bằng một tình yêu mù quáng. Nhân dân ta đã sáng tạo nên hình ảnh áo lông ngỗng là chi tiết nghệ thuật tài tình để thể hiện sáng rõ sự mù quáng đáng trách của Mị Châu. Trọng Thuỷ đánh tráo nỏ thần, trước khi về nước đã hỏi Mị Châu: “Ta nay trở về thăm cha … làm giấu.” Mị Châu đáp: “Thiếp có … làm dấu”. Trọng Thuỷ vừa về nước, chiến tranh hai nước xảy ra, lẫy nỏ không còn, phải lên ngựa bỏ chạy cùng vua cha, lẽ ra phải biết đó là âm mưu của Trọng Thuỷ, thế mà Mị Châu vẫn nhẹ dạ, mù quáng, không suy xét sự tình, vẫn rắc lông ngỗng làm dấu, có khác gì chỉ đường cho giặc đuổi theo mình. Việc làm đó của nàng đã trực tiếp dẫn tới bi kịch nhà tan. Vì vậy, không thể cho rằng làm một người vợ thì Mị Châu phải tuyệt đối nghe và làm theo lời chồng. Không thể cho rằng nàng là người vô tội, không phải chịu bất cứ trách nhiệm gì trước bi kịch nước mất nhà tan. Tội lỗi của nàng là hết sức nặng nề. Chính vì vậy, nhân dân ta không đánh giá nàng theo quan điểm đạo đức phong kiến thông thường mà đứng trên quan điểm của quốc gia, dân tộc để kết tội nàng.Với những lỗi lầm không thể tha thứ của một người dân đối với đất nước, nhân dân ta không những đã để cho Rùa Vàng (đại diện cho công lí của nhân dân) kết tội đanh thép, không khoan nhượng gọi nàng là giặc mà còn để cho Mị Châu phải chết dưới lưỡi kiếm nghiêm khắc của vua cha.

Song thái độ, cách đánh giá của nhân dân vừa thấu tình, vừa đạt lí. Mị Châu có tội nhưng những tội lỗi mà nàng gây ra không phải là chủ ý của nàng mà do nàng quá nhẹ dạ, yêu chồng bị lừa dối mà mắc tội. Hơn nữa, cuối cùng, nàng cũng đã tỉnh ngộ nhận ra kẻ thù và chấp nhận một cái chết đau đớn. Mị Châu có tội nàng đã phải đền nhưng nỗi oan của nàng cũng cần được giải. Sáng tạo nên chi tiết thần kì, ứng nghiệm với lời cầu khấn trước khi chết của Mị Châu, nhân dân ta đã bày tỏ thái độ bao dung, niềm cảm thông mà minh oan cho nàng. Đồng thời, thông qua chi tiết thần kì đó, ông cha ta cũng thể hiện thái độ nghiêm khắc của mình và truyền lại một bài học lịch sử muôn đời cho con cháu trong việc giải quyết mối quan hệ riêng – chung.

Xem thêm:  Những bí quyết về phương pháp làm bài văn thuyết minh

Trọng Thuỷ là một trong ba nhân vật chính của tác phẩm. Hắn là con trai của Triệu Đà, con dể của An Dương Vương, là chồng của Mị Châu công chúa. Sang Âu Lạc theo mưu kế nham hiểm của cha mình, Trọng Thuỷ lấy Mị Châu không phải vì tình yêu mà chỉ để lợi dụng nàng thực hiện một mưu đồ chính trị, để hoàn thành nhiệm vụ gián điệp được cha hắn giao phó mà thôi. Và với danh nghĩa một người chồng, Trọng Thuỷ đã hoàn thành xuất sắc vai trò gián điệp ấy. Hắn đã lợi dụng Mị Châu, lợi dụng sự nhẹ dạ, cả tin, lừa gạt tình cảm của nàng để đánh cắp nỏ thần và nham hiểm hỏi Mị Châu một câu hỏi đầy dụng ý trước khi về nước với mục đích để biết cách tìm đường đuổi theo An Dương Vương nếu nhà vua chạy trốn. Chính những việc làm này của hắn là những nguyên nhân trực tiếp dẫn tới bi kịch nước mất nhà tan của cha con ADV và nhân dân Âu Lạc. Hắn chính là kẻ thù của nhân dân Âu Lạc, là một kẻ rất đáng bị vạch mặt, lên án, tội lỗi đời đời.

Tuy nhiên, xét ở một góc độ khác, Trọng Thuỷ cũng chỉ là nạn nhân của một cuộc chiến tranh xâm lược. Trong tay của Triệu Đà, Trọng Thuỷ không hơn không kém cũng chỉ là một con bài chính trị mà thôi. Hơn nữa, mặc dù là một kẻ độc ác, Trọng Thuỷ cũng không phải hoàn toàn đã mất hết nhân tính của một con người. Chính lời nói của Trọng Thuỷ với Mị Châu trong lúc chia tay, hành động tự vẫn sau chuỗi ngày sống trong sự dày vò, ân hận của hắn đã nói lên điều đó.

Trước lúc chia tay về nước dâng lẫy nỏ thần cho Triệu Đà, Trọng Thuỷ đã nói với Mị Châu: “Tình vợ chồng … làm dấu”. Đây không hoàn toàn là những lời dối trá, lạnh lùng mà nó ẩn chứa ít nhiều tình cảm bùi ngùi, một nỗi đau li biệt.

Tính người của Trọng Thuỷ còn được thể hiện rõ hơn rất nhiều ở phần cuối cùng của tác phẩm khi tác giả dân gian miêu tả tâm trạng của Trọng Thuỷ sau cái chết của Mị Châu. Không đắm mình trong hào quang, danh vọng, trong hạnh phúc của sự thống trị uy quyền, sau khi Mị Châu chết, Trọng Thuỷ luôn sống trong nỗi niềm thương nhớ, trong nỗi ân hận dày vò và cuối cùng bế tắc, cùng đường hắn đã tự tìm cho mình cái chết. Trọng Thuỷ quyên sinh không phải chỉ là hành động sám hối cho một sai lầm mù quáng, mà còn là sự thức tỉnh của nhân tính, sự phủ nhận chiến tranh, sự từ chối mọi vinh quang quyền lực tìm về với cõi thiên thu để có được một tâm hồn thanh thản.

Phân tích nhân vật Mị Châu – Bài làm 5

Mị Châu là con gái của An Dương Vương Thục Phán, là một cô công chúa lá ngọc, cành vàng, có tâm hồn ngây thơ trong trắng, nhẹ dạ, cả tin và không có một chú gì về ý thức công dân. Xuất hiện ở phần sau của tác phẩm, Mị Châu cũng là người phải chịu trách nhiệm lớn trước bi kịch “nước mất nhà tan”.

Khi đánh giá về nhân vật này, đã xuất hiện nhiều ý kiến khác nhau, người lên án, kẻ bênh vực.

Những người bênh vực thì đã lấy đạo “tam tòng” (tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử), một quan điểm đạo đức thời phong kiến để bênh vực cho nàng. Theo họ, Mị Châu là người con gái hiền thục, trọn đạo hiếu, vâng lời cha lấy chồng, lấy chồng thì một lòng tin yêu chồng. Sao có thể trách nàng mất cảnh giác với cả chồng mình được? Vì vậy việc Mị Châu không giấu giếm Trọng Thuỷ điều gì là vô tội. Nhưng họ đã quên rằng, trong một đất nước nhiều giặc giã, một nàng công chúa lại chỉ biết làm trọn chữ “tòng” mà vô tình với vận mệnh quốc gia là có tội. Mị Châu tin yêu chồng không có gì đáng trách nhưng nàng đã vi phạm nguyên tắc “bí mật quốc gia” của một người dân đối với đất nước, đặt tình riêng lên trên việc nước dù đó chỉ là do sự nhẹ dạ, vô tình. Nếu sự mất cảnh giác của ADV là nguyên nhân gián tiếp thì sự nhẹ dạ, ngây thơ của Mị Châu là nguyên nhân trực tiếp gây lên hoạ nước mất. Mị Châu tin yêu chồng bằng một tình yêu mù quáng. Nhân dân ta đã sáng tạo nên hình ảnh áo lông ngỗng là chi tiết nghệ thuật tài tình để thể hiện sáng rõ sự mù quáng đáng trách của Mị Châu. Trọng Thuỷ đánh tráo nỏ thần, trước khi về nước đã hỏi Mị Châu: “Ta nay trở về thăm cha … làm giấu.” Mị Châu đáp: “Thiếp có … làm dấu”. Trọng Thuỷ vừa về nước, chiến tranh hai nước xảy ra, lẫy nỏ không còn, phải lên ngựa bỏ chạy cùng vua cha, lẽ ra phải biết đó là âm mưu của Trọng Thuỷ, thế mà Mị Châu vẫn nhẹ dạ, mù quáng, không suy xét sự tình, vẫn rắc lông ngỗng làm dấu, có khác gì chỉ đường cho giặc đuổi theo mình. Việc làm đó của nàng đã trực tiếp dẫn tới bi kịch nhà tan. Vì vậy, không thể cho rằng làm một người vợ thì Mị Châu phải tuyệt đối nghe và làm theo lời chồng. Không thể cho rằng nàng là người vô tội, không phải chịu bất cứ trách nhiệm gì trước bi kịch nước mất nhà tan. Tội lỗi của nàng là hết sức nặng nề. Chính vì vậy, nhân dân ta không đánh giá nàng theo quan điểm đạo đức phong kiến thông thường mà đứng trên quan điểm của quốc gia, dân tộc để kết tội nàng.Với những lỗi lầm không thể tha thứ của một người dân đối với đất nước, nhân dân ta không những đã để cho Rùa Vàng (đại diện cho công lí của nhân dân) kết tội đanh thép, không khoan nhượng gọi nàng là giặc mà còn để cho Mị Châu phải chết dưới lưỡi kiếm nghiêm khắc của vua cha.

Song thái độ, cách đánh giá của nhân dân vừa thấu tình, vừa đạt lí. Mị Châu có tội nhưng những tội lỗi mà nàng gây ra không phải là chủ ý của nàng mà do nàng quá nhẹ dạ, yêu chồng bị lừa dối mà mắc tội. Hơn nữa, cuối cùng, nàng cũng đã tỉnh ngộ nhận ra kẻ thù và chấp nhận một cái chết đau đớn. Mị Châu có tội nàng đã phải đền nhưng nỗi oan của nàng cũng cần được giải. Sáng tạo nên chi tiết thần kì, ứng nghiệm với lời cầu khấn trước khi chết của Mị Châu, nhân dân ta đã bày tỏ thái độ bao dung, niềm cảm thông mà minh oan cho nàng. Đồng thời, thông qua chi tiết thần kì đó, ông cha ta cũng thể hiện thái độ nghiêm khắc của mình và truyền lại một bài học lịch sử muôn đời cho con cháu trong việc giải quyết mối quan hệ riêng – chung.

Trọng Thuỷ là một trong ba nhân vật chính của tác phẩm. Hắn là con trai của Triệu Đà, con dể của An Dương Vương, là chồng của Mị Châu công chúa. Sang Âu Lạc theo mưu kế nham hiểm của cha mình, Trọng Thuỷ lấy Mị Châu không phải vì tình yêu mà chỉ để lợi dụng nàng thực hiện một mưu đồ chính trị, để hoàn thành nhiệm vụ gián điệp được cha hắn giao phó mà thôi. Và với danh nghĩa một người chồng, Trọng Thuỷ đã hoàn thành xuất sắc vai trò gián điệp ấy. Hắn đã lợi dụng Mị Châu, lợi dụng sự nhẹ dạ, cả tin, lừa gạt tình cảm của nàng để đánh cắp nỏ thần và nham hiểm hỏi Mị Châu một câu hỏi đầy dụng ý trước khi về nước với mục đích để biết cách tìm đường đuổi theo An Dương Vương nếu nhà vua chạy trốn. Chính những việc làm này của hắn là những nguyên nhân trực tiếp dẫn tới bi kịch nước mất nhà tan của cha con ADV và nhân dân Âu Lạc. Hắn chính là kẻ thù của nhân dân Âu Lạc, là một kẻ rất đáng bị vạch mặt, lên án, tội lỗi đời đời.

Tuy nhiên, xét ở một góc độ khác, Trọng Thuỷ cũng chỉ là nạn nhân của một cuộc chiến tranh xâm lược. Trong tay của Triệu Đà, Trọng Thuỷ không hơn không kém cũng chỉ là một con bài chính trị mà thôi. Hơn nữa, mặc dù là một kẻ độc ác, Trọng Thuỷ cũng không phải hoàn toàn đã mất hết nhân tính của một con người. Chính lời nói của Trọng Thuỷ với Mị Châu trong lúc chia tay, hành động tự vẫn sau chuỗi ngày sống trong sự dày vò, ân hận của hắn đã nói lên điều đó.

Trước lúc chia tay về nước dâng lẫy nỏ thần cho Triệu Đà, Trọng Thuỷ đã nói với Mị Châu: “Tình vợ chồng … làm dấu”. Đây không hoàn toàn là những lời dối trá, lạnh lùng mà nó ẩn chứa ít nhiều tình cảm bùi ngùi, một nỗi đau li biệt.

Tính người của Trọng Thuỷ còn được thể hiện rõ hơn rất nhiều ở phần cuối cùng của tác phẩm khi tác giả dân gian miêu tả tâm trạng của Trọng Thuỷ sau cái chết của Mị Châu. Không đắm mình trong hào quang, danh vọng, trong hạnh phúc của sự thống trị uy quyền, sau khi Mị Châu chết, Trọng Thuỷ luôn sống trong nỗi niềm thương nhớ, trong nỗi ân hận dày vò và cuối cùng bế tắc, cùng đường hắn đã tự tìm cho mình cái chết. Trọng Thuỷ quyên sinh không phải chỉ là hành động sám hối cho một sai lầm mù quáng, mà còn là sự thức tỉnh của nhân tính, sự phủ nhận chiến tranh, sự từ chối mọi vinh quang quyền lực tìm về với cõi thiên thu để có được một tâm hồn thanh thản.

Xem thêm:  Top 10 website những bài văn mẫu hay lớp 11 mới nhất

Phân tích nhân vật Mị Châu – Bài làm 6

Trong mỗi câu chuyện truyền thuyết đều thể hiện thời kỳ dựng nước và giữ nước của Việt Nam ta từ xưa tới nay. Trong đó, truyền thuyết “An Dương Vương, Mị Châu, Trọng Thủy” là một tác phẩm vô cùng tiêu biểu, để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc.

Đọc xong câu chuyện, người đọc không thể nào không suy nghĩ đến nhân vật Mị Châu, một người con gái nết na xinh đẹp, nhưng có chút ngây thơ khờ khạo để rồi phải trở thành tội nhân thiên cổ, và chết trong đau đớn. Mị Châu chính là con gái yêu kiều của của vua An Dương Vương, nàng nổi tiếng là cô gái xinh đẹp, trong sáng, ngây thơ, đoan trang đức hạnh, có có gì để phê phán.

Nhưng chính âm mưu thâm độc của Trọng Thủy đã khiến cho nàng rơi vào tình trạng không thể giải quyết trọn vẹn giữa hiếu và tình, Mị Châu trở thành kẻ tội đồ phản nghịch bán nước hại dân “cõng rắn cắn gà nhà” làm cho nhân dân lầm than, vua cha mất nước.

Thông qua truyền thuyết thì ta có thấy rằng Mị Châu là một người phản nghịch, một người con không biết nghĩ tới toàn cục. Một người vợ ngây thơ cả tin quá tin tưởng vào người chồng của mình để rồi bị lừa dối, bị phản bội, bản thân nàng cũng nhận hậu quả đáng thương.

Nhưng nếu nói rộng ra chúng ta không thể nào trách cứ Mị Châu, bởi cuộc hôn nhân của Mị Châu và Trọng Thủy đều do vua cha hai bên quyết định. Mị Châu chỉ là một cô gái yếu đuối không tự quyết định được số phận của mình cha mẹ đặt đâu con ngồi đó. Rồi khi làm vợ Trọng Thủy, Mị Châu không thể nào ngờ rằng người chồng của mình lại là kẻ lòng lang dạ thú, âm mưu cướp nước của mình mình, làm khổ vua cha. Mị Châu được xem lại tội danh thiên cổ của nước Âu Lạc khi chính nàng đã hai lần bán nước.

Lần thứ nhất khi nàng dẫn Trọng Thủy vào nơi cất giấu chiếc nỏ thần, nói cho Trọng Thủy nghe về sự thần kỳ của chiếc nỏ.

Lần thứ hai, chính là lúc nàng nghe lời Trọng Thủy mặc chiếc áo lông ngỗng khi hai nước giao tranh, khiến cho binh lính của nước xâm lăng tìm theo và giết cha nàng nhằm âm mưu

“Diệt cỏ tận gốc”. Mị Châu đã hại chính cha ruột của mình bởi sự ngây ngô tới mức ngu ngốc của nàng. Nên khi Trọng Thủy hỏi về bí mật quốc gia, Mị Châu vì quá yêu, nên đã mù quáng chỉ nghĩ tới tình cảm riêng tư mà cho Trọng Thủy xem bí mật của quốc gia đó chính là chiếc nỏ thần. Chính sự ngây thơ của Mị Châu tạo nên bi kịch của toàn lịch sử, nhưng nàng chỉ là một người con gái vừa đáng thương vừa đáng giận mà thôi.

Vì muốn chiều lòng chồng mà nàng đã lấy nỏ thần cho chồng mình xem, Mị Châu thật ngây thơ, khờ khạo trong tình yêu. Nàng không thể nào biết lường trước thủ đoạn khôn lường của người mà nàng luôn tin tưởng kia. Một âm mưu to lớn đằng sau con người lòng lang dạ thú mà nàng vẫn nghĩ đó là chồng mình.

Người phụ nữ thời xưa chỉ biết nghe theo lời cha mẹ, rồi khi lớn lên lấy chồng thì nghe lời chồng cuộc sống của họ không có quyền quyết định nên việc Mị Châu nghe lời chồng là một đạo lý mà chính xã hội phong kiến dạy cho nàng.

Suy cho cùng những gì Mị Châu làm đều là một suy nghĩ của một nhi nữ thường tình, một người con gái đoan trang đức hạnh thường có, cả cuộc đời người phụ nữ thường phải phụ thuộc vào người đàn ông người chồng của họ. Mị Châu nào phải người học rộng hiểu nhiều, có tài binh lược để hiểu hết người chồng của mình.

Một nàng công chúa hiền lành trong sáng, nhưng những tội ác mà nàng làm cho vua cha bị mất nước rồi bị giặc đuổi theo giết hại sĩ không thể nào xóa nhòa trong lịch sử. Chính vì vậy, cuối cùng Mị Châu đã phải đền tội dưới lưỡi kiếm của cha mình.

Bài học về nhân vật Mị Châu là một bài học vô cùng cay đắng xót xa cho người con gái thánh thiện nhưng quá khờ khạo và cả tin nên để mất giang sơ.

Phân tích nhân vật Mị Châu Trọng truyện An Dương Vương và Mị Châu Trọng Thủy

Phân tích nhân vật Mị Châu

Phân tích nhân vật Mị Châu – Bài làm 7

Đứng trước thành Cổ Loa, tôi chợt nhớ lại Truyện An Dương Vương và Mị Châu – Trọng Thủy. Nàng Mị Châu tội nghiệp đã vô tình gây nên bi kịch nước mất nhà tan và phải chịu chết thê thảm dưới lưỡi đao của

chính cha mình – An Dương Vương. Nói về người con gái thùy mị, nết na ấy, người thương kẻ xót nhưng cũng không ít những lời trách mắng vì chính sự ngây thơ, dại dột của nàng đã gây nên nỗi đau mất nước cho vua cha, cho cả đồng bào đất Việt.

Mị Châu được vua cha An Dương Vương gả cho con trai Đà là Trọng Thủy. Trọng Thủy dụ dỗ Mị Châu cho xem trộm nỏ thần rồi ngầm làm một cái lẫy nỏ khác thay vuốt Rùa Vàng, nói dối là về phương Bắc thăm cha, dặn Mị Châu nếu có hoạn nạn xảy ra thì nhớ làm dấu để Trọng Thủy biết đường tìm đến. Mị Châu nghe tin lời chồng. Còn An Dương Vương chủ quan vì mình có nỏ thần nên không sợ bất kỳ nước nào xâm chiếm. Trọng Thủy vừa về thì hai nước chiến tranh. An Dương Vương bấy giờ mới phát hiện nỏ thần bị mất, bèn dẫn theo con gái tháo chạy thoát thân. Đến bờ biển, vua cha phát hiện kẻ gian chính là Mị Châu liền vung kiếm chém chết nàng.

Người con gái tội nghiệp không hề ý thức được việc mình làm gây hậu quả nặng nề như thế nào cho đất nước. Thương nàng vì nàng một lòng tin chồng, yêu chồng nhưng cũng giận nàng vì không suy nghĩ cho kỹ trước những lời dụ dỗ của Trọng Thủy. Biết rằng lấy chồng phải theo chồng nhưng không phải vì thế mà cả tin đến mức mù quáng, dại dột dẫn đến sự việc đau lòng: nước mất nhà tan và cuối cùng là bị chính cha mình giết chết. Mọi việc đã được Đà sắp đặt, Mị Châu chỉ là nạn nhân và là công cụ để chúng sử dụng cho mục đích của mình.

Khi xét trên cương vị là một người vợ, Mị Châu đã hết lòng yêu thương chồng, tin tưởng chồng. Nàng là một người phụ nữ đúng nghĩa của gia đình phong kiến Việt Nam: thùy mị, nết na, công dung ngôn hạnh đều đủ cả. Lấy được người vợ hoàn hảo như vậy, lẽ ra Trọng Thủy phải trân trọng, nâng niu và đáp lại tấm lòng nàng bằng sự quân tử của mình. Việc Mị Châu cho chồng xem chiếc nỏ thần của An Dương Vương cũng vì nàng một lòng tin tưởng chồng. Nhưng đáng tiếc, Trọng Thủy lại là con trai của Đà, của nước láng giềng đã từng bại trận dưới tay An Dương Vương. Nỗi nhục thua trận chưa dứt, Đà bày mưu tính kế dùng hạnh phúc của con mình để đạt được điều mình muốn. Chiến tranh xảy ra, Mị Châu vẫn chưa biết chính mình là kẻ đã tiếp tay cho giặc, nàng vẫn tin tưởng Trọng Thủy tuyệt đối, rắc lông ngỗng để làm dấu cho

Trọng Thủy tìm theo. Và đúng như kế hoạch, chúng đã dành được chiến thắng, gây nên cái chết tội nghiệp cho nàng Mị Châu đáng thương.

Khi xét về cương vị là con gái vua An Dương Vương, là công chúa cả một đất nước, việc Mị Châu lén cho Trọng Thủy xem nỏ thần là hành động vi phạm bí mật quốc gia, gây nên hậu quả nghiêm trọng, đáng bị trừng phạt. Vua cha cũng rất nghiêm nghị, một khi đã vi phạm thì dù có là người thân thích, ruột thịt cũng phải chịu hình phạt như dân thường. Tình ngay nhưng lý gian. Mị Châu yêu chồng nhưng cũng thương cha. Mị Châu không phải người gian sảo, có mưu mô tính toán. Tất cả những gì nàng làm đều xuất phát từ tình yêu thương trong sáng. Chỉ có điều tình yêu ấy đã đặt nhầm chỗ khiến nàng phải chết thê thảm trong tay chính cha đẻ của mình.

Mị Châu chết ở bờ biển, máu chảy xuống nước, trai sò ăn phải đều biến thành hạt châu. Đúng như lời thề, Mị Châu được trời đất minh oan cho tấm lòng trong sạch. Tội là ở những kẻ đã lợi dụng lòng tốt của nàng

để thực hiện mưu đồ xấu xa. Trọng Thủy tìm đến vợ chỉ thấy cái xác. Trọng Thủy đau xót ôm xác vợ rồi tự tử chết theo. Kết thúc cả hai phải chết, Trọng Thủy tuy không phải đền tội với An Dương Vương nhưng việc chàng tự tử theo vợ là đã phần nào an ủi tấm lòng trong sạch của Mị Nương.

Dù sao đi nữa, câu chuyện của Mị Châu cũng mang đến cho người đọc bài học sâu sắc về lòng tin dành cho nhau. Nếu ở thời của nàng, tình yêu ấy là hoàn toàn đúng đắn, rất đáng được ngợi ca. Nhưng trong xã hội ngày nay, khi mà người ta sống với nhau vì nhiều mục đích toan tính ngoài việc yêu thương, đùm bọc nhau, mỗi người phụ nữ hãy luôn tự làm chủ chính mình. Yêu thương những phải luôn sáng suốt, phải phân biệt được việc gì đúng, việc gì sai, việc nào nên làm và không nên làm. Thời đại của thế kỷ XXI đòi hỏi người phụ nữ phải thông minh hơn nữa, linh hoạt hơn nữa. Mị Châu đáng thương nhiều hơn đáng trách. Cái giá phải trả cho tình yêu mù quáng của mình chính là cái chết, và chết ngay trong tay người cha thân yêu.

Tác giả dân gian đã dựng lên câu chuyện rất tài tình và đáng ngẫm nghĩ., mang lại bài học sâu sắc cho thế hệ sau về cách sống, cách yêu và cách nghĩ thông suốt, đúng đắn

Hi vọng với những bài văn mẫu Phân tích nhân vật Mị Châu trên đây cũng đã giúp cho các em học sinh thêm nhiều kiến thức bổ ích nhất. Các em đừng quên chia sẻ cho các bạn trong lớp để cùng học tập tốt hơn nhé!

Minh Nguyệt