Poliriboxom là gì
Vai trò của poliriboxom trong quá trình tổng hợp protein Show
Câu 3:Nêu vai trò của poliriboxom trong quá trình tổng hợp protein.
Bài làm: Câu 3:
Bài 2. Phiên mã và dịch mã – Câu 3 trang 14 SGK Sinh học 12. Nêu vai trò của poliriboxom trong quá trình tổng hợp protein?
Nêu vai trò của poliriboxom trong quá trình tổng hợp protein? Trên mỗi phân tử mARN thường có một số riboxom cùng hoạt đọng được gọi là poliriboxom. sự hình thành poliriboxom là sau khi riboxom thứ nhất dịch chuyển được 1 đoạn thì riboxom thứ 2 liên kết vào mARN. Tiếp theo đó là riboxom thứ 3, 4 …. Như vậy, mỗi 1 phân tử mARN có thể tổng hợp từ 1 đến nhiều chuỗi polipeptit cùng loại rồi tự hủy. Các riboxom được sử dụng qua vài thế hệ tế bào và có thể tham gia vào tổng hợp bất cứ loại protein nào. Xuất bản ngày 20/07/2018 - Tác giả: Hải Yến Xem ngay hướng dẫn cách làm và đáp án bài 3 trang 14 sách giáo khoa sinh học lớp 12 Đề bài Nêu vai trò của poliriboxom trong quá trình tổng hợp protein. Bài giải Vai trò của poliriboxom trong quá trình tổng hợp protein: - Trong quá trình dịch mã mARN thường không gắn với từng riboxom riêng rẽ mà đồng thời gắn với một nhóm riboxom gọi là poliriboxom (gọi tắt là polixom) giúp tăng hiệu suất tổng hợp protein. - Sau khi riboxom thứ nhất dịch chuyển được 1 đoạn thì riboxom thứ 2 liên kết vào mARN theo đó là riboxom thứ 3, 4 .... Như vậy, mỗi 1 phân tử mARN có thể tổng hợp từ 1 đến nhiều chuỗi polipeptit cùng loại rồi tự hủy. Các riboxom được sử dụng qua vài thế hệ tế bào và có thể tham gia vào tổng hợp bất cứ loại protein nào. Pôlixôm là tập hợp các ribôxôm cùng ở một phân tử RNA thông tin (mRNA) đang dịch mã trong tế bào.[1][2][3][4] Đây là thuật ngữ trong di truyền học, dịch theo kiểu phiên âm thông thường từ thuật ngữ nước ngoài là polysome, cũng viết là polyribosome (IPA: \pä-lē-ˈrī-bə-ˌsōm\) và đôi khi là ergasome.[5] Sự phát hiện ra pôlixôm bắt đầu vào khoảng những năm đầu của thập niên 1960.[6] Ban đầu được đặt tên là "ergosome" nhờ các nghiên cứu của Jonathan Warner, Paul M. Knopf,[7] cùng với Alexander Rich.[8] Sau đó, vào năm 1962 thì đổi tên là polyribosome, để mô tả dễ hiểu hơn cấu trúc này gồm nhiều (poly) bào quan là ribôxôm tạo thành một "thể dịch mã" (translatome).[3] Dần dần về sau, thuật ngữ "polyribosome" được gọi tắt là "polysome" như ngày nay thường dùng. Cấu trúc tổng quát của một pôlixôm. Nhờ kính hiển vi lực nguyên tử (Atomic-force microscopy, viết tắt là AFM), các nhà nghiên cứu đã thu được hình ảnh của pôlixôm ở cả tế bào sinh vật nhân sơ (vi khuẩn) và tế bào sinh vật nhân thực. Cấu trúc này gồm nhiều (2 trở lên) ribôxôm cùng bám dọc trên một chuỗi mRNA để tổng hợp cùng một loại prôtêin. Hình bên trình bày ba sơ đồ:
Một kiểu cấu trúc vòng của "thể dịch mã". Các nhà nghiên cứu phân biệt hai dạng tồn tại phổ biến của pôlixôm là dạng tuyến tính và dạng vòng.[9]
Ngoài ra, pôlixôm có thể bám màng hoặc tự do và lơ lửng trong chất nguyên sinh trong tế bào sống. Pôlixôm. Sơ đồ trên: Tập hợp các ribôxôm cùng ở một mRNA. Đồ thị dưới: nồng độ sucrôza và thành phần R 60S, R 40S.
Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Polysome&oldid=65517113” |