Quản lý ngân quỹ nhà nước nhằm mục dịch gì

Trong quá trình điều hành, quản lý NQNN, KBNN cũng đã phối hợp tốt với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam [sau đây gọi tắt là Ngân hàng Nhà nước] và các cơ quan, đơn vị có liên quan; qua đó, một mặt quản lý, điều hành NQNN linh hoạt, bám sát thị trường, đạt mục tiêu an toàn, hiệu quả; mặt khác, phối hợp nhịp nhàng giữa công tác quản lý NQNN với quản lý ngân sách nhà nước, quản lý nợ công và công tác điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế gắn liền với đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế.

Các đóng góp tích cực của công tác quản lý NQNN thời gian qua của KBNN trong việc phối hợp, nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách tiền tệ được thể hiện qua một số mặt chủ yếu như sau:

Một là, KBNN đã thiết lập hệ thống tài khoản thanh toán tập trung của KBNN tại Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại, phù hợp với thông lệ quốc tế và điều kiện thực tế của Việt Nam; trên cơ sở đó, triển khai hệ thống thanh toán điện tử tập trung với các hệ thống ngân hàng [thanh toán điện tử liên ngân hàng với Ngân hàng Nhà nước và thanh toán song phương điện tử với các hệ thống ngân hàng thương mại nơi KBNN mở tài khoản], đảm bảo tập trung nhanh nguồn thu, thanh toán, chi trả chính xác, kịp thời các khoản chi của ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, việc triển khai hệ thống thanh toán điện tử tập trung với các hệ thống ngân hàng cũng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tập trung NQNN về trung ương để điều hành thanh khoản chung trong toàn hệ thống; từ đó, nâng cao khả năng thanh khoản của NQNN so với giai đoạn trước đây [khi chưa triển khai thanh toán điện tử tập trung, KBNN phải điều hành thanh khoản theo số dư các tài khoản tiền gửi tại các đơn vị KBNN địa phương, lượng tiền dịch chuyển trên đường lớn, nên khả năng thanh khoản của hệ thống chưa cao] và tạo thuận lợi cho KBNN trong việc thống nhất và nâng cao hiệu quả quản lý các nguồn lực tài chính của nhà nước. Đặc biệt trong thời gian qua, sau khi được tập trung về trung ương, số dư NQNN này cũng được KBNN gửi tại Ngân hàng Nhà nước; từ đó, tạo thuận lợi cho Ngân hàng Nhà nước trong việc nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ. Việc xử lý các giao dịch thanh toán của Chính phủ thông qua hệ thống thanh toán điện tử tập trung cũng góp phần minh bạch hóa các luồng tiền vào, ra trong khu vực công; từ đó, tăng cường khả năng theo dõi, kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước đối với các giao dịch tiền tệ trong nền kinh tế.

Hai là, công tác dự báo luồng tiền trong quản lý NQNN [bao gồm dự báo thu NQNN và dự báo chi NQNN] và xây dựng phương án điều hành NQNN đã được KBNN triển khai với mức độ chính xác ngày càng được nâng cao, phản ánh gần sát với biến động thực tế. Kết quả dự báo và phương án điều hành NQNN một mặt là cơ sở để KBNN thực hiện các nghiệp vụ sử dụng NQNN tạm thời nhàn rỗi hoặc vay bù đắp NQNN tạm thời thiếu hụt theo chế độ quy định; từ đó, vừa đảm bảo thanh khoản của NQNN trong mọi thời điểm [kể cả những thời điểm căng thẳng của NSNN vào cuối năm], vừa nâng cao hiệu quả quản lý NQNN. Mặt khác, các thông tin này cũng được KBNN cung cấp, chia sẻ với Ngân hàng Nhà nước theo chế độ quy định, hỗ trợ cho việc quản lý lượng tiền lưu thông trong nền kinh tế và kiểm soát lạm phát của Ngân hàng Nhà nước. Đây là một trong những cơ sở quan trọng cho sự phối hợp nhịp nhàng giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ của Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước, góp phần vào sự ổn định chung của cả nền kinh tế.

Ba là, thông qua việc sử dụng NQNN tạm thời nhàn rỗi, đặc biệt là việc tạm ứng NQNN cho ngân sách nhà nước, KBNN đã hỗ trợ kịp thời cho ngân sách nhà nước khi nguồn thu chưa được tập trung kịp; từ đó, một mặt luôn đảm bảo khả năng thanh toán, chi trả của ngân sách nhà nước, đặc biệt là cho các nhu cầu chi an sinh xã hội, quốc phòng an ninh,…; mặt khác, tiết kiệm được một lượng kinh phí đáng kể cho ngân sách nhà nước khi không phải thực hiện vay nợ với kỳ hạn dài, lãi suất cao. Bên cạnh đó, việc tạm ứng cho ngân sách cấp tỉnh [để thực hiện các dự án đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thuộc kế hoạch vốn đầu tư công hàng năm và trung hạn vốn cân đối ngân sách địa phương đã được Hội đồng nhân dân tỉnh quyết định và được ghi trong dự toán ngân sách hàng năm được Hội đồng nhân dân phê duyệt nhằm đẩy nhanh tiến độ, sớm hoàn thành, đưa vào khai thác sử dụng] cũng đã và đang mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao tại từng địa phương, góp phần vào sự phát triển chung của cả nền kinh tế.

Ngoài ra, một lĩnh vực sử dụng NQNN tạm thời nhàn rỗi khác sẽ được KBNN sớm triển khai trong thời gian tới là nghiệp vụ mua lại có kỳ hạn trái phiếu Chính phủ. Đây là một trong những nghiệp vụ được nhiều quốc gia đã tiến hành cải cách quản lý NQNN sử dụng để nâng cao hơn nữa hiệu quả quản lý NQNN. Về cơ bản, nghiệp vụ này vừa góp phần nâng cao tính thanh khoản của trái phiếu Chính phủ, tái cơ cấu trái phiếu Chính phủ trong ngắn hạn, vừa tăng tốc độ luân chuyển của các dòng tiền, thúc đẩy sự phát triển của thị trường trái phiếu tại Việt Nam.

Bốn là, trong công tác quản lý ngoại tệ, khi phát sinh các khoản thu ngân sách nhà nước bằng ngoại tệ, KBNN đã chủ động phối hợp với Ngân hàng Nhà nước bán số ngoại tệ chưa có nhu cầu sử dụng để vừa giúp Ngân hàng Nhà nước thực hiện tốt chức năng quản lý ngoại hối, vừa tăng cường số dư quỹ dự trữ ngoại hối nhà nước – một công cụ quan trọng để Ngân hàng Nhà nước ổn định tỷ giá hối đoái. Ngược lại, trong trường hợp dự báo thu NQNN bằng ngoại tệ có khả năng không đáp ứng được nhu cầu chi NQNN bằng ngoại tệ [đặc biệt là các khoản chi trả nợ nước ngoài của Chính phủ], KBNN kịp thời báo cáo Bộ Tài chính để đề nghị Ngân hàng Nhà nước có phương án cân đối, bán ngoại tệ cho ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, với việc triển khai thanh toán song phương điện tử bằng ngoại tệ với ngân hàng thương mại, nguồn thu ngân sách nhà nước bằng ngoại tệ tại các địa phương cũng được tập trung nhanh chóng về trung ương và sau đó, được KBNN gửi tại Ngân hàng Nhà nước. Nhìn chung, với nghiệp vụ quản lý ngoại tệ chủ động, linh hoạt, công tác quản lý NQNN của KBNN đã tạo thuận lợi cho Ngân hàng Nhà nước thực hiện được đồng thời hai mục tiêu là mua ngoại tệ bổ sung quỹ dự trữ ngoại hối nhà nước và ổn định tỷ giá theo đúng mục tiêu đã đề ra.

Có thể nói, công tác quản lý NQNN của KBNN theo định hướng mới là vừa an toàn,vừa hiệu quả, tuy mới được KBNN triển khai thực hiện gần 02 năm trên cơ sở Luật Ngân sách nhà nước 2015 và Nghị định số 24/2016/NĐ-CP ngày 05/4/2016 của Chính phủ quy định chế độ quản lý NQNN; song bước đầu đã mang lại những kết quả rất đáng khích lệ, góp phần gắn kết chặt chẽ quản lý ngân sách, quản lý nợ với quản lý ngân quỹ; đồng thời, tạo một bước chuyển biến lớn trong việc quản lý hiệu quả nguồn lực tài chính nhà nước và trong công tác phối hợp điều hành chính sách tiền tệ, đảm bảo cho thị trường tiền tệ và tài khóa lành mạnh, ổn định.

Trong thời gian tới, để tiếp tục phối hợp đồng bộ, chặt chẽ với Ngân hàng Nhà nước trong việc điều hành chính sách tiền tệ, góp phần ổn định nền kinh tế, KBNN sẽ triển khai công tác quản lý NQNN và theo một số định hướng như sau:

Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý để vừa phục vụ tốt hơn các hoạt động cải cách quản lý NQNN phù hợp với thông lệ tốt trên thế giới, vừa tạo cơ sở, nền tảng để phối hợp chặt chẽ hơn nữa với Ngân hàng Nhà nước, đáp ứng các mục tiêu chung về kinh tế vĩ mô; trong đó, lợi ích quốc gia được đặt lên hàng đầu.

Thứ hai, chủ động phối hợp chặt chẽ với Ngân hàng Nhà nước trong việc cung cấp, chia sẻ thông tin và triển khai các nghiệp vụ quản lý ngân quỹ đảm bảo mục tiêu quản lý ngân quỹ gắn với quản lý ngân sách, quản lý nợ và việc thực thi chính sách tài khóa thống nhất với chính sách tiền tệ, triển khai từng bước các biện pháp điều chỉnh NQNN tiên tiến như mua lại có kỳ hạn trái phiếu Chính phủ trên thị trường thứ cấp,… theo thông lệ quốc tế.

Thứ ba, tiếp tục nâng cao chất lượng nguồn nhân lực KBNN nói chung, đặc biệt là nhân lực trong công tác cải cách quản lý NQNN, tổng kế toán nhà nước, đáp ứng yêu cầu cải cách quản lý ngân quỹ trong tình hình mới, đảm bảo theo đúng hướng an toàn, hiệu quả và chủ động.

Đối với KBNN, các định hướng nêu trên vừa là giải pháp, vừa là mục tiêu mà KBNN hướng đến trong thời gian tiếp theo để từ đó, góp phần vào việc thực hiện thành công Chiến lược phát triển KBNN đến năm 2020 nói chung và sự vận hành thông suốt, đồng bộ giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ, phục vụ mục tiêu tăng trưởng kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế theo chủ trương của Đảng và Chính phủ.

Theo Luật ngân sách nhà nước năm 2015, Cơ quan chủ quản chính quản lý quỹ ngân sách nhà nước là kho bạc nhà nước.

Khái niệm, đặc điểm quỹ ngân sách nhà nước

[i] Quỹ ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản tiền của Nhà nước, kể cả tiền vay có trên tài khoản của ngân sách nhà nước các cấp tại một thời điểm.

[ii] Đặc điểm quỹ ngân sách nhà nước:Quỹ ngân sách nhà nước là quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất, thuộc sở hữu của Nhà nước; quỹ ngân sách nhà nước có nguồn hình thành đa dạng: thuế, phí, lệ phí; hoạt động kinh tế của Nhà nước, …; quỹ ngân sách nhà nước có mục đích sử dụng rất phong phú, dựa trên cơ sở các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước và được thể hiện thông qua các khoản chi chính mà quỹ ngân sách nhà nước đảm nhận.

Khái niệm, đặc điểm quản lý quỹ ngân sách nhà nước

Khái niệm quản lý quỹ ngân sách nhà nước

Quản lý quỹ ngân sách nhà nước là quá trình tác động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đến quỹ ngân sách nhà nước, nhằm làm cho quỹ ngân sách nhà nước được hình thành và sử dụng đúng quy định của pháp luật, tránh bỏ sót nguồn thu và tình trạng thất thoát ngân quỹ, bảo đảm sử dụng hiệu quả và tiết kiệm quỹ ngân sách nhà nước.

[i] Phải đảm bảo tập trung đầy đủ, đúng hạn các khoản thu nộp vào quỹ ngân sách nhà nước; [ii] Phải đảm bảo thực hiện các khoản chi ngân sách tiết kiệm, có hiệu quả, tránh thất thoát tài sản trong quỹ ngân sách nhà nước; [iii] Phải thực hiện tốt công tác điều hòa vốn trong hệ thống kho bạc nhà nước, bảo đảm khả năng thanh toán của các đơn vị cũng như toàn hệ thống.

Đặc điểm quản lý quỹ ngân sách nhà nước
[i] Luôn có sự tham gia của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trong đó, cơ quan chủ quản chính là kho bạc nhà nước; [ii] Luôn gắn liền với các khoản tiền có trên tài khoản ngân sách nhà nước các cấp, chính là quỹ ngân sách nhà nước; [iii] Quản lý quỹ ngân sách nhà nước được thực hiện thông qua hoạt động quản lý việc tập trung các khoản thu ngân sách; cấp phát, thanh toán các khoản chi ngân sách và tổ chức điều hòa vốn trong hệ thống kho bạc ngân hàng.

  1. Bài viết trong lĩnh vực pháp luật nêu trên được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
  2. Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết
  3. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật:1900 6198,E-mail:.

Video liên quan

Chủ Đề