Sáng kiến kinh nghiệm về ứng dụng CNTT
Sáng Kiến Kinh Nghiệm Ứng Dụng Công Nghệ Thông Tin Trong Dạy Học Tiểu Học Show
Trang chủ » Tài Liệu Sáng Kiến Kinh Nghiệm » Sáng Kiến Kinh Nghiệm Ứng Dụng Công Nghệ Thông Tin Trong Dạy Học Tiểu Học
4.8 / 5 ( 5 bình chọn ) Trong bài viết hôm nay, Best4Team xin chia sẻ đến bạn đọc những sáng kiến kinh nghiệm ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học tiểu học – đây đều là những đề tài có đóng góp quan trọng trong sự nghiệp đổi mới nền giáo dục. Dựa vào đó, các giáo viên có thể linh hoạt hơn trong quá trình giảng dạy, thiết kế một bài giảng có nhiều hình ảnh trực quan, giúp học sinh hiểu bài nhanh hơn. SKKN Một số biện pháp ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học ở trường tiểu học
Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.44 KB, 29 trang ) PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN KIM ĐỘNG 5. Biện pháp 5 21 6. Biện pháp 6 24 PHẦN III: KẾT LUẬN 1. Bài học kinh nghiệm 26 2. Điều kiện áp dụng 26 3. Hướng tiếp tục nghiên cứu 26 4. Đề xuất kiến nghị 17 PHẦN I. PHẦN MỞ ĐẦU I. Lý do chọn sáng kiến 1. Lý do khách quan 1.1.Tầm quan trọng của công nghệ thông tin: 2 Sự phát triển như vũ bão của ngành khoa học và công nghệ đã đem lại những thành tựu to lớn trong mọi hoạt động của con người. Trong xu thế hội nhập với thế giới của Việt Nam, chúng ta luôn cập nhật được những tiến bộ trong cách dạy, cách học và phương thức quản lý giáo dục tiên tiến trên thế giới. Với xu thế thay đổi mô hình giáo dục theo hướng hiện đại thì trường học phải thay đổi môi trường giáo dục. Mọi tài nguyên, nguồn lực trong mỗi trường học cần tập trung vào việc tạp lập một môi trường học tập cởi mở, sáng tạo cho học sinh. Một môi trường giáo dục hiện đại sẽ cung cấp tối đa khả năng tự học, tìm kiếm thông tin cho mỗi học sinh; trong khi giáo viên chỉ hướng dẫn kĩ năng, phương pháp giiair quyết công việc và xử lý thông tin chính là cốt lõi của phương thức giáo dục này. Để hiện thực hóa những giá trị cốt lõi trên, công nghệ thông tin (CNTT) là một công cụ hữu hiệu. Máy vi tính với các phần mềm phong phú đã trở thành một công cụ đa năng ứng dụng trong mọi lĩnh vực của nghiên cứu, sản xuất và đời sống. Tuy nhiên nếu như công dụng của máy là tính là có thể đo đếm được thì sự ra đời của mạng máy tính toàn cầu (Internet) đem lại những hiệu quả vô cùng lớn, không thể đo đếm được. Chính vì vậy, ngày nay chúng ta thường nghe nói đến thuật ngữ Công nghệ thông tin &Truyền thông (ICT). Một máy tính nối mạng không phải chỉ giúp chúng ta đọc báo điện tử, gửi email mà nó là kênh kết nối chúng ta với tất cả thế giới. Chúng ta có thể tiếp cận toàn bộ tri thức nhân loại, có thể làm quen giao tiếp với nhau hoặc tham gia những tổ chức ở xa nửa vòng trái đất. Mạng máy tính toàn cầu thực sự đã tạo ra một thế giới mới trong đó cũng có gần như các hoạt động của thế giới thực: thương mại điện tử (ecommerce), giáo dục điện tử (elearning), trò chơi trực tuyến (game online), các diễn đàn (forum), các mạng xã hội (social network), các công dân điện tử (blogger), … Thông qua các diễn đàn và mạng xã hội, tất cả mọi người có thể trao đổi, chia sẻ với nhau các tài nguyên số, cũng như các kinh nghiệm trong công việc trong đời sống và công việc. Ví dụ mọi người có thể chia sẻ các đoạn phim hoặc các bài hát, có thể chia sẻ các bài viết về những kiến thức khoa học, xã hội, v.v… Ví dụ các bậc 3 phụ huynh trên cả nước có thể chia sẻ kinh nghiệm về cách chăm sóc con cái. Các giáo viên có thể chia sẻ các tư liệu ảnh, phim, các bài giảng và giáo án với nhau, để xây dựng một kho tài nguyên khổng lồ phục vụ cho việc giảng dạy của mỗi người. Học sinh cũng có thể thông qua các mạng xã hội để trao đổi những kiến thức về học tập và thi cử. Trong thời đại ngày nay, sự bùng nổ Công nghệ thông tin đã tác động lớn đến công cuộc phát triển kinh tế xã hội người. Đảng và Nhà nước đã xác định rõ ý nghĩa và tầm quan trọng của tin học và Công nghệ thông tin, truyền thông cũng như những yêu cầu đẩy mạnh của ứng dụng Công nghệ thông tin, đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu Công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở cửa và hội nhập, hướng tới nền kinh tế tri thức của nước ta nói riêng - thế giới nói chung. 1.2. Tầm quan trọng của CNTT trong nhà trường Khi công nghệ thông tin càng phát triển thì việc phát ứng dụng công nghệ thông tin vào tất cả các lĩnh vực là một điều tất yếu. Trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, CNTT bước đầu đã được ứng dụng trong công tác quản lý, một số nơi đã đưa tin học vào giảng dạy, học tập. Tuy nhiên, so với nhu cầu thực tiễn hiện nay, việc ứng dụng CNTT trong giáo dục ở các trường nước ta còn rất hạn chế. Chúng ta cần phải nhanh chóng nâng cao chất lượng, nghiệp vụ giảng dạy, nghiệp vụ quản lý, chúng ta không nên từ chối những gì có sẵn mà lĩnh vực CNTT mang lại, chúng ta nên biết cách tận dụng nó, biến nó thành công cụ hiệu quả cho công việc của mình, mục đích của mình. Hơn nữa, đối với giáo dục và đào tạo, công nghệ hông tin có tác dụng mạnh mẽ, làm thay đổi nội dung, phương pháp dạy và học. CNTT là phương tiện để tiến tới “xã hội học tập”. Mặt khác, giáo dục và đào tạo đóng vai trò quan trọng thúc đẩy sự phát triển của CNTT thông qua việc cung cấp nguồn nhân lực cho CNTT. Chính vì xác định được tầm quan trọng đó nên Nhà nước ta đã đưa môn tin học vào trong nhà trường và ngay từ Tiểu học học sinh được tiếp xúc với môn tin học để làm quen dần với lĩnh vực CNTT, tạo nền móng cơ sở ban đầu để học những phần nâng cao trong các cấp tiếp theo. 4 Với tầm quan trọng đó, năm học 2008-2009 Bộ giáo dục và đào tạo đã đưa ra chủ đề “ Năm ứng dụng CNTT " trong giáo dục đào tạo ở tất cả các cấp học, bậc học, ngành học theo hướng dẫn học CNTT như là một công cụ hỗ trợ đắc lực nhất cho đổi mới phương pháp dạy học ở các môn. Nhưng làm thế nào để ứng dụng CNTT hiệu quả trong các tiết dạy đó là vấn đề mà bất cứ một giáo viên nào cũng phải băn khoăn khi có ý định đưa CNTT vào giảng dạy. 2. Lý do chủ quan Năm học 2008- 2009 là năm Bộ GD&ĐT phát động là năm học ứng dụng công nghệ thông tin và năm học 2009 – 2010 là năm đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin nhưng tôi không cảm thấy bỡ ngỡ, xa lạ bởi tôi nhận ra những công dụng và ích lợi của việc ứng dụng công nghệ thông tin và bản thân tôi đã có một quá trình trong việc ứng dụng CNTT trong dạy học. Phong trào ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học và quản lý giáo dục nhận được sự quan tâm chỉ đạo của các cấp chính quyền, của ngành giáo dục, sự ủng hộ của giáo viên, học sinh và nhân dân đã có sự phát triển mạnh mẽ, rộng lớn nhưng vẫn còn gặp nhiều khó khăn lúng túng, chưa có chiều sâu và chưa mang lại hiệu quả đúng với vai trò của nó. Thời gian gần đây, phong trào thi đua soạn bài giảng điện tử để đổi mới cách dạy và học đã được nhiều Cán bộ giáo viên hưởng ứng tích cực. Đây được coi là con đường ngắn nhất để đi đến đích của chất lượng dạy học trong các nhà trường. Xuất phát từ thực trạng giảng dạy của đội ngũ cán bộ, giáo viên của Ngành. Mặc dù hầu hết trình độ giáo viên của các trường đều đạt trên chuẩn và trên chuẩn cao, tuy vậy vẫn còn nhiều giáo viên dạy theo phương pháp truyền thống, nặng về phương pháp thuyết trình, độc thoại, ngại sử dụng phương pháp mới mà đặc biệt là việc ứng ứng dụng CNTT trong giảng dạy. Việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy ở các trường hầu hết thông qua các đợt hội giảng, ứng dụng CNTT chưa thường xuyên, còn mang tính hình. Để thúc đẩy việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy và quản lý giáo dục tại các trường tiểu học, góp phần nâng cao chất lượng dạy học, tôi mạnh 5 dạn nghiên cứu vấn đề “Một số biện pháp Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học”. PHẦN II. NỘI DUNG I. Cơ sở lí luận về “Ứng dụng công nghệ thông tin” 1. Cơ sở pháp lý 6 - Chỉ thị số 58-CT/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển CNTT phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa . - Chỉ thị 29/CT của Trung Ương Đảng về việc đưa CNTT vào nhà trường. Chỉ thị 29 nêu rõ: “Ứng dụng và phát triển CNTT trong giáo dục và đào tạo sẽ tạo ra một bước chuyển cơ bản trong quá trình đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giảng dạy, học tập và quản lí giáo dục” .” Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong giáo dục và đào tạo ở tất cả các cấp học, bậc học, ngành học theo hướng sử dụng CNTT như một công cụ hỗ trợ đắc lực nhất cho đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập ở tất cả các môn học” . - Trong nhiệm vụ năm học 2005 - 2006 Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo nhấn mạnh: Khẩn trương triển khai chương trình phát triển nguần nhân lực CNTT từ nay đến năm 2010 của chính phủ và đề án dạy Tin học ứng dụng CNTT và truyền thông giai đoạn 2005 - 2010 của ngành. - Chiến lược phát triển giáo dục 2005 – 2010 chỉ rõ :”Nhanh chóng áp dụng CNTT vào giáo dục để đổi mới phương pháp giáo dục và quản lí”. 2. Cơ sở lý luận Công nghệ thông tin, viết tắt CNTT, (tiếng Anh: Information Technology hay là IT) là ngành ứng dụng công nghệ quản lý và xử lý thông tin. CNTT là sử dụng máy tính và phần mềm máy tính để chuyển đổi, lưu trữ, bảo vệ, xử lý, truyền, và thu thập thông tin. Ở Việt Nam khái niệm CNTT được hiểu và định nghĩa trong nghị quyết Chính phủ 49/CP kí ngày 04/08/1993: Công nghệ thông tin là tập hợp các phương pháp khoa học, các phương tiện và công cụ kĩ thuật hiện đại - chủ yếu là kĩ thuật máy tính và viễn thông - nhằm tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thông tin rất phong phú và tiềm năng trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội. Trong hệ thống giáo dục Tây phương, CNTT đã được chính thức tích hợp vào chương trình học phổ thông. Người ta đã nhanh chóng nhận ra rằng nội dung về CNTT đã có ích cho tất cả các môn học khác. 7 Với sự ra đời của Internet mà các kết nối băng tần rộng tới tất cả các trường học, áp dụng của kiến thức, kỹ năng và hiểu biết về CNTT trong các môn học đã trở thành hiện thực. Công nghệ thông tin là công cụ đắc lực hỗ trợ đổi mới phương pháp giảng dạy, học tập và hỗ trợ đổi mới quản lý giáo dục, góp phần nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng giáo dục. Phát triển nguồn nhân lực CNTT và ứng dụng CNTT trong giáo dục là một nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa quyết định sự phát triển CNTT của đất nước. II. Thực trạng ứng dụng CNTT trong nhà trường tiểu học hiện nay 1. Những trở ngại khi sử dụng giáo án điện tử Phần lớn các giáo viên ngại sử dụng giáo án điện tử, nghĩ rằng sẽ tốn thời gian để chuẩn bị một bài giảng. Việc thực hiện một bài giảng một cách công phu bằng các dẫn chứng sống động trên các slide trong các giờ học lý thuyết là một điều mà các giáo viên không muốn nghĩ đến. Để có một bài giảng như thế đòi hỏi phải mất nhiều thời gian chuẩn bị mà đó chính là điều mà các giáo viên thường hay tránh. Khảo sát hiệu quả từ phía học sinh cho thấy, nếu sử dụng phương pháp dạy học truyền thống với phấn trắng bảng đen thì hiệu qua mang lại chỉ có 30%, trong khi hiệu quả của phương pháp multimedia (nhìn - nghe) lên đến 70%. Việc sử dụng phương pháp mới đòi hỏi một giáo án mới. Thực ra, muốn “click” chuột để tiết dạy thực sự hiệu quả thì giáo viên phải vất vả gấp nhiều lần so với cách dạy truyền thống. Ngoài kiến thức căn bản về vi tính, sử dụng thành thạo phần mềm Power point, Violet,… giáo viên cần phải có niềm đam mê thật sự với công việc thiết kế đòi hỏi sự sáng tạo, sự nhạy bén, tính thẩm mỹ để săn tìm tư liệu từ nhiều nguồn. Hơn nữa trong quá trình thiết kế, để có được một giáo án điện tử tốt, từng cá nhân giáo viên còn gặp không ít khó khăn trong việc tự đi tìm hình ảnh minh hoạ, âm thanh sinh động, tư liệu dẫn chứng phù hợp với bài giảng. Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân mà một số giáo viên thường đưa ra để tránh né việc thực hiện dạy ứng dụng CNTT. Một số tiết dạy có ứng dụng CNTT thì thường trình chiếu 8 nội dung bài dạy suốt cả tiết học làm cho học sinh mỏi mắt, đưa vào tình trạng mệt mỏi, kém tích cực. Còn một số tiết dạy thì nội dung không nhất thiết phải trình chiếu cũng thể hiện lên, chưa chắt lọc được phần kiến thức nào thì nên dùng phần mềm để hỗ trợ. Một số hoạt động tiếp cận khái niệm, mô tả khái niệm, quy tắc chưa biết khai thác thế mạnh của các phần mềm ứng dụng như Power point, Sketchpat, . . . Chính vì những khó khăn trên mà các giáo viên chỉ ứng dụng CNTT khi có nhu cầu. Tức là chỉ có thao giảng, thì mới sử dụng và việc làm này chỉ mang tính chất đối phó. Tình trạng này cũng phổ biến trong các trường phổ thông. Mục đích sử dụng máy tính phục vụ cho công tác giảng dạy chỉ được áp dụng trong các tình huống này. 2. Thực trạng ứng dụng CNTT trong nhà trường tiểu học hiện nay Từ khá sớm, một số trường học đã bắt đầu đưa công nghệ thông tin vào giảng dạy. Hầu hết các trường đều chưa có phòng máy tính riêng. Mặc dù một số trường được trang bị một số máy tính tuy nhiên chỉ nhằm mục đích ứng dụng trong công tác lưu trữ, quản lý hồ sơ nhân sự hay trợ giúp việc thi cử. Như vậy, có thể thấy chúng ta đã bỏ phí rất nhiều tiềm năng của máy tính, chưa khai thác hết những ứng dụng to lớn của công nghệ thông tin, mà một trong những ứng dụng đó là việc sử dụng các phần mềm hỗ trợ giảng dạy cho các tiết học trên lớp đối với các môn văn hoá khác như: Toán, tiếng Việt, Tự nhiên xã hội, Đạo đức v.v Chính vì vậy, nhu cầu sử dụng phần mềm trong giảng dạy hiện nay là rất lớn. Hầu hết các giáo viên đều nhận thấy đây là vấn đề cấp thiết cần thực hiện ngay. Các lãnh đạo trường cũng như các cơ quan giáo dục đều khuyến khích và coi khả năng sử dụng giáo án điện tử, bài giảng điện tử là ưu điểm của giáo viên. Do đó, các lớp tập huấn Tin học sử dụng Powerpoint, Violet, thường được các giáo viên tham gia rất đông. Trong các cuộc thi giáo viên dạy giỏi, gần như 100% là các bài giảng là dùng phần mềm. Đa số các trường học đều đã trang bị máy chiếu để phục vụ việc giảng dạy bằng máy tính. Trên thực tế thì các phần mềm giáo dục của Việt Nam cũng đã xuất hiện rất nhiều, phong phú về nội dung và hình thức như: sách giáo khoa điện tử, các website 9 đào tạo trực tuyến, các phần mềm multimedia dạy học, Trên thị trường có thể dễ dàng lựa chọn và mua một phần mềm dạy học cho bất cứ môn học nào từ lớp một cho đến luyện thi đại học. Tuy nhiên, các phần mềm dạy học cho học sinh, dù đã có rất nhiều cố gắng về mặt hình thức và nội dung song sự giao tiếp giữa máy với người chắc chắn không thể bằng sự giao tiếp giữa thầy với trò Hiện nay, các công ty thiết bị giáo dục cũng thường xây dựng các video quay các tiết giảng mẫu để đưa về các trường. Tuy nhiên định hướng này khó phát huy được hiệu quả, vì sản phẩm cũng chỉ như một giáo án tham khảo trong khi chi phí để xây dựng rất lớn (vài chục triệu đồng/tiết dạy) mà hầu như không thể chỉnh sửa về sau được. Nó thậm chí còn có thể gây phản tác dụng khi tạo ra sự áp đặt cho giáo viên, tạo ra tư duy lười suy nghĩ vì chỉ cần dạy theo giáo án mẫu, làm giảm đi sự sáng tạo của giáo viên trong việc giảng dạy 3. Các hình thức ứng dụng CNTT trong dạy học Hiện nay, trên thế giới người ta phân biệt rõ ràng 2 hình thức ứng dụng CNTT trong dạy và học, đó là Computer Base Training, gọi tắt là CBT (dạy dựa vào máy tính), và E-learning (học dựa vào máy tính). Trong đó: - CBT là hình thức giáo viên sử dụng máy vi tính trên lớp, kèm theo các trang thiết bị như máy chiếu (hoặc màn hình cỡ lớn) và các thiết bị multimedia để hỗ trợ truyền tải kiến thức đến học sinh, kết hợp với phát huy những thế mạnh của các phần mềm máy tính như hình ảnh, âm thanh sinh động, các tư liệu phim, ảnh, sự tương tác người và máy. - E-learning là hình thức học sinh sử dụng máy tính để tự học các bài giảng mà giáo viên đã soạn sẵn, hoặc xem các đoạn phim về các tiết dạy của giáo viên, hoặc có thể trao đổi trực tuyến với giáo viên thông mạng Internet. Điểm khác cơ bản của hình thức E-learning là lấy người học làm trung tâm, học viên sẽ tự làm chủ quá trình học tập của mình, giáo viên chỉ đóng vai trò hỗ trợ việc học tập cho học viên. Như vậy, có thể thấy CBT và E-learning là hai hình thức ứng dụng CNTT vào dạy và học khác nhau về mặt bản chất. Một bên là hình thức hỗ trợ cho giáo viên, lấy người dạy làm trung tâm và cơ bản vẫn dựa trên mô hình lớp học cũ. Còn một bên là 10 hình thức học hoàn toàn mới, lấy người học làm trung tâm, trong khi giáo viên chỉ là người hỗ trợ. Tuy nhiên, ở Việt Nam nhiều người vẫn bị nhầm lẫn 2 khái niệm này, trong đó có không ít các chuyên gia giáo dục, nên nhiều khi dẫn đến những sai lầm trong đường hướng chỉ đạo. Vì vậy, tôi sẽ phân tích kỹ hơn nhưng mặt mạnh mặt yếu của CBT và E-learning để có thể hiểu rõ hơn chúng ta đã làm gì, cần làm gì và nên làm gì trong giai đoạn hiện nay. CBT E-learning Có thể phát triển, cải tiến từ phương pháp dạy học truyền thống. Vẫn dựa trên những hình thức cơ bản của một lớp học thông thường Thay đồi hoàn toàn cách dạy và học. Người học có thể học riêng rẽ, học ở nhà hoặc ở nơi làm việc. E-learning khai thác được tối đa sức mạnh của thế giới Internet: khả năng phổ biến rất cao (có thể 1 bài giảng hàng triệu người học), hay có khả năng cập nhật các thông tin mới ngay lập tức. Chi phí đầu tư ban đầu thấp. Chỉ cần trang bị cho lớp học máy tính, máy chiếu và các thiết bị multimedia. Chi phí đầu tư ban đầu rất cao. Mỗi lớp học phải là một phòng máy tính nối mạng Internet, mỗi học sinh và giáo viên phải có máy tính riêng và những phần mềm chuyên dụng. CBT là phương pháp kết hợp được cả những thế mạnh của phương pháp dạy học truyền thống (dựa trên giao tiếp thầy-trò) và khai thác được những ưu thế của các công nghệ hiện đại (ví dụ những bài giảng điện tử). Chỉ dựa trên thế mạnh của các bài giảng điện tử, hầu như không có giao tiếp thầy trò. Phù hợp hơn với giáo dục phổ thông, vì là ở giáo dục phổ thông, giáo viên không chỉ dạy kiến thức mà còn phải theo dõi hướng dẫn cách tư duy. Vả lại Phù hợp hơn với giáo dục Đại học, Sau đại học và những người đã đi làm. 11 học sinh nhỏ tuổi chưa đủ khả năng để làm chủ được quá trình học tập của mình. Đây là phương pháp mà các giáo viên ở Việt Nam hay dùng phổ biến hiện nay như dùng Powerpoint, Violet để thiết kế bài giảng và dạy học dùng máy chiếu. Những kết quả thu được là rất đáng kể. Chưa phải là hình thức phổ biến lắm ở Việt Nam. Mới chỉ có một số trường ĐH có hệ thống E-learning riêng như ĐH Sư phạm HN, ĐH Xây dựng HN, ĐH Cần Thơ, III. Một số biện pháp ứng dụng Công nghệ thông tin trong dạy học 1. Biện pháp 1: Hướng dẫn tự bồi dưỡng, trang bị những kiến thức Tin học cơ bản nhất về công nghệ thông tin cho cán bộ, giáo viên trong các nhà trường. Mặc dù GAĐT chưa được các trường học đón nhận rộng rãi, chưa thực sự phổ biến nhưng bước đầu đã tạo ra một không khí học tập và làm việc khác hẳn cách học và cách giảng dạy truyền thống. Phải chăng việc dạy bằng GAĐT sẽ giúp người thầy đỡ vất vả bởi vì chỉ cần “click” chuột? Thực ra muốn “click” chuột để tiết dạy thực sự hiệu quả thì người dạy cũng phải chịu bỏ nhiều công sức tìm hiểu và làm quen với cách soạn và giảng bài mới này. Cụ thể người thầy cần phải: - Có một ít kiến thức hiểu biết về sử dụng máy tính. - Biết sử dụng phần mềm trình diễn PowerPoint2003 ( và đối với môn Toán : Phần mềm Geometer’s Sketchpad, VisuaBasic, Violet, … ) - Biết cách truy cập Internet. - Có khả năng sử dụng được một số phần mềm chỉnh sửa ảnh, cắt phim, làm các ảnh động bằng Plash, cắt các file âm thanh,… - Biết sử dụng máy chiếu Projector ( Máy chiếu đa năng ) Mới nghe thì có vẻ mới mẻ và phức tạp nhưng thực sự muốn ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy có bắt buộc thì phải thực hiện hết các yêu cầu trên hay không? Câu trả lời là không. Vì nó còn tùy thuộc vào tính chất của mỗi môn học mà các yêu cầu khác nhau được đặt ra cho mỗi giáo viên. Tuy nhiên, nếu đáp ứng được 12 các yêu cầu trên thì thật là tuyệt vời, lúc đó chất lượng Dạy - học như thế nào thì các bạn đồng nghiệp tự thảo luận?. Tại sao tôi lại đặt ra các yêu cầu đó? Các bạn thử tưởng tượng xem nếu một người nào đó không có khái niệm gì về CNTT thì liệu họ có bật máy tính lên và chọn cho mình một chương trình làm việc hay không? Liệu họ có biết được tài liệu của mình nằm ở đâu trên máy tính hay không? Có biết cách Copy (sao chép) tài liệu từ nơi này sang nơi khác hay Delete( xóa) một tài liệu khi không dùng nữa? Nghĩa là dù ít hay nhiều thì cũng phải sử dụng được máy tính theo ý riêng mình. Ở đây, vấn đề cần đặt ra là từ những giáo án được soạn sẵn trên giấy và được trình bày lại trên bảng đen làm thế nào để giáo án đó trở thành GAĐT được trình bày trên màn chiếu projector? Điều này đòi hỏi người thầy trước hết phải biết sử dụng phần mềm PowerPoint 2003 ( phần mềm nằm trong bộ MS Office 2003, hiện nay đã có PowerPoint trong bộ MS Office 2007) dùng để tạo các trình diển đa dạng trên máy tính. Ngoài ra có các phần mềm Cabri (Toán) ,GEOSPACW (Toán ), GraphCalc (Toán), PhotoFrameShow (xử lí hình ảnh), Geometer’s Sketchpad(GSP) … Nếu chỉ dừng ở mức độ soạn thảo những nội dung cần thiết và cộng thêm các thao tác định dạng về màu sắc, font chữ tôi nghĩ rằng chắc thầy cô nào cũng có thể làm được. Tuy nhiên nếu chỉ có làm như thế thì chúng ta chưa thực sự thấy được sức mạnh của PowerPoint 2003 ( hay PowerPoint 2007) và cũng như một số phần mềm kể trên lúc đó cũng như chưa phát huy hiệu quả của phương pháp giảng dạy mới này. Ví dụ: với môn Lịch sử khi dạy về các trận chiến của quân ta và địch, thay vì giáo viên thuật lại các trận đánh dựa trên bản đồ vẽ sẵn thì bây giờ học sinh nhìn vào trên màn hình lớn các trận đánh sẽ diễn ra qua các đoạn phim tài liệu mà giáo viên chèn vào… Với những nội dung bài giảng, hình ảnh minh họa được đưa vào bài giảng, thao tác cơ bản đòi hỏi người thầy phải nắm được là thiết lập các hiệu ứng để làm sao cho bài giảng được sinh động, mang lại không khí học tập sôi động và mới mẻ. Vậy các hiệu ứng đó là gì? Đó là các hoạt cảnh của các đối tượng (văn bản, hình ảnh, ) được thiết lập có thứ tự, có thể là dòng chữ hay hình ảnh này xuất hiện trước dòng chữ hay hình ảnh kia, hay có thể là dòng chữ hay hình ảnh này xuất hiện sang trái, dòng 13 chữ hay hình ảnh xuất hiện sang phải….Chẳng hạn trong giờ học Toán giáo viên (GV) đưa ra bài toán trắc nghiệm (chọn Đúng hoặc Sai: ( Phần mềm VisuaBasic hay PowerPoint hay Violet sẽ làm được điều đó) sau đó mới kiểm nghiệm kết quả trên màn hình, như thế mới tiết kiệm được thời gian chép câu hỏi lên bảng, đồng thời tăng khả năng tư duy của học sinh (HS). Với đặc điểm này GV tiết kiệm được thời gian viết nội dung lên bảng, nội dung hiển thị đến đâu GV giảng đến đó, làm cho thời gian giảng bài nhiều hơn, logic hơn , HS hiểu bài sâu hơn. Đối với môn Lịch sử, Địa lý bài giảng thường đi kèm với nhiều hình ảnh minh họa. Có thể là hình ảnh mô tả một trận chiến, các căn cứ địa cách mạng, hay hình ảnh của các vùng kinh tế, khí hậu, diện tích lãnh thổ của các nước trên thế giới,……Nếu chỉ trình bày xuông sẽ không hấp dẫn học trò bằng giảng dạy giáo án điện tử. Hiện tại những hình ảnh minh họa, phần mềm cho các nội dung bài dạy nói trên tương đối nhiều trên Internet mà hiện tại nhà trường đều đã có mạng Internet , tôi nghĩ rằng nếu chỉ cần bỏ một chút thời gian lên mạng mà có được những phần mềm, hình ảnh, đoạn phim cần minh họa cho bài giảng thì người thầy nào cũng sẵn lòng cả. Điều đó đồng nghĩa với việc giáo viên phải biết cách truy cập mạng Inernet để lấy thông tin. Tuy nhiên không phải hình ảnh nào cũng lấy từ Internet được mà những hình ảnh cần lấy từ sách giáo khoa (SGK) thì lúc đó ta phải Scaner(quét ảnh), chụp ảnh và chỉnh sửa ảnh …. Nói tóm lại để có được một GAĐT tạm gọi là hiệu quả thì mỗi GV cần phải có chút ít về kĩ thuật tin học. Bài giảng sau khi được thiết kế sẽ được trình chiếu lên màn hình thông qua đầu projector. Điều đó dù muốn hay không mỗi GV buộc phải biết cách sử dụng nó. Đây là một trong những yêu cầu bắt buộc đối với GV chỉ cần một vài thao tác lắp máy chiếu với Case của máy vi tính hoặc Laptop (máy tính xách tay) và điều chỉnh độ nét, độ lớn trên màn hình, lúc này GV chắc hẳn có một bài giảng chất lượng, HS sẽ có một tiết học thoải mái và sôi động. Điều cuối cùng tôi muốn nói đến là nhờ GAĐT mà các giáo viên đã tạo ra một không khí khác hẳn so với giờ dạy truyền thống. Học sinh buộc phải tập trung nghe giảng và tư duy nhiều hơn trong các giờ học. Tuy nhiên, để làm được điều đó người 14 dạy phải có một kiến thức nhất định. Chẳng hạn sử dụng được phần mềm trình chiếu PowrPoint để trình bày bài giảng và cần phải có khái niệm về các phương tiện kĩ thuật đã được đề cập là các phương tiện hỗ trợ cho việc giảng dạy chứ không thể thay thế được vai trò chủ đạo của người thầy trong giờ lên lớp. 2. Biện pháp 2: Hướng dẫn một số quy trình và nguyên tắc khi thực hiện bài giảng ứng dụng Công nghệ thông tin Hiện tại, ở trường đã và đang áp dụng GAĐT trong các giờ dạy, nhưng vấn đề đặt ra là việc áp dụng như vậy đã đúng chưa, đã hiệu quả chưa ? Nếu chưa thì áp dụng thế nào cho đúng quy trình để chuẩn bị cho một GAĐT? Khi chuyển từ bài giảng truyền thống sang việc giảng bài bằng GAĐT (ứng dụng CNTT trong dạy học), hầu hết các giáo viên ở trường nói chung thường mang một tư tưởng của bài giảng cũ để áp đặt vào. Nghĩa là nghĩ và sẽ trình bày những gì mình nói và viết tất cả các nội dung vào trong Slide. Điều này hoàn toàn sai lầm vì như thế giáo viên chỉ nói những điều trong sách, không mở rộng các kiến thức ngoài. Chúng ta cần nhớ một điều: Slide (một trang màn hình của một phần mềm nào đó) là nơi là chỉ chứa tên bài học, các đề mục và các cụm từ chốt phục vụ cho bài giảng. Tùy theo từng môn học, chúng ta có thể bổ sung các công thức, hình ảnh minh họa một cách hợp lý. Đây là bước mà GV cần vận dụng khả năng, kiến thức về tin học của mình để xây dựng bài giảng. Nếu Slide nào cần hình ảnh minh họa, giáo viên nên tìm kiếm hình ảnh để chèn vào. Hay Slide kia đang trình bày một kết quả của thí nghiệm vào để tăng tính thực tế. Công đoạn đưa nội dung vào giáo viên cũng nên lưu ý về số lượng chữ, màu sắc, kích thước trên một Slide. Giáo viên nên tóm tắt vấn đề mình muồn trình bày một cách rõ ràng, dễ hiểu. Nhìn vào Slide GV có nhiệm vụ giải thích kĩ càng và mở rộng nó ra chứ không phải đọc các dòng chữ trên Slide. Nếu chưa quen với cách giảng dạy này, GV cảm thấy khó khăn trong việc xác định xem slide tiếp theo sẽ trình bày về vấn đề gì. Giáo viên có thể in ra một bảng để vừa giảng vừa nhìn vào để xác định vấn đề tiếp theo. Sử dụng GAĐT cũng không có nghĩa giáo án truyền thống bị lãng quên. Chúng ta hãy nhìn lại xem trong giáo án truyền thống chúng ta trình bày những gì, phải chăng 15 là tất cả nội dung bài giảng? Vậy thì đối với GAĐT chỉ gồm một số các Slide chỉ chứa văn bản, hình ảnh,….thì làm thế nào mà GV có thể quan sát hết các vấn đề cần được giảng? Những nội dung cảm thấy thích thì tập trung nhiều thời gian vào và giảm thời gian cho các nội dung còn lại? Liệu nếu một GV mới ra trường có thể nhớ hết nội dung đã chuẩn bị trước buổi dạy hay không? Chỉ cần chúng ta xây dựng kế hoạch giảng dạy thì vấn đề trên sẽ được giải quyết ngay. Đề cương này sẽ ghi rõ tên bài dạy, các mục kiến thức cần trình bày, vấn đề nào cần trình bày trước, vấn đề nào cần trình bày sau ? Vấn đề nào trọng tâm và nhấn mạnh? Chúng ta phải chuẩn bị kĩ lưỡng như vậy là vì nếu tiết dạy đó GV chưa nói hết các nội dung trong các Slide hay đã trình bày hết nội dung nhưng thời gian còn thừa. Tóm lại, chúng ta phải kết hợp đề cương này cùng với việc trình bày trên các slide một các hợp lý thì lúc đó GV ắt hẳn không còn băn khoăn gì về cách dạy này. * Những chú ý khi thiết kế bài giảng có ứng dụng CNTT. Mỗi lớp học có trung bình từ 25- 35 học sinh. Trong khi đó các tiết dạy GAĐT thường phải tắt bớt đèn, đóng bớt cửa sổ hay kéo rèm hạn chế ánh sáng trời để ảnh trên màn rõ hơn. Như vậy, những học sinh ngồi ở các dãy cuối lớp hay những học sinh mắt kém sẽ khó khăn khi quan sát hình ảnh, chữ viết hay công thức trên màn chiếu. Do đó để học sinh có thể quan sát được bài học chính xác từ màn chiếu, giáo viên khi soạn giáo án trên Power Point cần chú ý một số nguyên tắc về hình thức sau: - Các trang trình diễn phải đơn giản và rõ ràng - Không sao chép nguyên văn bài dạy, chỉ nên đưa những ý chính vào mỗi trang trình diễn. - Về màu sắc của nền hình: Màu sắc không lòe loẹt, đồ họa vui nhộn gây mất tập trung cho học sinh. Cần tuân thủ nguyên tắc tương phản (contrast), chỉ nên sử dụng chữ màu sậm (đen, xanh đậm, đỏ đậm…) trên nền trắng hay nền màu sáng. Ngược lại, khi dùng màu nền sậm thì chỉ nên sử dụng chữ có màu sáng hay trắng. - Về Font chữ: 16 Dùng các phông chữ, khung, nền hợp lí. (vd: nền màu trắng, màu đỏ cho các đề mục có vai trò ngang nhau “cỡ chữ, kiểu chữ giống nhau) Chỉ nên dùng các font chữ đậm, rõ và gọn (Vntime, Arial, Times Roman,…) hạn chế dùng các font chữ có đuôi (VNI-times…) vì dễ mất nét khi trình chiếu. - Về cỡ chữ: Giáo viên thường muốn chứa thật nhiều thông tin trên một slide nên hay có khuynh hướng dùng cỡ chữ nhỏ. Thực tế, khi dùng máy chiếu Projector chiếu lên màn cho nhiều người xem thì size chữ thích hợp phải từ cỡ 28 trở lên mới đọc rõ được. - Về trình bày nội dung trên nền hình: Giáo viên không nên trình bày nội dung tràn lấp đầy nền hình từ trên xuống từ trái qua phải, mà cần chừa ra khoảng trống đều hai bên và trên dưới theo tỷ lệ thích hợp (thường là 1/5), để đảm bảo tính mỹ thuật, sự sắc nét và không mất chi tiết khi chiếu lên màn. Các dạng đồ họa (hình ảnh, âm thanh,hiệu ứng…) cần phải được lựa chọn cẩn thận, nếu không chúng sẽ gây phân tán tư tưởng, tư duy lệch lạc trong học sinh. Những tranh, ảnh hay đoạn phim minh họa dù hay nhưng mờ nhạt, không rõ ràng thì cũng không nên sử dụng vì không có tác dụng cung cấp thông tin xác định như ta mong muốn. - Trình chiếu giáo án: Khi giáo viên trình chiếu Power Point, để học sinh có thể ghi chép kịp thì nội dung trong mỗi slide không nên xuất hiện dày đặc cùng lúc. Ta nên phân dòng hay phân đoạn thích hợp, cho xuất hiện theo hiệu ứng thời gian tương ứng. Trường hợp có nội dung dài mà nhất thiết phải xuất hiện trọn vẹn cùng lúc, ta trích xuất từng phần thích hợp để giảng, sau đó đưa về lại trang có nội dung tổng thể, học sinh sẽ dễ hiểu và dễ ghi nhớ hơn. * Các tiêu chí đánh giá bài giảng: - Kế hoạch bài giảng được thể hiện cụ thể, rõ ràng và logic, nêu bật mục tiêu, nội dung, tiến trình bài giảng. - Thể hiện được các yêu cầu của phương pháp dạy học tiên tiến, phát huy tính tích cực của học sinh. 17 - Nội dung bài giảng bám sát kiến thức cơ bản của chương trình theo quy định, có tính hệ thống và khoa học. - Sử dụng và tích hợp các công cụ công nghệ thông tin sáng tạo, hợp lý, tối ưu nhằm phát huy tối đa chất lượng, tính hấp dẫn trong bài giảng; thu hút và tạo môi trường tương tác tích cực giữa giáo viên và học sinh và giữa học sinh với nhau. - Hình thức tổ chức, bố trí nội dung bài giảng khoa học, dễ hiểu, thân thiện. - Hiệu quả, tác động và ảnh hưởng của bài giảng đối với môi trường giáo dục. 3. Biện pháp 3: Hướng dẫn khai thác và xử lý thông tin, tư liệu phục vụ cho bài giảng có ứng dụng Công nghệ thông tin Từ nhiều năm nay, ở các nhà trường đã tương đối phổ biến mô hình giảng dạy sử dụng bài giảng điện tử cùng với các trang thiết bị khác như máy tính, máy chiếu (projector), Bài giảng điện tử và các trang thiết bị này có thể coi là những công cụ dạy học đa năng vì nó có thể thay thế cho hầu hết các công cụ dạy học khác từ truyền thống (tranh vẽ, bản đồ, mô hình, ) đến hiện đại (cassette, ti vi, đầu video ). Hơn nữa, nếu các bài giảng điện tử được đầu tư xây dựng cẩn thận thì sẽ đem lại hiệu quả hơn hẳn. Chẳng hạn khi mô phỏng một trận đánh lịch sử, trên bản đồ giấy chỉ có thể diễn tả được bằng các mũi tên chỉ hướng tấn công, còn trên phần mềm có thể diễn tả được hình ảnh của các đoàn quân di chuyển, nên tạo được sự hấp dẫn và học sinh có thể tiếp thu bài giảng dễ dàng hơn. Khác với các phần mềm giáo dục khác, bài giảng điện tử không phải là phần mềm dạy học, nó chỉ trợ giúp cho việc giảng dạy của giáo viên (đối tượng sử dụng là giáo viên, không phải là học sinh). Chính vì vậy, việc truyền đạt kiến thức vẫn dựa trên giao tiếp thầy - trò, chứ không phải giao tiếp máy - người. Mặt khác, vì giáo viên là người trực tiếp điều hành việc sử dụng phần mềm nên có thể khai thác tối đa được những kiến thức cần chuyển tải trong phần mềm, tuỳ thuộc vào trình độ của học sinh và phương pháp giảng dạy của giáo viên. Rõ ràng việc sử dụng các bài giảng điện tử sẽ tăng hiệu quả đáng kể đối với các tiết dạy của giáo viên. Có thể nói đó là sự kết hợp những ưu điểm của phương pháp dạy học truyền thống và của các công nghệ hiện đại. 18 Tuy nhiên, muốn đầu tư xây dựng các bài giảng điện tử thì chỉ có một cách duy nhất là phải hướng dẫn, tập huấn các giáo viên để họ có thể tự xây dựng các bài giảng cho riêng mình. Song, việc tập huấn cũng chỉ dừng lại ở mức độ sử dụng thành thạo một vài công cụ thiết kế bài giảng như Powerpoint hay Violet, cách tìm kiếm các tư liệu qua mạng Internet, sử dụng máy quay phim, máy ảnh số, máy quét Ở mức độ này, giáo viên mới chỉ có thể tạo được bài giảng ở mức cơ bản, chất lượng trung bình. Chẳng hạn như họ không thể tự vẽ thêm một bức tranh, tự xây dựng một hình ảnh động hoặc lập trình tạo ra một thí nghiệm mô phỏng, hoặc cũng không thể tự chỉnh sửa được các tư liệu hình ảnh sau khi quét ảnh hoặc lấy về từ Internet cho đẹp hơn, biên tập lại các đoạn phim, dịch thuyết minh các tư liệu của nước ngoài thành tiếng Việt, v.v đặc biệt rất khó có thể tìm kiếm thu thập được những phim ảnh tư liệu quý hiếm. Tất cả những việc này đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ, họa sĩ, kỹ thuật viên tin học chuyên nghiệp thì mới đảm nhiệm tốt được. Hiện nay, nhiều chuyên gia giáo dục đã cảnh báo tình trạng “lạm dụng CNTT” khi các giáo viên tự xây dựng bài giảng. Do hạn chế về định hướng, công nghệ nên giáo viên thường hay xây dựng những bài giảng mang nặng tính trình chiếu, ví dụ như sử dụng Powerpoint “bắn” rất nhiều chữ ra màn hình và khi giảng bài thì gần như đọc lại nội dung đó. Phương pháp này thậm chí sẽ làm cho học sinh giảm hiệu quả tiếp thu khi phải đồng thời nghe giảng, vừa đọc chữ, chưa kể là còn bị cuốn hút vào những hiệu ứng chữ chạy nhảy và âm thanh kèm theo. Một trong những lý do của tình trạng trên là do các giáo viên chưa hiểu được rằng: cách sử dụng hiệu quả của ứng dụng phần mềm dạy học là phải khai thác triệt để các nội dung tư liệu, đặc biệt là các tư liệu multimedia (âm thanh, hình ảnh, phim ). Một lý do quan trọng nữa là kể cả khi hiểu được như vậy thì cũng khó có thể thực hiện, vì việc giáo viên đưa một đoạn văn bản vào phần mềm thì dễ, chứ nếu tự vẽ hình, tự tạo ảnh động hay tìm kiếm tư liệu bên ngoài thì sẽ rất khó khăn. Chính vì vậy, giáo viên nên sử dụng các công cụ tìm kiếm trên Internet tư liệu như Google hay Yahoo, hoặc các truy cập các nguồn tư liệu phong phú như Wikipedia, YouTube, đặc biệt là các nguồn tài nguyên phục vụ cho giáo dục và 19 đào tạo như Thư viện tư liệu giáo dục tại http://tulieu.edu.vn (cung cấp các tư liệu giúp giáo viên sử dụng vào bài giảng) và Thư viện bài giảng điện tử tại http://baigiang.edu.vn (cung cấp các bài giảng tham khảo có chất lượng để giáo viên học tập và chia sẻ kinh nghiệm trong giảng dạy). 4. Biện pháp 4: Hướng dẫn sử dụng các phần mềm, tiện ích tiêu biểu phục vụ cho công tác giảng dạy học và quản lý giáo dục Học sử dụng máy vi tính thực chất là học cách sử dụng các phần mềm vi tính. Có thể phân ra 2 loại là các phần mềm phổ thông (như soạn thảo văn bản, xử lý ảnh, bảng tính, gõ tiếng Việt, các phần mềm gửi thư điện tử ) và các phần mềm chuyên dụng, cụ thể đối với giáo viên đó là những phần mềm tạo bài giảng như Powerpoint, Violet, tạo các hình ảnh mô phỏng để dạy học như Macromedia Flash, Swish, v.v 4.1. Các phần mềm phổ thông Các phần mềm phổ thông là bắt buộc phải sử dụng thành thạo đối với cả mọi người, từ cấp quản lý đến giáo viên trong nhà trường. Trong đó một số phần mềm quan trọng có thể kể ra (chủ yếu nằm trong bộ phần mềm văn phòng Microsoft Office) Microsoft Word: Phần mềm soạn thảo văn bản, dùng để soạn công văn, báo cáo, kế hoạch và tất cả các giấy tờ tài liệu khác. Các giáo viên có thể dùng để soạn giáo án vừa có thể in ra để sử dụng, lưu trữ trên máy tính hoặc chia sẻ trên mạng Internet. Microsoft Excel: Phần mềm tạo bảng tính để xây dựng các kế hoạch, các chi phí tài chính, hoặc lưu trữ và tính điểm của học sinh. Excel mạnh ở điểm là có thể đưa vào những phương pháp tính toán, thống kê tùy ý một cách rất dễ dàng. Microsoft Outlook: Phần mềm gửi nhận thư điện tử. Đã qua rồi thời kỳ mà các đơn vị hoặc cá nhân trao đổi với nhau với nhau hoàn toàn bằng công văn giấy tờ hoặc gọi điện thoại (thậm chí điện thoại đường dài) trong những công việc thường ngày. Ngày nay thư điện tử đã được sử dụng chủ yếu, với những ưu điểm vượt trội như rẻ tiền, thông tin nhanh chóng và đơn giản. Mỗi cá nhân sẽ có một địa chỉ thư 20 điện tử riêng. Microsoft Outlook là phần mềm hỗ trợ việc quản lý và gửi nhận thư điện tử rất dễ dàng. UniKey: Cài đặt phần mềm này, ta mới có thể gõ được tiếng Việt trong các văn bản, thư tín, Ta có thể chọn kiểu gõ Telex hay VNI, có thể chọn mã chữ là Unicode hay TCVN, Đặc biệt phần mềm có chức năng chuyển mã chữ rất tiện lợi, giúp có thể đọc được những văn bản không dùng Unicode mà máy tính không có font chữ tương ứng. Ví dụ trước đây các văn bản từ miền Bắc vào miền Nam hoặc ngược lại thì đều không thể đọc được, vì miền Bắc dùng mã TCVN, còn miền Nam thì dùng mã VNI. Adobe Photoshop: Là phần mềm xử lý ảnh thông dụng nhất, với rất nhiều tính năng từ nghiệp dư đến chuyên nghiệp đều có thể sử dụng được. Với những chức năng cơ bản thì giáo viên và cán bộ quản lý cũng nên sử dụng được, vì nó hiện nay dù làm bài giảng hay báo cáo, kế hoạch cũng ít nhiều sử dụng các tư liệu ảnh (ảnh chụp hoặc hình vẽ). 4.2.Các phần mềm phục vụ cho giáo dục Đối với giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, nên khuyến khích học và sử dụng các phần mềm sau vì sẽ rất có ích trong việc xây dựng các bài giảng hỗ trợ cho việc giảng dạy. Microsoft PowerPoint: Phần mềm cho phép soạn các bài trình chiếu hấp dẫn để làm bài giảng điện tử. PowerPoint có thể sử dụng được các tư liệu ảnh phim, cho phép tạo được các hiệu ứng chuyển động khá hấp dẫn và chọn các mẫu giao diện đẹp. Hiện nay, phần lớn các bài giảng điện của giáo viên ở Việt Nam đều sử dụng phần mềm Powerpoint. Phần mềm Violet: Dùng cho giáo viên có thể tự thiết kế và xây dựng được những bài giảng điện tử sinh động, hấp dẫn, để trợ giúp cho các giờ dạy học trên lớp (sử dụng với máy chiếu projector hoặc ti vi), hoặc để đưa lên mạng Internet. Tương tự như Powerpoint nhưng Violet có nhiều điểm mạnh hơn như giao diện tiếng Việt, dễ dùng, có những năng chuyên dụng cho bài giảng như tạo các loại bài tập, chức 21 năng thiết kế chuyên cho mỗi môn học, và đặc biệt là khả năng gắn kết được với các phần mềm công cụ khác. Macromedia Flash: Đây là phần mềm cho phép vẽ hình, tạo ra hình ảnh động, các hiệu ứng chuyển động và biến đổi, lập trình tạo ra các hoạt động mô phỏng và tương tác sinh động, hấp dẫn. Để sử dụng tốt Flash đòi trình độ người sử dụng cũng phải ở mức khá và phải thực hành nhiều. Thông thường không dùng Flash để tạo cả một bài giảng vì nó sẽ tốn khá nhiều công sức, mà chỉ dùng để tạo ra các tư liệu rồi kết hợp với Violet hoặc Powerpoint để tạo thành một bài giảng hoàn chỉnh. 5. Biện pháp 5: Hướng dẫn Sử dụng Internet trong việc tìm kiếm các thông tin trực tuyến Chúng ta có thể tự xây dựng một kho tài nguyên dạy học với vài nghìn tư liệu, nhưng như vậy liệu đã đủ chưa. Thực ra, việc đó giờ không còn là vấn đề cần lo lắng vì Internet đã chính là một thư viện không lồ, là nơi lưu chứa tri thức của toàn nhân loại với hàng tỷ tư liệu và các bài viết của mọi lĩnh vực, đặc biệt các thông tin trên đó luôn được cập nhật từng ngày, từng giờ. Như vậy một vấn đề quan trọng và bắt buộc đối với giáo viên trong việc ứng dụng CNTT trong dạy học là phải biết khai thác nguồn tài nguyên phong phú trên Internet. Có 2 phương pháp để khai thác các thông tin phục vụ cho việc giảng dạy như sau: 5.1. Truy cập các thư viện tài nguyên trực tuyến Thông thường hiện nay, các thư viện lớn đều được phát triển theo mô hình xã hội, nội dung sẽ do chính người sử dụng cùng xây dựng lên với số lượng người tham gia xây dựng lên đến hàng triệu người. Trên thế giới đã xuất hiện các thư viện nổi tiếng như: - Wikipedia.org (trang tiếng Việt là vi.wikipedia.org) là hệ thống bách khoa toàn thư khổng lồ với đầy đủ tri thức nhân loại từ xưa đến nay, do hàng chục triệu tình nguyện viên trên thế giới đóng góp xây dựng. Có thể tìm ở đây từ các kiến thức khoa học phổ thông đến các nghiên cứu khoa học chuyên ngành, tìm hiểu về tiểu sử những người nổi tiếng cho đến những vấn đề thời sự được cập nhật hàng ngày v.v 22 - http://Youtube.com, là trang web chia sẻ video lớn nhất thế giới, ở đây chúng ta có thể dễ dàng tìm được những tư liệu phim phù hợp với mục đích dạy học. Ở Việt Nam cũng có trang chia sẻ video riêng ở địa chỉ http://Clip.vn - Thư viện tư liệu giáo dục http://tulieu.edu.vn là trang web chia sẻ các tư liệu phim, ảnh, flash phục vụ cho giáo dục và đào tạo của người Việt Nam, hiện là trang web chia sẻ tư liệu dạy học duy nhất ở Việt Nam với gần 60.000 mục tư liệu. - Thư viện bài giảng điện tử: địa chỉ trang web là http://baigiang.edu.vn. Đây là trang web cho phép giáo viên chia sẻ các bài giảng và giáo án của mình, đồng thời tham khảo các bài giảng và giáo án của rất nhiều giáo viên khác trên cả nước. Hiện tại trang web đã có trên 200.000 thành viên tham gia, với hàng triệu lượt truy cập mỗi tháng, số lượng tài nguyên lên đến 50.000 bài giảng và giáo án. - Thư viện giáo trình điện tử: địa chỉ http://ebook.edu.net.vn. Đây là trang web tập hợp các giáo trình bậc đại học và chuyên ngành từ các dự án của Bộ GD&ĐT với các trường Đại học lớn trên cả nước như Đại học Bách Khoa HN, ĐH Sư phạm HN, Đại học Cần Thơ, Tuy nhiên đây không phải là trang web cộng đồng nên lượng thông tin không lớn và không được cập nhật thường xuyên. Thư viện tư liệu giáo dục và Thư viện bài giảng điện tử là các hệ thống mở, không những giúp giáo viên có thể download các tư liệu dạy học và các bài giảng mẫu mà còn cho phép giáo viên có thể đưa các tư liệu và bài giảng của mình lên để chia sẻ với mọi người. Việc sử dụng các hệ thống mở như trên hiện nay đang là xu hướng tất yếu của ngành CNTT, với những ưu điểm vượt trội là: • Hoàn toàn miễn phí. • Có hệ thống dữ liệu khổng lồ vì là do cộng đồng cùng xây dựng. • Luôn được cập nhật thường xuyên, từng ngày, từng giờ. • Các tư liệu cũng như bài giảng có chất lượng cao vì được chọn lọc và tổng hợp từ nhiều nguồn khác nhau. Ngoài ra công ty Bạch Kim cũng luôn có một đội ngũ kỹ thuật thường xuyên xây dựng các tư liệu mới và bài giảng mới theo yêu cầu của • giáo viên các nơi để đưa lên Thư viện. 23 • Thư viện cũng là kênh kết nối các giáo viên trên cả nước, giúp mọi người học hỏi và chia sẻ với nhau nhiều vấn đề trong công việc của mình. Đây cũng là tư tưởng chủ đạo trong công văn số 9584/BGDĐT-CNTT của Bộ GD&ĐT về việc Hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học 2007-2008 về CNTT và phát động năm học 2008-2009 là năm CNTT. Vì vậy, mặc dù mới triển khai 2 hệ thống này từ tháng 9/2007, nhưng đã nhận được sự hưởng ứng của rất đông giáo viên trên cả nước (gần 40.000 người). Hiện hai hệ thống thư viện đã có hơn 40.000 mục tư liệu và gần 8.000 bài giảng mẫu. Trên thế giới cũng đã có những thư viện trực tuyến do cộng đồng phát triển đã rất nổi tiếng như thư viện Bách khoa toàn thư Wikipedia.org, thư viện chia sẻ video trực tuyến YouTube.com, thư viện mã nguồn CodeProject.com v.v Chính vì vậy, mô hình “mở” chính là xu thế phát triển của tất cả các hệ thống công nghệ thông tin trong hiện tại và tương lai gần. 5.2. Sử dụng các dịch vụ tìm kiếm như Google, Yahoo, Baamboo. Có thể truy cập vào các trang web này qua các địa chỉ trang web tương ứng http://google.com.vn http://yahoo.com.vn http://baamboo.com Công cụ tìm kiếm trực tuyến là một trong những sản phẩm tuyệt vời nhất của nền khoa học kỹ thuật hiện đại, nó quy tụ được tri thức nhân loại về một nơi. Có thể nói chúng ta cần bất cứ thông tin gì thì các máy tìm kiếm này có cung cấp cho chúng ta gần như ngay lập tức, từ hàng chục tỷ trang Web và nguồn tài nguyên khác nhau trên mạng Internet. Ví dụ: một người nước ngoài muốn tìm hiểu về phở Hà Nội, họ chỉ cần lên mạng, vào công cụ tìm kiếm, gõ chữ “phở Hà Nội” là có thể hiện ra hàng trăm trang webside về chủ đề này. Một người Hà Nội muốn có hình ảnh về chợ Bến Thành thì chẳng cần phải vào tận thành phố Hồ Chí Minh để chụp ảnh mà chỉ cần vào mạng, sau vài thao tác đơn giản là có thể tìm được hàng chục bức ảnh. 24 Công cụ tìm kiếm thu nhỏ kho kiến thức khổng lồ của nhân loại thành cuốn cẩm nang đầu giường đối với mỗi con người hiện đại. Ngay cả đối với giáo viên thì cũng nên coi như việc ngồi máy tính để soạn bài giảng, giáo án là phải kết nối Internet và sử dụng công cụ tìm kiếm Internet thì mới có thể tạo ra những sản phẩm có chất lượng được. Các công cụ tìm kiếm thực chất đã làm thay đổi một phần của thế giới, con người không cần phải nhồi nhét những kiến thức khoa học và đời sống để trở thành những học giả uyên thâm, mà chỉ cần là người có tư duy tốt, nhạy bén, sáng tạo thì mới phát huy được hiệu quả trong công việc và nâng cao chất lượng cuộc sống. Hiểu được điều này, chúng ta sẽ thấy rõ hơn những vấn đề cần làm trong giáo dục hiện nay, nhất là giáo dục phổ thông. 6. Biện pháp 6: Trao đổi chuyên môn, chia sẻ tài nguyên trên các mạng xã hội Kết nối mạng Internet, giáo viên không chỉ có thể tìm thấy ngay những kiến thức, nhưng tài nguyên mình cần mà còn có thể chia sẻ, trao đổi thông tin với nhau. Hình thức trao đổi, chia sẻ thông tin với nhau đơn giản nhất là phổ biến nhất hiện nay là thông qua các diễn đàn (forum) trên mạng. Diễn đàn lớn nhất Việt Nam về giáo dục là trang diễn đàn Mạng giáo dục của Bộ GD&ĐT, địa chỉ http://edu.net.vn/forums, trong đó trao đổi về mọi vấn đề liên quan đến giáo dục như giảng dạy, quản lý giáo dục, chống tiêu cực trong giáo dục, các chính sách mới của Bộ GD&ĐT. Diễn đàn giáo viên: địa chỉ http://diendan.bachkim.vn, là diễn đàn chuyên cho giáo viên trao đổi với nhau về những kinh nghiệm dạy học, các kiến thức về ứng dụng CNTT trong dạy học. Một hình thức trao đổi, chia sẻ thông tin khác nữa trên Internet là tham gia các mạng xã hội. Ở các mạng này, mỗi người có thể xây dựng các blog (có thể coi là trang web riêng) cho mình. Tại các blog, giáo viên có thể chia sẻ các kinh nghiệm trong dạy học và trong cuộc sống. Bạn bè đồng nghiệp có thể vào xem các blog của 25 Sáng kiến kinh nghiệm: Ứng dụng CNTT trong quản lý chỉ đạo hoạt động của nhà trườngLàm thế nào để ứng dụng CNTT hiệu quả trong công tác quản lý tại cơ sở giáo dục quả là một điều cần trăn trở. Với phạm vị sáng kiến cải tiến kỹ thuật này, đưa ra những việc làm cụ thể trong việc ứng dụng CNTT trong công tác quản lý tại trường TH số 2 Liên Thủy trong các năm học. » Xem thêm Mời quý thầy cô tham khảo sáng kiến “Ứng dụng CNTT trong quản lý chỉ đạo hoạt động của nhà trường”. » Thu gọn Chủ đề:
Tóm tắt nội dung tài liệu
1. Tiền đề của sáng kiến ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy họcTrong thời đại 4.0, công nghệ thông tin (CNTT) đã trở thành một phần thiết yếu của cuộc sống. Nó có thể được ứng dụng vào hầu hết các lĩnh vực, mang đến nhiều lợi ích quan trọng. Công nghệ thông tin giúp con người làm việc dễ dàng hơn, và nhanh chóng đạt được mục đích như mong muốn. Với công nghệ thông tin phát triển như vũ bão trên khắp thế giới, ứng dụng công nghệ được xem là tất yếu và trở thành cuộc chạy đua của nhân loại. Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học mang tính tất yếu
Sáng kiến kinh nghiệm skkn ứng dụng cntt vào giảng dạy môn tự nhiên xã hội ở lớp 3
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Tải về bản full sáng kiến: “Một spháp nâng cao hiệu quả ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học ở Trường THCS Làng Mô”
Đọc bài Lưu
THUYẾT MINH SÁNG KIẾN I. THÔNG TIN CHUNG 1. Tên sáng kiến: “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học ở Trường THCS Làng Mô” 2. Tác giả Họ và tên: Nguyễn Anh Tuấn Năm sinh: 1979 Nơi thường trú: Làng Mô - Sìn Hồ - Lai Châu Trình độ chuyên môn: ĐH sư phạm Lịch sử Chức vụ công tác: Hiệu trưởng Nơi làm việc: Trường THCS Làng Mô Điện thoại: 01668777666 Tỷ lệ đóng góp tạo ra sáng kiến: 50% Họ và tên: Dương Thị Thanh Nga Năm sinh: 1983 Nơi thường trú: Làng Mô - Sìn Hồ - Lai Châu Trình độ chuyên môn: ĐH sư phạm Toán Chức vụ công tác: Giáo viên Nơi làm việc: Trường THCS Làng Mô Điện thoại: 0989021999 Tỷ lệ đóng góp tạo ra sáng kiến: 50% 3. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Công tác chuyên môn 4. Thời gian áp dụng sáng kiến: Từ ngày 15 tháng 08 năm 2016 đến ngày 15 tháng 03 năm 2017 5. Đơn vị áp dụng sáng kiến: Tên đơn vị: Trường THCS Làng Mô Địa chỉ: Nhiều Sáng 2 - Làng Mô - Sìn Hồ - Lai Châu Điện thoại: 02313602782 II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN 1. Sự cần thiết, mục đích của việc thực hiện sáng kiến: “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học ở Trường THCS Làng Mô” Trong Nghị quyết Trung ương II, khoá VIII Đảng và Nhà nước ta khẳng định, phải “đổi mới phương pháp giáo dục - đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương pháp hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho HS... Mục tiêu của ngành giáo dục là không ngừng đổi mới phương pháp giảng dạy và nâng cao chất lượng giáo dục ở tất cả các cấp học. Trong đó, việc ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong dạy học đang được đẩy mạnh và nhân rộng trong toàn ngành hiện nay. Đầu tiên, việc ứng dụng CNTT trong dạy học giúp giáo viên nâng cao tính sáng tạo và trở nên linh hoạt hơn trong quá trình giảng dạy của mình. Cụ thể, các thầy cô không chỉ bó buộc trong khối lượng kiến thức hiện có mà còn được tìm hiểu thêm về những chuyên ngành khác như tin học và học hỏi các kỹ năng sử dụng hình ảnh, âm thanh trong việc thiết kế bài giảng. Ngoài ra, ứng dụng CNTT trong dạy học còn giúp giáo viên có thể chia sẻ bài giảng với đồng nghiệp, cùng nhau thảo luận và nâng cao chất lượng giáo án của mình. Đối tượng thứ hai được hưởng lợi trực tiếp từ việc ứng dụng CNTT trong dạy học đó chính là học sinh. Các em được tiếp cận phương pháp dạy học mới hấp dẫn hơn hẳn phương pháp đọc - chép truyền thống. Ngoài ra, sự tương tác giữa thầy cô và học trò cũng được cải thiện đáng kể, học sinh có nhiều cơ hội được thể hiện quan điểm cũng như chính kiến riêng của mình. Điều này không chỉ giúp các em ngày thêm tự tin mà còn để cho giáo viên hiểu thêm về năng lực, tính cách và mức độ tiếp thu kiến thức của học trò, từ đó có những điều chỉnh phù hợp và khoa học. Hơn thế nữa, việc được tiếp xúc nhiều với CNTT trong lớp học còn mang đến cho các em những kỹ năng tin học cần thiết ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Đây sẽ là nền tảng và sự trợ giúp đắc lực giúp học sinh đa dạng và sáng tạo các buổi thuyết trình trước lớp, đồng thời tăng cường khả năng tìm kiếm thông tin cho bài học của các em. Từ lâu, việc ứng dụng CNTT trong dạy học đã được thực hiện ở rất nhiều nước phát triển trên thế giới. Hiện nay ở Việt Nam, tuy khoảng thời gian ứng dụng CNTT trong giảng dạy tại các trường học còn khá ngắn, nhưng những lợi ích của điều đó đã được thể hiện rõ nét. Chất lượng giáo viên được nâng cao, các phương pháp giảng dạy được thay đổi theo chiều hướng tích cực. Chúng ta có thể hy vọng vào một ngày không xa, nền giáo dục Việt Nam sẽ theo kịp được sự phát triển của các nước có nền giáo dục hàng đầu trên thế giới. Rõ ràng, những cải tiến như trên sẽ không chỉ mang lại lợi ích cho người học và người dạy mà còn có ý nghĩa rất trọng với sự phát triển của cả xã hội và đất nước. Là các nhà giáo dục trẻ tuổi trong tương lai, các bạn học sinh sinh viên sư phạm ngay từ bây giờ nên bắt đầu tìm hiểu về cách thức áp dụng CNTT trong dạy học để biến những lớp học sau này của mình trở thành những sân chơi thú vị, tươi vui và đầy bổ ích. Trong công tác dạy học, CNTT có tác dụng mạnh mẽ, làm thay đổi hình thức, phương pháp dạy và học. CNTT là phương tiện hiệu quả để nâng cao chất lượng giảng dạy. Tuy nhiên, giáo dục cũng chính là cơ sở để thúc đẩy sự phát triển của CNTT, thông qua việc cung cấp nguồn nhân lực và việc sử dụng CNTT. Chính vì vậy Bộ giáo dục và đào tạo cũng yêu cầu “đẩy mạnh ứng dụng CNTT” trong giáo dục đào tạo ở tất cả các cấp học, bậc học, ngành học theo hướng dẫn. CNTT như là một công cụ hỗ trợ đắc lực nhất cho đổi mới phương pháp dạy học ở các môn giảng dạy. Nhưng làm thế nào để ứng dụng CNTT đạt hiệu quả cao trong các tiết dạy, đặc biệt là đối với các bộ môn đòi hỏi cần có các hình ảnh minh họa hay các thí nghiệm khó thành công như ở các môn vật lí, hóa học, lịch sử, địa lí… đó là vấn đề mà bất cứ một giáo viên nào cũng gặp phải khi có ý định đưa CNTT vào giảng dạy. Trong chuyên đề “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả ứng dụng CNTT vào dạy học ở Trường THCS Làng Mô” tôi sẽ đưa ra những ý kiến, kinh nghiệm của cá nhân mình, cũng như một số tiết dạy tôi và đồng nghiệp đã thử nghiệm trong thời gian vừa qua để cùng các bạn đồng nghiệp thảo luận tìm ra những giải pháp tốt nhất cho những tiết dạy của mình và các hoạt động ngoại khóa nhằm mục đích nâng cao chất lượng trong dạy học. 2. Phạm vi triển khai thực hiện: Đề tài tập trung nghiên cứu việc ứng dụng CNTT trong dạy học chính khóa ở một số môn học và tổ chức các hoạt động ngoại khóa tại Trường THCS Làng Mô. 3. Mô tả sáng kiến: a. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến Phương pháp dạy truyền thống trước đây đa số là thuyết trình nhiều đối với một số môn học có nhiều hiện tượng khó quan sát và thí nghiệm khó thành công giáo viên chỉ mô tả giới thiệu học sinh thụ động tiếp thu kiến thức hiệu quả đem lại chưa cao. Với phương pháp này giáo viên chủ động kiến thức và thời gian cho tiết dạy của mình học sinh được truyền thụ những kiến thức cơ bản nhất của tiết học nhưng học sinh thụ động học tập, cố ghi nhớ thật nhiều kiến thức không kích thích khả năng tự tìm tòi phát hiện kiến thức mà trông chờ giáo viên truyền thụ kiến thức dẫn đến hay chán nản, khả năng kích thích hứng thú học tập không cao. b. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến Để khắc phục các thực trạng trên tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp rèn kỹ năng sống cho học sinh trường THCS Làng Mô: * Giải pháp thứ nhất: Tăng cường công tác bồi dưỡng giáo viên Đẩy mạnh tuyên truyền cho giáo viên thấy rõ hiệu quả và yêu cầu mang tính tất yếu của ứng dụng CNTT trong đổi mới phương pháp giảng dạy thông qua việc triển khai các văn bản chỉ đạo của Bộ, ngành về ứng dụng CNTT trong dạy học; thông qua các buổi sinh hoạt chuyên môn tổ khối, hội thảo chuyên đề; thông qua dự giờ thăm lớp và qua việc triển khai các cuộc thi có ứng dụng CNTT do ngành tổ chức. Phát động sâu rộng thành phong trào và đề ra yêu cầu cụ thể về số tiết ứng dụng CNTT đối với mỗi giáo viên để chính họ qua áp dụng thấy được hiệu quả và sự cần thiết của việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy, đặc biệt là đối với đổi mới phương pháp dạy học. Xây dựng kế hoạch cử đi đào tạo, bồi dưỡng tin học cho giáo viên. Tạo điều kiện cho giáo viên học tập nâng cao trình độ Tin học (giáo viên Tin học của trường được tạo điều kiện về thời gian để tham gia học nâng cao trình độ từ Trung cấp lên Đại học CNTT); Bố trí sắp xếp để cán bộ giáo viên được tham gia đầy đủ các lớp tập huấn, bồi dưỡng CNTT do ngành tổ chức. Yêu cầu 100% giáo viên phải đạt trình độ tin học chứng chỉ A trở lên. Đặc biệt đội ngũ cán bộ quản lý phải đạt 100% sử dụng thành thạo tin học để có thể hỗ trợ cho giáo viên trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Muốn ứng dụng CNTT vào giảng dạy hiệu quả thì ngoài những hiểu biết căn bản về nguyên lý hoạt động của máy tính và các phương tiện hỗ trợ, đòi hỏi giáo viên cần phải có kỹ năng thành thạo (thực tế cho thấy nhiều người có chứng chỉ hoặc bằng cấp cao về Tin học nhưng nếu ít sử dụng thì kỹ năng sẽ mai một, ngược lại chỉ với chứng chỉ A tin học văn phòng nhưng nếu bạn chịu khó học hỏi, thực hành thì việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy sẽ chẳng mấy khó khăn. Nhận thức được điều đó, nhà trường rất chú trọng bồi dưỡng kỹ năng ứng dụng CNTT cho giáo viên thông qua nhiều hoạt động, như: Tổ chức các lớp bồi dưỡng kỹ năng sử dụng máy tính và các phần mềm Tin học với giảng viên là giáo viên CNTT và những giáo viên có kỹ năng tốt về Tin học của trường, theo hình thức trao đổi giúp đỡ lẫn nhau, tập trung chủ yếu vào những kỹ năng mà giáo viên cần sử dụng trong quá trình soạn giảng hàng ngày như lấy thông tin, các bước soạn một bài trình chiếu, các phần mềm thông dụng, cách chuyển đổi các loại phông chữ, cách sử dụng một số phương tiện như máy chiếu, máy quay phim, chụp ảnh, cách thiết kế bài kiểm tra,... Tổ chức sinh hoạt chuyên môn, chuyên đề để trao đổi về kinh nghiệm ứng dụng CNTT trong giảng dạy. Phấn đấu một năm ít nhất có 2 chuyên đề trao đổi kinh nghiệm ứng dụng công nghệ thông tin. Sau mỗi buổi trao đổi tập huấn có bài kiểm tra để đánh giá khả năng tiếp thu và trình độ CNTT của từng giáo viên từ đó nắm bắt được giáo viên nào yếu ở điểm nào. Từ đó có kế hoạch hướng dẫn cụ thể cho từng đồng chí cụ thể. Định hướng cho giáo viên luôn có ý thức sưu tầm tài liệu hướng dẫn ứng dụng CNTT hiệu quả, bộ phận chuyên môn nghiên cứu chọn lọc photo phát cho giáo viên (bằng cách làm này nhà trường đã có nhiều tài liệu hay, dễ thực hành cho giáo viên sử dụng như: tài liệu hướng dẫn soạn giáo án powerpoint, hướng dẫn sử dụng máy chiếu, hướng dẫn thiết kế bài giảng điện tử e- Learning,...) Động viên giáo viên tích cực tự học và học hỏi đồng nghiệp sẵn sàng chia sẻ, thường xuyên trao đổi với đồng nghiệp; chuyên môn nhà trường phải là bộ phận kết nối, là trung tâm tạo ra một môi trường học hỏi chuyên môn tích cực. * Giải pháp thứ 2: Đẩy mạnh các các hoạt động ứng dụng CNTT trong công tác quản lý và dạy học. Đẩy mạnh việc ứng dụng CNTT nhằm đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng phát huy tính tích cực học tập của học sinh, giáo viên tích hợp CNTT vào từng môn học thay vì chỉ được học trong môn Tin học. Mỗi giáo viên dạy trung bình ít nhất 4 tiết có ứng dụng CNTT/năm. Chuyên môn nhà trường chú trọng dự giờ thăm lớp, rút kinh nghiệm và tổ chức sinh hoạt chuyên môn trao đổi về cách ứng dụng CNTT một cách chọn lọc, phù hợp với đối tượng, nhằm phát huy có hiệu quả tác dụng của phương tiện, tránh lạm dụng quá mức. Các hình thức sử dụng hiệu quả được nhiều giáo viên sử dụng là: dạy trình chiếu với cách thiết kế các sile về hình thức gần giống với bảng truyền thống, sử dụng máy chiếu như là phương tiện hỗ trợ cung cấp kênh hình với nhiều hình ảnh sinh động, âm thanh, video mà không phải mang nhiều tranh ảnh, bảng phụ, máy móc thiết bị khác. Hàng năm nhà trường phải cập nhật nhiều phần mềm trong công tác thống kê, quản lý như phần mềm phổ cập giáo dục, phần mềm thống kê staschool, phần mềm trường học kết nối...Do đó Ban giám hiệu kết hợp tốt việc vừa học vừa làm đối với giáo viên. Đó là phân công lịch cụ thể từng giáo viên lên cập nhật các phần mềm ở từng phần mà giáo viên phụ trách như cập nhật thông tin học sinh, cập nhật điểm ở phần mềm stschool, cập nhật danh sách hộ và theo dõi hàng năm ở phần mềm phổ cập, đưa sáng kiến kinh nghiệm lên phần mềm trường học kết nối. Từ những việc làm trên giáo viên dần tích lũy kiến thức thực tế và kinh nghiệm trong thực hành công nghệ thông tin. Điều này bổ trợ rất nhiều cho công tác dạy học ứng dụng CNTT của giáo sau này. Nhà trường lập một địa chỉ mail riêng để trao đổi thông tin giữa giáo viên và ban giám hiệu. Các văn bản hướng dẫn của các cấp đều được chuyển vào địa chỉ mail này do đó giáo viên buộc phải truy cập mail mới có thể tìm thấy văn bản và lấy để nghiên cứu. * Giải pháp thứ 3: Chú trọng đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ nhu cầu phát triển CNTT trong dạy học. Tăng cường số máy tính phục vụ cho văn phòng BGH, giáo viên, kế toán, thư viện; máy tính phòng tin học, máy chiếu projector, máy in, máy photo, máy quay phim, máy chiếu vật thể….bằng nguồn ngân sách, hoặc xã hội hóa giáo dục (Hiện tại nhà trường đã được trang bị 1 phòng tin học gồm 22 máy tính, 2 máy chiếu Projector, 1 máy photocopy, 5 máy tính văn phòng, 1 máy chiếu vật thể, 4 máy in để phục vụ công tác quản lý và dạy học). Bố trí các phòng làm việc của BGH, phòng chờ của giáo viên, phòng thư viện đều có kết nối Internet để cán bộ, giáo viên được truy cập Internet thường xuyên. Khuyến khích cán bộ giáo viên kết nối Internet tại gia đình để có thêm thời gian tra cứu. Giao trách nhiệm cụ thể cho các bộ phận, thường xuyên bảo dưỡng nhằm khai thác tối đa, có hiệu quả trang thiết bị được cung cấp. 4. Hiệu quả do sáng kiến đem lại: a. Hiệu quả kinh tế: Việc ứng dụng CNTT giúp giáo viên có nhiều thời gian hơn để nghiên cứu và tìm hiểu những kiến thức, cách thức thực hiện sao cho hiệu quả. Đồng thời giúp giáo viên có thêm phương tiện để hỗ trợ trong quá trình giảng dạy mang lại tính thực tiễn và sinh động hơn. Khi áp dụng CNTT vào giảng dạy giáo viên không cần phải viết bảng phụ trên giấy A4 mất nhiều công sức và tiền bạc mua giấy, bút, lam châm… b. Hiệu quả về kỹ thật: Việc ứng dụng CNTT vào dạy học giúp giáo viên thay đổi phương pháp dạy học kích thích được tính tò mò, học sinh hứng thú học tập hơn. nhằm thu hút học sinh đến trường, yêu thích môn học. Đôi khi CNTT đóng vai trò như một dụng cụ hữu hiệu để giúp giáo viên có thể thực hiện các vấn đề khó, trừu tượng như mô hình hóa, trực quan hóa…Mặt khác CNTT giúp các giáo viên tìm hiểu thêm kiến thức không ngừng, tiếp cận với kiến thức mới bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn bản thân hỗ trợ đắc lực trong công tác giảng dạy. Ứng dụng CNTT vào dạy học cũng không quá phức tạp. Hầu như tất cả các giáo viên ở các bộ môn điều thực hiện được giáo viên có thể tìm hiểu thêm kiến thức trên internet sau đó lựa chọn bài dạy, nội dung cụ thể trong bài cần ứng dụng ví dụ: ở môn lịch sử 6 tiết Tiết 31: Ngô Quyền và chiến thắng Bạch Đằng năm 938 giáo viên có thể chiếu đoạn video về trận đánh hoặc mô tả trận đánh thiết kế trên phần mềm trình chiếu sẽ tạo được tính tò mò kích thích hứng thú học tập của học sinh. Sau khi lựa chọn nội dung kiến thức giáo viên sẽ thiết kế bài dạy ứng dụng CNTT cho phù hợp với ý tưởng khi thiết kế chú ý sử dụng các phần mềm ứng dụng để hỗ trợ. Phần mềm hay dùng là PowerPoint được tích hợp sẵn trên Microsoft Office hầu hết máy tính nào cũng có. Ngoài ra có thể kết hợp thêm nhiều phần mềm khác như Flash, Violet (tiếng Việt)…Cuối cùng là việc giáo viên vận dụng trong tiết học một cách linh hoạt sẽ giúp giáo viên có một tiết dạy đạt hiệu quả cao nhất. Lưu ý bước lựa chọn nội dung kiến thức ứng dụng CNTT có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của ứng dụng. Không phải nội dung bài nào cũng ứng dụng mà chỉ nên chọn các kiến thức khó mô tả, hay các thí nghiệm khó thành công có thể làm thí nghiệm ảo...tránh lạm dụng sử dụng các phần mềm quá nhiều đặc biệt là các hiệu ứng sẽ ảnh hưởng đến kết quả của tiết dạy không cao. Với những ứng dụng của đề tài, kết quả rõ nét nhất đó là sự hứng thú của học sinh Trong các môn học có sự thay đổi rõ rệt. Mỗi khi đến tiết học có ứng dụng CNTT, đặc biệt các ngày có tiết sử dụng CNTT của các thầy cô giáo sĩ số chuyên cần của học sinh tăng lên đáng kể so với các tiết giảng dạy truyền thống. Từ đó dẫn đến bản thân giáo viên áp dụng thiết dạy có sử dụng CNTT cũng luôn tự tin và hào hứng với tiết dạy. Đến nay phần lớn giáo viên đã soạn giáo án trên máy vi tính, đa số thầy cô giáo có thể dùng Power Point và một số phần mềm khác để trình chiếu hỗ trợ giảng dạy, biết vào Internet tìm kiếm thông tin, hình ảnh, hình mẫu đưa vào minh họa trong bài giảng... c. Hiệu quả về mặt xã hội Nhà trường đã tổ chức được phong trào thi đua giảng dạy bằng phương pháp mới. Do vậy, tuy chuẩn bị cho một tiết dạy bằng giáo án điện tử tốn nhiều thời gian và công sức hơn nhưng giáo viên ở tất cả các bộ môn đều hăng hái đăng ký. Kết quả từ đầu năm học đến nay đã 100% tiết dạy thao giảng sử dụng bằng phương pháp dạy học mới với việc vận dụng CNTT và các thiết bị dạy học hiện đại ở hầu hết các môn học. Qua thực tiễn dạy học và khảo sát hiệu quả từ phía học sinh cho thấy, nếu sử dụng phương pháp dạy học truyền thống với phấn trắng bảng đen thì hiệu qủa mang lại không cao: Kết quả khảo sát học sinh dạy học theo phương pháp truyền thống ở các môn tham gia áp dụng sáng kiến (không sử dụng CNTT trong tiết dạy):
Kết quả khảo sát học sinh dạy học theo phương pháp mới ở các số môn tham gia áp dụng sáng kiến (có sử dụng CNTT trong tiết dạy):
Phần lớn học sinh đều thích những giờ dạy học Có ứng dụng CNTT với rất nhiều hình ảnh, âm thanh minh họa đẹp mắt, sinh động đã làm cho các em hứng thú, say mê học tập. Cùng một thời lượng như nhau nhưng số lượng kiến thức và kỹ năng các em thu nhận được lại nhiều hơn, cụ thể, sinh động, sâu sắc và chắc chắn hơn. Đồng thời giúp các em thư giãn, tránh áp lực và sự khô khan của những tiết học như trước đây. Hầu như tất cả các giờ học được dạy theo phương pháp này không có một học sinh nào tỏ ra chán nản, lười biếng học tập hoặc học với tâm trạng đối phó, thụ động, mà ngược lại các em đều rất thích thú. Rõ ràng đã đem lại hiệu quả tích cực tới các em học sinh. 5. Đánh giá về phạm vi ảnh hưởng của sáng kiến Khả năng áp dụng sáng kiến là rất khả thi, các giáo viên đã và đang tích cực đổi mới phương pháp dạy học sao cho phù hợp với đối tượng học sinh đặc biệt là nhằm nâng cao chất lượng giáo dục thu hút học sinh, tạo hứng thú cho học sinh học tập và việc ứng dụng CNTT vào dạy học là cần thiết phương tiện tối ưu cho các giáo viên và học sinh tìm hiểu kiến thức mới thú vị hơn. Giải pháp của sáng kiến có thể áp dụng cho tất cả các trường trong giáo dục phù hợp với nhiều đối tượng, cơ quan ngoài ứng dụng CNTT vào dạy học CNTT cũng có thể được ứng dụng vào các hoạt động ngoại khóa, tập huấn…của nhiều cơ quan tổ chức nếu biết cách ứng dụng thì hiệu quả đem lại là rất lớn 6. Các thông tin cần được bảo mật: Không 7. Kiến nghị, đề xuất: a) Về danh sách cá nhân được công nhận đồng tác giả sáng kiến Đề nghị Hội đồng thẩm định chấm sáng kiến công nhận đồng tác giả sáng kiến là tác giả Nguyễn Anh Tuấn và tác giả Dương Thị Thanh Nga. b) Kiến nghị Để việc soạn giảng ứng dụng CNTT vào dạy học đạt hiệu quả cao đồi hỏi khâu chuẩn bị khá công phu và mất nhiều thời gian và do cơ sở vật chất còn thiếu thốn, chưa có phòng học lắp máy chiếu riêng... Vì thế mà một số giáo viên đã thực hiện nhưng chỉ mang tính hình thức và chỉ quan tâm chuẩn bị chu đáo ở các tiết dạy thao giảng mà chưa thường xuyên sử dụng ở các tiết dạy hàng ngày. Vì vậy tôi xin có một vài kiến nghị nhỏ như sau: Thứ nhất: Trong các đợt bồi dưỡng chuyên môn nên lồng ghép tập huấn nhiều hơn nữa cho giáo viên làm quen với việc ứng dụng CNTT của từng bộ môn. Thứ hai: Trong nhà trường nên tổ chức các buổi thảo luận, hoạt động ngoại khóa để giáo viên có thể trao đổi, học hỏi lẫn nhau. Ngoài ra, các thầy cô giáo trong cùng tổ chuyên môn nên có các buổi thao giảng để thu nhận những góp ý chân thành từ những người khác, từ đó nâng cao chất lượng giảng dạy theo phương pháp mới. Thứ ba: Mỗi đồng chí giáo viên cần có tinh thần tự học tập để đó làm cơ sở cho sự tiếp thu và sự trao đổi phương pháp dạy học hướng tới chất lượng giáo dục ngày càng nâng cao. Thứ tư: Cần tiếp tục có sự đầu tư xây dựng thêm cơ sở vật chất, bổ sung thêm máy chiếu cho nhà trường đầy đủ hơn thúc đẩy ứng dụng CNTT vào dạy học. 8. Tài liệu kèm: Không Trên đây là nội dung, hiệu quả của nhóm tác giả do chính chúng tôi thực hiện không sao chép hoặc vi phạm bàn quyền./.
Tổng số điểm của bài viết là: 2 trong 1 đánh giá Click để đánh giá bài viết |