Sáng kiến kinh nghiệm về ứng dụng CNTT

Sáng Kiến Kinh Nghiệm Ứng Dụng Công Nghệ Thông Tin Trong Dạy Học Tiểu Học

Trang chủ » Tài Liệu Sáng Kiến Kinh Nghiệm » Sáng Kiến Kinh Nghiệm Ứng Dụng Công Nghệ Thông Tin Trong Dạy Học Tiểu Học

  • 23/09/2021
  • Sáng kiến kinh nghiệm về ứng dụng CNTT
    Trần Khánh Ngân

4.8 / 5 ( 5 bình chọn )

Trong bài viết hôm nay, Best4Team xin chia sẻ đến bạn đọc những sáng kiến kinh nghiệm ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học tiểu học – đây đều là những đề tài có đóng góp quan trọng trong sự nghiệp đổi mới nền giáo dục. Dựa vào đó, các giáo viên có thể linh hoạt hơn trong quá trình giảng dạy, thiết kế một bài giảng có nhiều hình ảnh trực quan, giúp học sinh hiểu bài nhanh hơn.

Sáng kiến kinh nghiệm về ứng dụng CNTT
Ứng dụng CNTT trong giảng dạy ở bậc tiểu học

SKKN Một số biện pháp ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học ở trường tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.44 KB, 29 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN KIM ĐỘNG
TRƯỜNG TIỂU HỌC ĐỨC HỢP
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ
THÔNG TIN TRONG DẠY HỌC Ở TRƯỜNG TIỂU
HỌC
Người thực hiện: Nguyễn Thị Bích Loan
Chức vụ: Hiệu trưởng
Đơn vị công tác: trường tiểu học Đức Hợp-Kim Động – Hưng Yên
NĂM HỌC: 2012 - 2013
1
*******@*******
MỤC LỤC
PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU TRANG
I. Lý do chọn sáng kiên
1. Lý do khách quan 2
2. Lý do chủ quan 4
PHẦN II: NỘI DUNG
6
I. Cơ sở lý luận 6
1. Cơ sở pháp lí 6
2. Cơ sở lý luận 6
II. Thực trạng ứng dụng CNTT trong nhà trường tiểu học hiện nay 7
1.Những trở ngại khi sử dụng giáo án điện tử 7
2. Thực trạng ứng dụng CNTT trong nhà trường hiện nay 8
3. Các hình thức ứng dụng CNTT trong dạy và học 9
III. Một số biện pháp ứng dụng CNTT trong dạy học 11
1. Biện pháp 1 11
2. Biện pháp 2 14
3. Biện pháp 3 17
4. Biện pháp 4 19


5. Biện pháp 5 21
6. Biện pháp 6 24
PHẦN III: KẾT LUẬN
1. Bài học kinh nghiệm 26
2. Điều kiện áp dụng 26
3. Hướng tiếp tục nghiên cứu 26
4. Đề xuất kiến nghị 17
PHẦN I. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn sáng kiến
1. Lý do khách quan
1.1.Tầm quan trọng của công nghệ thông tin:
2
Sự phát triển như vũ bão của ngành khoa học và công nghệ đã đem lại những
thành tựu to lớn trong mọi hoạt động của con người. Trong xu thế hội nhập với thế
giới của Việt Nam, chúng ta luôn cập nhật được những tiến bộ trong cách dạy, cách
học và phương thức quản lý giáo dục tiên tiến trên thế giới. Với xu thế thay đổi mô
hình giáo dục theo hướng hiện đại thì trường học phải thay đổi môi trường giáo dục.
Mọi tài nguyên, nguồn lực trong mỗi trường học cần tập trung vào việc tạp lập một
môi trường học tập cởi mở, sáng tạo cho học sinh. Một môi trường giáo dục hiện đại
sẽ cung cấp tối đa khả năng tự học, tìm kiếm thông tin cho mỗi học sinh; trong khi
giáo viên chỉ hướng dẫn kĩ năng, phương pháp giiair quyết công việc và xử lý thông
tin chính là cốt lõi của phương thức giáo dục này. Để hiện thực hóa những giá trị cốt
lõi trên, công nghệ thông tin (CNTT) là một công cụ hữu hiệu.
Máy vi tính với các phần mềm phong phú đã trở thành một công cụ đa năng ứng
dụng trong mọi lĩnh vực của nghiên cứu, sản xuất và đời sống. Tuy nhiên nếu như
công dụng của máy là tính là có thể đo đếm được thì sự ra đời của mạng máy tính
toàn cầu (Internet) đem lại những hiệu quả vô cùng lớn, không thể đo đếm được.
Chính vì vậy, ngày nay chúng ta thường nghe nói đến thuật ngữ Công nghệ thông tin
&Truyền thông (ICT).
Một máy tính nối mạng không phải chỉ giúp chúng ta đọc báo điện tử, gửi email


mà nó là kênh kết nối chúng ta với tất cả thế giới. Chúng ta có thể tiếp cận toàn bộ tri
thức nhân loại, có thể làm quen giao tiếp với nhau hoặc tham gia những tổ chức ở xa
nửa vòng trái đất. Mạng máy tính toàn cầu thực sự đã tạo ra một thế giới mới trong
đó cũng có gần như các hoạt động của thế giới thực: thương mại điện tử
(ecommerce), giáo dục điện tử (elearning), trò chơi trực tuyến (game online), các
diễn đàn (forum), các mạng xã hội (social network), các công dân điện tử (blogger),

Thông qua các diễn đàn và mạng xã hội, tất cả mọi người có thể trao đổi, chia sẻ
với nhau các tài nguyên số, cũng như các kinh nghiệm trong công việc trong đời
sống và công việc. Ví dụ mọi người có thể chia sẻ các đoạn phim hoặc các bài hát,
có thể chia sẻ các bài viết về những kiến thức khoa học, xã hội, v.v… Ví dụ các bậc
3
phụ huynh trên cả nước có thể chia sẻ kinh nghiệm về cách chăm sóc con cái. Các
giáo viên có thể chia sẻ các tư liệu ảnh, phim, các bài giảng và giáo án với nhau, để
xây dựng một kho tài nguyên khổng lồ phục vụ cho việc giảng dạy của mỗi người.
Học sinh cũng có thể thông qua các mạng xã hội để trao đổi những kiến thức về học
tập và thi cử.
Trong thời đại ngày nay, sự bùng nổ Công nghệ thông tin đã tác động lớn đến
công cuộc phát triển kinh tế xã hội người. Đảng và Nhà nước đã xác định rõ ý nghĩa
và tầm quan trọng của tin học và Công nghệ thông tin, truyền thông cũng như những
yêu cầu đẩy mạnh của ứng dụng Công nghệ thông tin, đào tạo nguồn nhân lực đáp
ứng yêu cầu Công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở cửa và hội nhập, hướng tới nền kinh
tế tri thức của nước ta nói riêng - thế giới nói chung.
1.2. Tầm quan trọng của CNTT trong nhà trường
Khi công nghệ thông tin càng phát triển thì việc phát ứng dụng công nghệ thông
tin vào tất cả các lĩnh vực là một điều tất yếu. Trong lĩnh vực giáo dục đào tạo,
CNTT bước đầu đã được ứng dụng trong công tác quản lý, một số nơi đã đưa tin học
vào giảng dạy, học tập. Tuy nhiên, so với nhu cầu thực tiễn hiện nay, việc ứng dụng
CNTT trong giáo dục ở các trường nước ta còn rất hạn chế. Chúng ta cần phải nhanh
chóng nâng cao chất lượng, nghiệp vụ giảng dạy, nghiệp vụ quản lý, chúng ta không


nên từ chối những gì có sẵn mà lĩnh vực CNTT mang lại, chúng ta nên biết cách tận
dụng nó, biến nó thành công cụ hiệu quả cho công việc của mình, mục đích của
mình.
Hơn nữa, đối với giáo dục và đào tạo, công nghệ hông tin có tác dụng mạnh mẽ,
làm thay đổi nội dung, phương pháp dạy và học. CNTT là phương tiện để tiến tới
“xã hội học tập”. Mặt khác, giáo dục và đào tạo đóng vai trò quan trọng thúc đẩy sự
phát triển của CNTT thông qua việc cung cấp nguồn nhân lực cho CNTT.
Chính vì xác định được tầm quan trọng đó nên Nhà nước ta đã đưa môn tin
học vào trong nhà trường và ngay từ Tiểu học học sinh được tiếp xúc với môn tin
học để làm quen dần với lĩnh vực CNTT, tạo nền móng cơ sở ban đầu để học những
phần nâng cao trong các cấp tiếp theo.
4
Với tầm quan trọng đó, năm học 2008-2009 Bộ giáo dục và đào tạo đã đưa ra
chủ đề “ Năm ứng dụng CNTT " trong giáo dục đào tạo ở tất cả các cấp học, bậc học,
ngành học theo hướng dẫn học CNTT như là một công cụ hỗ trợ đắc lực nhất cho đổi
mới phương pháp dạy học ở các môn.
Nhưng làm thế nào để ứng dụng CNTT hiệu quả trong các tiết dạy đó là vấn đề mà
bất cứ một giáo viên nào cũng phải băn khoăn khi có ý định đưa CNTT vào giảng
dạy.
2. Lý do chủ quan
Năm học 2008- 2009 là năm Bộ GD&ĐT phát động là năm học ứng dụng công
nghệ thông tin và năm học 2009 – 2010 là năm đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông
tin nhưng tôi không cảm thấy bỡ ngỡ, xa lạ bởi tôi nhận ra những công dụng và ích
lợi của việc ứng dụng công nghệ thông tin và bản thân tôi đã có một quá trình trong
việc ứng dụng CNTT trong dạy học.
Phong trào ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học và quản lý giáo dục
nhận được sự quan tâm chỉ đạo của các cấp chính quyền, của ngành giáo dục, sự ủng
hộ của giáo viên, học sinh và nhân dân đã có sự phát triển mạnh mẽ, rộng lớn nhưng
vẫn còn gặp nhiều khó khăn lúng túng, chưa có chiều sâu và chưa mang lại hiệu quả
đúng với vai trò của nó.


Thời gian gần đây, phong trào thi đua soạn bài giảng điện tử để đổi mới cách
dạy và học đã được nhiều Cán bộ giáo viên hưởng ứng tích cực. Đây được coi là con
đường ngắn nhất để đi đến đích của chất lượng dạy học trong các nhà trường.
Xuất phát từ thực trạng giảng dạy của đội ngũ cán bộ, giáo viên của Ngành.
Mặc dù hầu hết trình độ giáo viên của các trường đều đạt trên chuẩn và trên chuẩn
cao, tuy vậy vẫn còn nhiều giáo viên dạy theo phương pháp truyền thống, nặng về
phương pháp thuyết trình, độc thoại, ngại sử dụng phương pháp mới mà đặc biệt là
việc ứng ứng dụng CNTT trong giảng dạy. Việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy ở
các trường hầu hết thông qua các đợt hội giảng, ứng dụng CNTT chưa thường xuyên,
còn mang tính hình. Để thúc đẩy việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy và quản lý
giáo dục tại các trường tiểu học, góp phần nâng cao chất lượng dạy học, tôi mạnh
5
dạn nghiên cứu vấn đề “Một số biện pháp Ứng dụng công nghệ thông tin
trong dạy học”.
PHẦN II. NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận về “Ứng dụng công nghệ thông tin”
1. Cơ sở pháp lý
6
- Chỉ thị số 58-CT/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng về đẩy mạnh ứng
dụng và phát triển CNTT phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa .
- Chỉ thị 29/CT của Trung Ương Đảng về việc đưa CNTT vào nhà trường. Chỉ thị
29 nêu rõ: “Ứng dụng và phát triển CNTT trong giáo dục và đào tạo sẽ tạo ra một
bước chuyển cơ bản trong quá trình đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp
giảng dạy, học tập và quản lí giáo dục” .” Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong giáo dục
và đào tạo ở tất cả các cấp học, bậc học, ngành học theo hướng sử dụng CNTT như
một công cụ hỗ trợ đắc lực nhất cho đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập ở tất
cả các môn học” .
- Trong nhiệm vụ năm học 2005 - 2006 Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo nhấn
mạnh: Khẩn trương triển khai chương trình phát triển nguần nhân lực CNTT từ nay
đến năm 2010 của chính phủ và đề án dạy Tin học ứng dụng CNTT và truyền thông


giai đoạn 2005 - 2010 của ngành.
- Chiến lược phát triển giáo dục 2005 – 2010 chỉ rõ :”Nhanh chóng áp dụng CNTT
vào giáo dục để đổi mới phương pháp giáo dục và quản lí”.
2. Cơ sở lý luận
Công nghệ thông tin, viết tắt CNTT, (tiếng Anh: Information Technology hay là
IT) là ngành ứng dụng công nghệ quản lý và xử lý thông tin. CNTT là sử dụng máy
tính và phần mềm máy tính để chuyển đổi, lưu trữ, bảo vệ, xử lý, truyền, và thu thập
thông tin. Ở Việt Nam khái niệm CNTT được hiểu và định nghĩa trong nghị quyết
Chính phủ 49/CP kí ngày 04/08/1993: Công nghệ thông tin là tập hợp các phương
pháp khoa học, các phương tiện và công cụ kĩ thuật hiện đại - chủ yếu là kĩ thuật
máy tính và viễn thông - nhằm tổ chức khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn
tài nguyên thông tin rất phong phú và tiềm năng trong mọi lĩnh vực hoạt động của
con người và xã hội.
Trong hệ thống giáo dục Tây phương, CNTT đã được chính thức tích hợp vào
chương trình học phổ thông. Người ta đã nhanh chóng nhận ra rằng nội dung về
CNTT đã có ích cho tất cả các môn học khác.
7
Với sự ra đời của Internet mà các kết nối băng tần rộng tới tất cả các trường
học, áp dụng của kiến thức, kỹ năng và hiểu biết về CNTT trong các môn học đã trở
thành hiện thực.
Công nghệ thông tin là công cụ đắc lực hỗ trợ đổi mới phương pháp giảng dạy,
học tập và hỗ trợ đổi mới quản lý giáo dục, góp phần nhằm nâng cao hiệu quả và
chất lượng giáo dục. Phát triển nguồn nhân lực CNTT và ứng dụng CNTT trong giáo
dục là một nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa quyết định sự phát triển CNTT của đất
nước.
II. Thực trạng ứng dụng CNTT trong nhà trường tiểu học hiện nay
1. Những trở ngại khi sử dụng giáo án điện tử
Phần lớn các giáo viên ngại sử dụng giáo án điện tử, nghĩ rằng sẽ tốn thời gian
để chuẩn bị một bài giảng. Việc thực hiện một bài giảng một cách công phu bằng các
dẫn chứng sống động trên các slide trong các giờ học lý thuyết là một điều mà các


giáo viên không muốn nghĩ đến. Để có một bài giảng như thế đòi hỏi phải mất nhiều
thời gian chuẩn bị mà đó chính là điều mà các giáo viên thường hay tránh. Khảo sát
hiệu quả từ phía học sinh cho thấy, nếu sử dụng phương pháp dạy học truyền thống
với phấn trắng bảng đen thì hiệu qua mang lại chỉ có 30%, trong khi hiệu quả của
phương pháp multimedia (nhìn - nghe) lên đến 70%. Việc sử dụng phương pháp mới
đòi hỏi một giáo án mới. Thực ra, muốn “click” chuột để tiết dạy thực sự hiệu quả thì
giáo viên phải vất vả gấp nhiều lần so với cách dạy truyền thống. Ngoài kiến thức
căn bản về vi tính, sử dụng thành thạo phần mềm Power point, Violet,… giáo viên
cần phải có niềm đam mê thật sự với công việc thiết kế đòi hỏi sự sáng tạo, sự nhạy
bén, tính thẩm mỹ để săn tìm tư liệu từ nhiều nguồn.
Hơn nữa trong quá trình thiết kế, để có được một giáo án điện tử tốt, từng cá
nhân giáo viên còn gặp không ít khó khăn trong việc tự đi tìm hình ảnh minh hoạ, âm
thanh sinh động, tư liệu dẫn chứng phù hợp với bài giảng. Đây cũng chính là một
trong những nguyên nhân mà một số giáo viên thường đưa ra để tránh né việc thực
hiện dạy ứng dụng CNTT. Một số tiết dạy có ứng dụng CNTT thì thường trình chiếu
8
nội dung bài dạy suốt cả tiết học làm cho học sinh mỏi mắt, đưa vào tình trạng mệt
mỏi, kém tích cực. Còn một số tiết dạy thì nội dung không nhất thiết phải trình chiếu
cũng thể hiện lên, chưa chắt lọc được phần kiến thức nào thì nên dùng phần mềm để
hỗ trợ.
Một số hoạt động tiếp cận khái niệm, mô tả khái niệm, quy tắc chưa biết khai
thác thế mạnh của các phần mềm ứng dụng như Power point, Sketchpat, . . .
Chính vì những khó khăn trên mà các giáo viên chỉ ứng dụng CNTT khi có nhu
cầu. Tức là chỉ có thao giảng, thì mới sử dụng và việc làm này chỉ mang tính chất đối
phó. Tình trạng này cũng phổ biến trong các trường phổ thông. Mục đích sử dụng
máy tính phục vụ cho công tác giảng dạy chỉ được áp dụng trong các tình huống này.
2. Thực trạng ứng dụng CNTT trong nhà trường tiểu học hiện nay
Từ khá sớm, một số trường học đã bắt đầu đưa công nghệ thông tin vào giảng
dạy. Hầu hết các trường đều chưa có phòng máy tính riêng. Mặc dù một số trường
được trang bị một số máy tính tuy nhiên chỉ nhằm mục đích ứng dụng trong công tác


lưu trữ, quản lý hồ sơ nhân sự hay trợ giúp việc thi cử. Như vậy, có thể thấy chúng ta
đã bỏ phí rất nhiều tiềm năng của máy tính, chưa khai thác hết những ứng dụng to lớn
của công nghệ thông tin, mà một trong những ứng dụng đó là việc sử dụng các phần
mềm hỗ trợ giảng dạy cho các tiết học trên lớp đối với các môn văn hoá khác như:
Toán, tiếng Việt, Tự nhiên xã hội, Đạo đức v.v
Chính vì vậy, nhu cầu sử dụng phần mềm trong giảng dạy hiện nay là rất lớn.
Hầu hết các giáo viên đều nhận thấy đây là vấn đề cấp thiết cần thực hiện ngay. Các
lãnh đạo trường cũng như các cơ quan giáo dục đều khuyến khích và coi khả năng sử
dụng giáo án điện tử, bài giảng điện tử là ưu điểm của giáo viên. Do đó, các lớp tập
huấn Tin học sử dụng Powerpoint, Violet, thường được các giáo viên tham gia rất
đông. Trong các cuộc thi giáo viên dạy giỏi, gần như 100% là các bài giảng là dùng
phần mềm. Đa số các trường học đều đã trang bị máy chiếu để phục vụ việc giảng dạy
bằng máy tính.
Trên thực tế thì các phần mềm giáo dục của Việt Nam cũng đã xuất hiện rất
nhiều, phong phú về nội dung và hình thức như: sách giáo khoa điện tử, các website
9
đào tạo trực tuyến, các phần mềm multimedia dạy học, Trên thị trường có thể dễ
dàng lựa chọn và mua một phần mềm dạy học cho bất cứ môn học nào từ lớp một cho
đến luyện thi đại học. Tuy nhiên, các phần mềm dạy học cho học sinh, dù đã có rất
nhiều cố gắng về mặt hình thức và nội dung song sự giao tiếp giữa máy với người
chắc chắn không thể bằng sự giao tiếp giữa thầy với trò
Hiện nay, các công ty thiết bị giáo dục cũng thường xây dựng các video quay các
tiết giảng mẫu để đưa về các trường. Tuy nhiên định hướng này khó phát huy được
hiệu quả, vì sản phẩm cũng chỉ như một giáo án tham khảo trong khi chi phí để xây
dựng rất lớn (vài chục triệu đồng/tiết dạy) mà hầu như không thể chỉnh sửa về sau
được. Nó thậm chí còn có thể gây phản tác dụng khi tạo ra sự áp đặt cho giáo viên, tạo
ra tư duy lười suy nghĩ vì chỉ cần dạy theo giáo án mẫu, làm giảm đi sự sáng tạo của
giáo viên trong việc giảng dạy
3. Các hình thức ứng dụng CNTT trong dạy học
Hiện nay, trên thế giới người ta phân biệt rõ ràng 2 hình thức ứng dụng CNTT


trong dạy và học, đó là Computer Base Training, gọi tắt là CBT (dạy dựa vào máy
tính), và E-learning (học dựa vào máy tính). Trong đó:
- CBT là hình thức giáo viên sử dụng máy vi tính trên lớp, kèm theo các trang
thiết bị như máy chiếu (hoặc màn hình cỡ lớn) và các thiết bị multimedia để hỗ trợ
truyền tải kiến thức đến học sinh, kết hợp với phát huy những thế mạnh của các phần
mềm máy tính như hình ảnh, âm thanh sinh động, các tư liệu phim, ảnh, sự tương tác
người và máy.
- E-learning là hình thức học sinh sử dụng máy tính để tự học các bài giảng mà
giáo viên đã soạn sẵn, hoặc xem các đoạn phim về các tiết dạy của giáo viên, hoặc có
thể trao đổi trực tuyến với giáo viên thông mạng Internet. Điểm khác cơ bản của hình
thức E-learning là lấy người học làm trung tâm, học viên sẽ tự làm chủ quá trình học
tập của mình, giáo viên chỉ đóng vai trò hỗ trợ việc học tập cho học viên.
Như vậy, có thể thấy CBT và E-learning là hai hình thức ứng dụng CNTT vào
dạy và học khác nhau về mặt bản chất. Một bên là hình thức hỗ trợ cho giáo viên, lấy
người dạy làm trung tâm và cơ bản vẫn dựa trên mô hình lớp học cũ. Còn một bên là
10
hình thức học hoàn toàn mới, lấy người học làm trung tâm, trong khi giáo viên chỉ là
người hỗ trợ. Tuy nhiên, ở Việt Nam nhiều người vẫn bị nhầm lẫn 2 khái niệm này,
trong đó có không ít các chuyên gia giáo dục, nên nhiều khi dẫn đến những sai lầm
trong đường hướng chỉ đạo. Vì vậy, tôi sẽ phân tích kỹ hơn nhưng mặt mạnh mặt yếu
của CBT và E-learning để có thể hiểu rõ hơn chúng ta đã làm gì, cần làm gì và nên
làm gì trong giai đoạn hiện nay.
CBT E-learning
Có thể phát triển, cải tiến từ phương
pháp dạy học truyền thống. Vẫn dựa
trên những hình thức cơ bản của một
lớp học thông thường
Thay đồi hoàn toàn cách dạy và học.
Người học có thể học riêng rẽ, học ở nhà
hoặc ở nơi làm việc. E-learning khai thác


được tối đa sức mạnh của thế giới
Internet: khả năng phổ biến rất cao (có
thể 1 bài giảng hàng triệu người học),
hay có khả năng cập nhật các thông tin
mới ngay lập tức.
Chi phí đầu tư ban đầu thấp. Chỉ cần
trang bị cho lớp học máy tính, máy
chiếu và các thiết bị multimedia.
Chi phí đầu tư ban đầu rất cao. Mỗi lớp
học phải là một phòng máy tính nối mạng
Internet, mỗi học sinh và giáo viên phải
có máy tính riêng và những phần mềm
chuyên dụng.
CBT là phương pháp kết hợp được cả
những thế mạnh của phương pháp dạy
học truyền thống (dựa trên giao tiếp
thầy-trò) và khai thác được những ưu
thế của các công nghệ hiện đại (ví dụ
những bài giảng điện tử).
Chỉ dựa trên thế mạnh của các bài giảng
điện tử, hầu như không có giao tiếp thầy
trò.
Phù hợp hơn với giáo dục phổ thông, vì
là ở giáo dục phổ thông, giáo viên
không chỉ dạy kiến thức mà còn phải
theo dõi hướng dẫn cách tư duy. Vả lại
Phù hợp hơn với giáo dục Đại học, Sau
đại học và những người đã đi làm.
11
học sinh nhỏ tuổi chưa đủ khả năng để


làm chủ được quá trình học tập của
mình.
Đây là phương pháp mà các giáo viên ở
Việt Nam hay dùng phổ biến hiện nay
như dùng Powerpoint, Violet để thiết
kế bài giảng và dạy học dùng máy
chiếu. Những kết quả thu được là rất
đáng kể.
Chưa phải là hình thức phổ biến lắm ở
Việt Nam. Mới chỉ có một số trường ĐH
có hệ thống E-learning riêng như ĐH Sư
phạm HN, ĐH Xây dựng HN, ĐH Cần
Thơ,
III. Một số biện pháp ứng dụng Công nghệ thông tin trong dạy học
1. Biện pháp 1: Hướng dẫn tự bồi dưỡng, trang bị những kiến thức Tin học cơ
bản nhất về công nghệ thông tin cho cán bộ, giáo viên trong các nhà trường.
Mặc dù GAĐT chưa được các trường học đón nhận rộng rãi, chưa thực sự phổ
biến nhưng bước đầu đã tạo ra một không khí học tập và làm việc khác hẳn cách học
và cách giảng dạy truyền thống. Phải chăng việc dạy bằng GAĐT sẽ giúp người thầy
đỡ vất vả bởi vì chỉ cần “click” chuột? Thực ra muốn “click” chuột để tiết dạy thực
sự hiệu quả thì người dạy cũng phải chịu bỏ nhiều công sức tìm hiểu và làm quen với
cách soạn và giảng bài mới này. Cụ thể người thầy cần phải:
- Có một ít kiến thức hiểu biết về sử dụng máy tính.
- Biết sử dụng phần mềm trình diễn PowerPoint2003 ( và đối với môn Toán :
Phần mềm Geometer’s Sketchpad, VisuaBasic, Violet, … )
- Biết cách truy cập Internet.
- Có khả năng sử dụng được một số phần mềm chỉnh sửa ảnh, cắt phim, làm các
ảnh động bằng Plash, cắt các file âm thanh,…
- Biết sử dụng máy chiếu Projector ( Máy chiếu đa năng )
Mới nghe thì có vẻ mới mẻ và phức tạp nhưng thực sự muốn ứng dụng công


nghệ thông tin vào giảng dạy có bắt buộc thì phải thực hiện hết các yêu cầu trên hay
không? Câu trả lời là không. Vì nó còn tùy thuộc vào tính chất của mỗi môn học mà
các yêu cầu khác nhau được đặt ra cho mỗi giáo viên. Tuy nhiên, nếu đáp ứng được
12
các yêu cầu trên thì thật là tuyệt vời, lúc đó chất lượng Dạy - học như thế nào thì các
bạn đồng nghiệp tự thảo luận?. Tại sao tôi lại đặt ra các yêu cầu đó? Các bạn thử
tưởng tượng xem nếu một người nào đó không có khái niệm gì về CNTT thì liệu họ
có bật máy tính lên và chọn cho mình một chương trình làm việc hay không? Liệu họ
có biết được tài liệu của mình nằm ở đâu trên máy tính hay không? Có biết cách
Copy (sao chép) tài liệu từ nơi này sang nơi khác hay Delete( xóa) một tài liệu khi
không dùng nữa? Nghĩa là dù ít hay nhiều thì cũng phải sử dụng được máy tính
theo ý riêng mình.
Ở đây, vấn đề cần đặt ra là từ những giáo án được soạn sẵn trên giấy và được trình
bày lại trên bảng đen làm thế nào để giáo án đó trở thành GAĐT được trình bày trên
màn chiếu projector? Điều này đòi hỏi người thầy trước hết phải biết sử dụng phần
mềm PowerPoint 2003 ( phần mềm nằm trong bộ MS Office 2003, hiện nay đã có
PowerPoint trong bộ MS Office 2007) dùng để tạo các trình diển đa dạng trên máy
tính. Ngoài ra có các phần mềm Cabri (Toán) ,GEOSPACW (Toán ), GraphCalc
(Toán), PhotoFrameShow (xử lí hình ảnh), Geometer’s Sketchpad(GSP) … Nếu chỉ
dừng ở mức độ soạn thảo những nội dung cần thiết và cộng thêm các thao tác định
dạng về màu sắc, font chữ tôi nghĩ rằng chắc thầy cô nào cũng có thể làm được. Tuy
nhiên nếu chỉ có làm như thế thì chúng ta chưa thực sự thấy được sức mạnh của
PowerPoint 2003 ( hay PowerPoint 2007) và cũng như một số phần mềm kể trên lúc
đó cũng như chưa phát huy hiệu quả của phương pháp giảng dạy mới này. Ví dụ: với
môn Lịch sử khi dạy về các trận chiến của quân ta và địch, thay vì giáo viên thuật lại
các trận đánh dựa trên bản đồ vẽ sẵn thì bây giờ học sinh nhìn vào trên màn hình lớn
các trận đánh sẽ diễn ra qua các đoạn phim tài liệu mà giáo viên chèn vào…
Với những nội dung bài giảng, hình ảnh minh họa được đưa vào bài giảng, thao
tác cơ bản đòi hỏi người thầy phải nắm được là thiết lập các hiệu ứng để làm sao cho
bài giảng được sinh động, mang lại không khí học tập sôi động và mới mẻ. Vậy các


hiệu ứng đó là gì? Đó là các hoạt cảnh của các đối tượng (văn bản, hình ảnh, ) được
thiết lập có thứ tự, có thể là dòng chữ hay hình ảnh này xuất hiện trước dòng chữ
hay hình ảnh kia, hay có thể là dòng chữ hay hình ảnh này xuất hiện sang trái, dòng
13
chữ hay hình ảnh xuất hiện sang phải….Chẳng hạn trong giờ học Toán giáo viên
(GV) đưa ra bài toán trắc nghiệm (chọn Đúng hoặc Sai: ( Phần mềm VisuaBasic hay
PowerPoint hay Violet sẽ làm được điều đó) sau đó mới kiểm nghiệm kết quả trên
màn hình, như thế mới tiết kiệm được thời gian chép câu hỏi lên bảng, đồng thời
tăng khả năng tư duy của học sinh (HS). Với đặc điểm này GV tiết kiệm được thời
gian viết nội dung lên bảng, nội dung hiển thị đến đâu GV giảng đến đó, làm cho
thời gian giảng bài nhiều hơn, logic hơn , HS hiểu bài sâu hơn.
Đối với môn Lịch sử, Địa lý bài giảng thường đi kèm với nhiều hình ảnh minh
họa. Có thể là hình ảnh mô tả một trận chiến, các căn cứ địa cách mạng, hay hình ảnh
của các vùng kinh tế, khí hậu, diện tích lãnh thổ của các nước trên thế giới,……Nếu
chỉ trình bày xuông sẽ không hấp dẫn học trò bằng giảng dạy giáo án điện tử. Hiện
tại những hình ảnh minh họa, phần mềm cho các nội dung bài dạy nói trên tương đối
nhiều trên Internet mà hiện tại nhà trường đều đã có mạng Internet , tôi nghĩ rằng nếu
chỉ cần bỏ một chút thời gian lên mạng mà có được những phần mềm, hình ảnh,
đoạn phim cần minh họa cho bài giảng thì người thầy nào cũng sẵn lòng cả. Điều đó
đồng nghĩa với việc giáo viên phải biết cách truy cập mạng Inernet để lấy thông tin.
Tuy nhiên không phải hình ảnh nào cũng lấy từ Internet được mà những hình ảnh
cần lấy từ sách giáo khoa (SGK) thì lúc đó ta phải Scaner(quét ảnh), chụp ảnh và
chỉnh sửa ảnh …. Nói tóm lại để có được một GAĐT tạm gọi là hiệu quả thì mỗi GV
cần phải có chút ít về kĩ thuật tin học.
Bài giảng sau khi được thiết kế sẽ được trình chiếu lên màn hình thông qua đầu
projector. Điều đó dù muốn hay không mỗi GV buộc phải biết cách sử dụng nó. Đây
là một trong những yêu cầu bắt buộc đối với GV chỉ cần một vài thao tác lắp máy
chiếu với Case của máy vi tính hoặc Laptop (máy tính xách tay) và điều chỉnh độ
nét, độ lớn trên màn hình, lúc này GV chắc hẳn có một bài giảng chất lượng, HS sẽ
có một tiết học thoải mái và sôi động.


Điều cuối cùng tôi muốn nói đến là nhờ GAĐT mà các giáo viên đã tạo ra một
không khí khác hẳn so với giờ dạy truyền thống. Học sinh buộc phải tập trung nghe
giảng và tư duy nhiều hơn trong các giờ học. Tuy nhiên, để làm được điều đó người
14
dạy phải có một kiến thức nhất định. Chẳng hạn sử dụng được phần mềm trình chiếu
PowrPoint để trình bày bài giảng và cần phải có khái niệm về các phương tiện kĩ
thuật đã được đề cập là các phương tiện hỗ trợ cho việc giảng dạy chứ không thể
thay thế được vai trò chủ đạo của người thầy trong giờ lên lớp.
2. Biện pháp 2: Hướng dẫn một số quy trình và nguyên tắc khi thực hiện bài
giảng ứng dụng Công nghệ thông tin
Hiện tại, ở trường đã và đang áp dụng GAĐT trong các giờ dạy, nhưng vấn đề đặt
ra là việc áp dụng như vậy đã đúng chưa, đã hiệu quả chưa ? Nếu chưa thì áp dụng
thế nào cho đúng quy trình để chuẩn bị cho một GAĐT?
Khi chuyển từ bài giảng truyền thống sang việc giảng bài bằng GAĐT (ứng dụng
CNTT trong dạy học), hầu hết các giáo viên ở trường nói chung thường mang một tư
tưởng của bài giảng cũ để áp đặt vào. Nghĩa là nghĩ và sẽ trình bày những gì mình
nói và viết tất cả các nội dung vào trong Slide. Điều này hoàn toàn sai lầm vì như thế
giáo viên chỉ nói những điều trong sách, không mở rộng các kiến thức ngoài.
Chúng ta cần nhớ một điều: Slide (một trang màn hình của một phần mềm nào đó)
là nơi là chỉ chứa tên bài học, các đề mục và các cụm từ chốt phục vụ cho bài giảng.
Tùy theo từng môn học, chúng ta có thể bổ sung các công thức, hình ảnh minh họa
một cách hợp lý. Đây là bước mà GV cần vận dụng khả năng, kiến thức về tin học
của mình để xây dựng bài giảng. Nếu Slide nào cần hình ảnh minh họa, giáo viên
nên tìm kiếm hình ảnh để chèn vào. Hay Slide kia đang trình bày một kết quả của thí
nghiệm vào để tăng tính thực tế. Công đoạn đưa nội dung vào giáo viên cũng nên lưu
ý về số lượng chữ, màu sắc, kích thước trên một Slide. Giáo viên nên tóm tắt vấn đề
mình muồn trình bày một cách rõ ràng, dễ hiểu. Nhìn vào Slide GV có nhiệm vụ
giải thích kĩ càng và mở rộng nó ra chứ không phải đọc các dòng chữ trên Slide. Nếu
chưa quen với cách giảng dạy này, GV cảm thấy khó khăn trong việc xác định xem
slide tiếp theo sẽ trình bày về vấn đề gì. Giáo viên có thể in ra một bảng để vừa giảng


vừa nhìn vào để xác định vấn đề tiếp theo.
Sử dụng GAĐT cũng không có nghĩa giáo án truyền thống bị lãng quên. Chúng ta
hãy nhìn lại xem trong giáo án truyền thống chúng ta trình bày những gì, phải chăng
15
là tất cả nội dung bài giảng? Vậy thì đối với GAĐT chỉ gồm một số các Slide chỉ
chứa văn bản, hình ảnh,….thì làm thế nào mà GV có thể quan sát hết các vấn đề cần
được giảng? Những nội dung cảm thấy thích thì tập trung nhiều thời gian vào và
giảm thời gian cho các nội dung còn lại? Liệu nếu một GV mới ra trường có thể nhớ
hết nội dung đã chuẩn bị trước buổi dạy hay không? Chỉ cần chúng ta xây dựng kế
hoạch giảng dạy thì vấn đề trên sẽ được giải quyết ngay. Đề cương này sẽ ghi rõ tên
bài dạy, các mục kiến thức cần trình bày, vấn đề nào cần trình bày trước, vấn đề nào
cần trình bày sau ? Vấn đề nào trọng tâm và nhấn mạnh? Chúng ta phải chuẩn bị kĩ
lưỡng như vậy là vì nếu tiết dạy đó GV chưa nói hết các nội dung trong các Slide hay
đã trình bày hết nội dung nhưng thời gian còn thừa. Tóm lại, chúng ta phải kết hợp
đề cương này cùng với việc trình bày trên các slide một các hợp lý thì lúc đó GV ắt
hẳn không còn băn khoăn gì về cách dạy này.
* Những chú ý khi thiết kế bài giảng có ứng dụng CNTT.
Mỗi lớp học có trung bình từ 25- 35 học sinh. Trong khi đó các tiết dạy GAĐT
thường phải tắt bớt đèn, đóng bớt cửa sổ hay kéo rèm hạn chế ánh sáng trời để ảnh
trên màn rõ hơn. Như vậy, những học sinh ngồi ở các dãy cuối lớp hay những học
sinh mắt kém sẽ khó khăn khi quan sát hình ảnh, chữ viết hay công thức trên màn
chiếu. Do đó để học sinh có thể quan sát được bài học chính xác từ màn chiếu, giáo
viên khi soạn giáo án trên Power Point cần chú ý một số nguyên tắc về hình thức
sau:
- Các trang trình diễn phải đơn giản và rõ ràng
- Không sao chép nguyên văn bài dạy, chỉ nên đưa những ý chính vào mỗi trang trình
diễn.
- Về màu sắc của nền hình: Màu sắc không lòe loẹt, đồ họa vui nhộn gây mất tập
trung cho học sinh. Cần tuân thủ nguyên tắc tương phản (contrast), chỉ nên sử dụng
chữ màu sậm (đen, xanh đậm, đỏ đậm…) trên nền trắng hay nền màu sáng. Ngược


lại, khi dùng màu nền sậm thì chỉ nên sử dụng chữ có màu sáng hay trắng.
- Về Font chữ:
16
Dùng các phông chữ, khung, nền hợp lí. (vd: nền màu trắng, màu đỏ cho các đề mục
có vai trò ngang nhau “cỡ chữ, kiểu chữ giống nhau)
Chỉ nên dùng các font chữ đậm, rõ và gọn (Vntime, Arial, Times Roman,…) hạn chế
dùng các font chữ có đuôi (VNI-times…) vì dễ mất nét khi trình chiếu.
- Về cỡ chữ:
Giáo viên thường muốn chứa thật nhiều thông tin trên một slide nên hay có khuynh
hướng dùng cỡ chữ nhỏ. Thực tế, khi dùng máy chiếu Projector chiếu lên màn cho
nhiều người xem thì size chữ thích hợp phải từ cỡ 28 trở lên mới đọc rõ được.
- Về trình bày nội dung trên nền hình:
Giáo viên không nên trình bày nội dung tràn lấp đầy nền hình từ trên xuống từ trái
qua phải, mà cần chừa ra khoảng trống đều hai bên và trên dưới theo tỷ lệ thích hợp
(thường là 1/5), để đảm bảo tính mỹ thuật, sự sắc nét và không mất chi tiết khi chiếu
lên màn. Các dạng đồ họa (hình ảnh, âm thanh,hiệu ứng…) cần phải được lựa chọn
cẩn thận, nếu không chúng sẽ gây phân tán tư tưởng, tư duy lệch lạc trong học sinh.
Những tranh, ảnh hay đoạn phim minh họa dù hay nhưng mờ nhạt, không rõ ràng thì
cũng không nên sử dụng vì không có tác dụng cung cấp thông tin xác định như ta
mong muốn.
- Trình chiếu giáo án:
Khi giáo viên trình chiếu Power Point, để học sinh có thể ghi chép kịp thì nội dung
trong mỗi slide không nên xuất hiện dày đặc cùng lúc. Ta nên phân dòng hay phân
đoạn thích hợp, cho xuất hiện theo hiệu ứng thời gian tương ứng. Trường hợp có nội
dung dài mà nhất thiết phải xuất hiện trọn vẹn cùng lúc, ta trích xuất từng phần thích
hợp để giảng, sau đó đưa về lại trang có nội dung tổng thể, học sinh sẽ dễ hiểu và dễ
ghi nhớ hơn.
* Các tiêu chí đánh giá bài giảng:
- Kế hoạch bài giảng được thể hiện cụ thể, rõ ràng và logic, nêu bật mục tiêu,
nội dung, tiến trình bài giảng.


- Thể hiện được các yêu cầu của phương pháp dạy học tiên tiến, phát huy tính
tích cực của học sinh.
17
- Nội dung bài giảng bám sát kiến thức cơ bản của chương trình theo quy định,
có tính hệ thống và khoa học.
- Sử dụng và tích hợp các công cụ công nghệ thông tin sáng tạo, hợp lý, tối ưu
nhằm phát huy tối đa chất lượng, tính hấp dẫn trong bài giảng; thu hút và tạo môi
trường tương tác tích cực giữa giáo viên và học sinh và giữa học sinh với nhau.
- Hình thức tổ chức, bố trí nội dung bài giảng khoa học, dễ hiểu, thân thiện.
- Hiệu quả, tác động và ảnh hưởng của bài giảng đối với môi trường giáo dục.
3. Biện pháp 3: Hướng dẫn khai thác và xử lý thông tin, tư liệu phục vụ cho bài
giảng có ứng dụng Công nghệ thông tin
Từ nhiều năm nay, ở các nhà trường đã tương đối phổ biến mô hình giảng dạy sử
dụng bài giảng điện tử cùng với các trang thiết bị khác như máy tính, máy chiếu
(projector), Bài giảng điện tử và các trang thiết bị này có thể coi là những công cụ
dạy học đa năng vì nó có thể thay thế cho hầu hết các công cụ dạy học khác từ truyền
thống (tranh vẽ, bản đồ, mô hình, ) đến hiện đại (cassette, ti vi, đầu video ). Hơn
nữa, nếu các bài giảng điện tử được đầu tư xây dựng cẩn thận thì sẽ đem lại hiệu quả
hơn hẳn. Chẳng hạn khi mô phỏng một trận đánh lịch sử, trên bản đồ giấy chỉ có thể
diễn tả được bằng các mũi tên chỉ hướng tấn công, còn trên phần mềm có thể diễn tả
được hình ảnh của các đoàn quân di chuyển, nên tạo được sự hấp dẫn và học sinh có
thể tiếp thu bài giảng dễ dàng hơn.
Khác với các phần mềm giáo dục khác, bài giảng điện tử không phải là phần
mềm dạy học, nó chỉ trợ giúp cho việc giảng dạy của giáo viên (đối tượng sử dụng là
giáo viên, không phải là học sinh). Chính vì vậy, việc truyền đạt kiến thức vẫn dựa
trên giao tiếp thầy - trò, chứ không phải giao tiếp máy - người. Mặt khác, vì giáo viên
là người trực tiếp điều hành việc sử dụng phần mềm nên có thể khai thác tối đa được
những kiến thức cần chuyển tải trong phần mềm, tuỳ thuộc vào trình độ của học sinh
và phương pháp giảng dạy của giáo viên.
Rõ ràng việc sử dụng các bài giảng điện tử sẽ tăng hiệu quả đáng kể đối với các


tiết dạy của giáo viên. Có thể nói đó là sự kết hợp những ưu điểm của phương pháp
dạy học truyền thống và của các công nghệ hiện đại.
18
Tuy nhiên, muốn đầu tư xây dựng các bài giảng điện tử thì chỉ có một cách duy
nhất là phải hướng dẫn, tập huấn các giáo viên để họ có thể tự xây dựng các bài
giảng cho riêng mình. Song, việc tập huấn cũng chỉ dừng lại ở mức độ sử dụng thành
thạo một vài công cụ thiết kế bài giảng như Powerpoint hay Violet, cách tìm kiếm
các tư liệu qua mạng Internet, sử dụng máy quay phim, máy ảnh số, máy quét
Ở mức độ này, giáo viên mới chỉ có thể tạo được bài giảng ở mức cơ bản, chất lượng
trung bình. Chẳng hạn như họ không thể tự vẽ thêm một bức tranh, tự xây dựng một hình
ảnh động hoặc lập trình tạo ra một thí nghiệm mô phỏng, hoặc cũng không thể tự chỉnh
sửa được các tư liệu hình ảnh sau khi quét ảnh hoặc lấy về từ Internet cho đẹp hơn, biên
tập lại các đoạn phim, dịch thuyết minh các tư liệu của nước ngoài thành tiếng Việt, v.v
đặc biệt rất khó có thể tìm kiếm thu thập được những phim ảnh tư liệu quý hiếm. Tất cả
những việc này đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ, họa sĩ, kỹ thuật viên tin học chuyên
nghiệp thì mới đảm nhiệm tốt được.
Hiện nay, nhiều chuyên gia giáo dục đã cảnh báo tình trạng “lạm dụng CNTT”
khi các giáo viên tự xây dựng bài giảng. Do hạn chế về định hướng, công nghệ nên
giáo viên thường hay xây dựng những bài giảng mang nặng tính trình chiếu, ví dụ
như sử dụng Powerpoint “bắn” rất nhiều chữ ra màn hình và khi giảng bài thì gần
như đọc lại nội dung đó. Phương pháp này thậm chí sẽ làm cho học sinh giảm hiệu
quả tiếp thu khi phải đồng thời nghe giảng, vừa đọc chữ, chưa kể là còn bị cuốn hút
vào những hiệu ứng chữ chạy nhảy và âm thanh kèm theo.
Một trong những lý do của tình trạng trên là do các giáo viên chưa hiểu được
rằng: cách sử dụng hiệu quả của ứng dụng phần mềm dạy học là phải khai thác triệt
để các nội dung tư liệu, đặc biệt là các tư liệu multimedia (âm thanh, hình ảnh,
phim ). Một lý do quan trọng nữa là kể cả khi hiểu được như vậy thì cũng khó có
thể thực hiện, vì việc giáo viên đưa một đoạn văn bản vào phần mềm thì dễ, chứ nếu
tự vẽ hình, tự tạo ảnh động hay tìm kiếm tư liệu bên ngoài thì sẽ rất khó khăn.
Chính vì vậy, giáo viên nên sử dụng các công cụ tìm kiếm trên Internet tư liệu


như Google hay Yahoo, hoặc các truy cập các nguồn tư liệu phong phú như
Wikipedia, YouTube, đặc biệt là các nguồn tài nguyên phục vụ cho giáo dục và
19
đào tạo như Thư viện tư liệu giáo dục tại http://tulieu.edu.vn (cung cấp các tư liệu
giúp giáo viên sử dụng vào bài giảng) và Thư viện bài giảng điện tử tại
http://baigiang.edu.vn (cung cấp các bài giảng tham khảo có chất lượng để giáo viên
học tập và chia sẻ kinh nghiệm trong giảng dạy).
4. Biện pháp 4: Hướng dẫn sử dụng các phần mềm, tiện ích tiêu biểu phục vụ cho
công tác giảng dạy học và quản lý giáo dục
Học sử dụng máy vi tính thực chất là học cách sử dụng các phần mềm vi tính.
Có thể phân ra 2 loại là các phần mềm phổ thông (như soạn thảo văn bản, xử lý ảnh,
bảng tính, gõ tiếng Việt, các phần mềm gửi thư điện tử ) và các phần mềm chuyên
dụng, cụ thể đối với giáo viên đó là những phần mềm tạo bài giảng như Powerpoint,
Violet, tạo các hình ảnh mô phỏng để dạy học như Macromedia Flash, Swish, v.v
4.1. Các phần mềm phổ thông
Các phần mềm phổ thông là bắt buộc phải sử dụng thành thạo đối với cả mọi
người, từ cấp quản lý đến giáo viên trong nhà trường. Trong đó một số phần mềm
quan trọng có thể kể ra (chủ yếu nằm trong bộ phần mềm văn phòng Microsoft
Office)
Microsoft Word: Phần mềm soạn thảo văn bản, dùng để soạn công văn, báo
cáo, kế hoạch và tất cả các giấy tờ tài liệu khác. Các giáo viên có thể dùng để soạn
giáo án vừa có thể in ra để sử dụng, lưu trữ trên máy tính hoặc chia sẻ trên mạng
Internet.
Microsoft Excel: Phần mềm tạo bảng tính để xây dựng các kế hoạch, các chi
phí tài chính, hoặc lưu trữ và tính điểm của học sinh. Excel mạnh ở điểm là có thể
đưa vào những phương pháp tính toán, thống kê tùy ý một cách rất dễ dàng.
Microsoft Outlook: Phần mềm gửi nhận thư điện tử. Đã qua rồi thời kỳ mà các
đơn vị hoặc cá nhân trao đổi với nhau với nhau hoàn toàn bằng công văn giấy tờ
hoặc gọi điện thoại (thậm chí điện thoại đường dài) trong những công việc thường
ngày. Ngày nay thư điện tử đã được sử dụng chủ yếu, với những ưu điểm vượt trội


như rẻ tiền, thông tin nhanh chóng và đơn giản. Mỗi cá nhân sẽ có một địa chỉ thư
20
điện tử riêng. Microsoft Outlook là phần mềm hỗ trợ việc quản lý và gửi nhận thư
điện tử rất dễ dàng.
UniKey: Cài đặt phần mềm này, ta mới có thể gõ được tiếng Việt trong các văn
bản, thư tín, Ta có thể chọn kiểu gõ Telex hay VNI, có thể chọn mã chữ là Unicode
hay TCVN, Đặc biệt phần mềm có chức năng chuyển mã chữ rất tiện lợi, giúp có
thể đọc được những văn bản không dùng Unicode mà máy tính không có font chữ
tương ứng. Ví dụ trước đây các văn bản từ miền Bắc vào miền Nam hoặc ngược lại
thì đều không thể đọc được, vì miền Bắc dùng mã TCVN, còn miền Nam thì dùng
mã VNI.
Adobe Photoshop: Là phần mềm xử lý ảnh thông dụng nhất, với rất nhiều tính
năng từ nghiệp dư đến chuyên nghiệp đều có thể sử dụng được. Với những chức
năng cơ bản thì giáo viên và cán bộ quản lý cũng nên sử dụng được, vì nó hiện nay
dù làm bài giảng hay báo cáo, kế hoạch cũng ít nhiều sử dụng các tư liệu ảnh (ảnh
chụp hoặc hình vẽ).
4.2.Các phần mềm phục vụ cho giáo dục
Đối với giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, nên khuyến khích học và sử dụng
các phần mềm sau vì sẽ rất có ích trong việc xây dựng các bài giảng hỗ trợ cho việc
giảng dạy.
Microsoft PowerPoint: Phần mềm cho phép soạn các bài trình chiếu hấp dẫn
để làm bài giảng điện tử. PowerPoint có thể sử dụng được các tư liệu ảnh phim, cho
phép tạo được các hiệu ứng chuyển động khá hấp dẫn và chọn các mẫu giao diện
đẹp. Hiện nay, phần lớn các bài giảng điện của giáo viên ở Việt Nam đều sử dụng
phần mềm Powerpoint.
Phần mềm Violet: Dùng cho giáo viên có thể tự thiết kế và xây dựng được
những bài giảng điện tử sinh động, hấp dẫn, để trợ giúp cho các giờ dạy học trên lớp
(sử dụng với máy chiếu projector hoặc ti vi), hoặc để đưa lên mạng Internet. Tương
tự như Powerpoint nhưng Violet có nhiều điểm mạnh hơn như giao diện tiếng Việt,
dễ dùng, có những năng chuyên dụng cho bài giảng như tạo các loại bài tập, chức


21
năng thiết kế chuyên cho mỗi môn học, và đặc biệt là khả năng gắn kết được với các
phần mềm công cụ khác.
Macromedia Flash: Đây là phần mềm cho phép vẽ hình, tạo ra hình ảnh động,
các hiệu ứng chuyển động và biến đổi, lập trình tạo ra các hoạt động mô phỏng và
tương tác sinh động, hấp dẫn. Để sử dụng tốt Flash đòi trình độ người sử dụng cũng
phải ở mức khá và phải thực hành nhiều. Thông thường không dùng Flash để tạo cả
một bài giảng vì nó sẽ tốn khá nhiều công sức, mà chỉ dùng để tạo ra các tư liệu rồi
kết hợp với Violet hoặc Powerpoint để tạo thành một bài giảng hoàn chỉnh.
5. Biện pháp 5: Hướng dẫn Sử dụng Internet trong việc tìm kiếm các thông
tin trực tuyến
Chúng ta có thể tự xây dựng một kho tài nguyên dạy học với vài nghìn tư liệu,
nhưng như vậy liệu đã đủ chưa. Thực ra, việc đó giờ không còn là vấn đề cần lo lắng
vì Internet đã chính là một thư viện không lồ, là nơi lưu chứa tri thức của toàn nhân
loại với hàng tỷ tư liệu và các bài viết của mọi lĩnh vực, đặc biệt các thông tin trên đó
luôn được cập nhật từng ngày, từng giờ. Như vậy một vấn đề quan trọng và bắt buộc
đối với giáo viên trong việc ứng dụng CNTT trong dạy học là phải biết khai thác
nguồn tài nguyên phong phú trên Internet.
Có 2 phương pháp để khai thác các thông tin phục vụ cho việc giảng dạy như
sau:
5.1. Truy cập các thư viện tài nguyên trực tuyến
Thông thường hiện nay, các thư viện lớn đều được phát triển theo mô hình xã
hội, nội dung sẽ do chính người sử dụng cùng xây dựng lên với số lượng người tham
gia xây dựng lên đến hàng triệu người. Trên thế giới đã xuất hiện các thư viện nổi
tiếng như:
- Wikipedia.org (trang tiếng Việt là vi.wikipedia.org) là hệ thống bách khoa
toàn thư khổng lồ với đầy đủ tri thức nhân loại từ xưa đến nay, do hàng chục triệu
tình nguyện viên trên thế giới đóng góp xây dựng. Có thể tìm ở đây từ các kiến thức
khoa học phổ thông đến các nghiên cứu khoa học chuyên ngành, tìm hiểu về tiểu sử
những người nổi tiếng cho đến những vấn đề thời sự được cập nhật hàng ngày v.v


22
- http://Youtube.com, là trang web chia sẻ video lớn nhất thế giới, ở đây chúng
ta có thể dễ dàng tìm được những tư liệu phim phù hợp với mục đích dạy học. Ở Việt
Nam cũng có trang chia sẻ video riêng ở địa chỉ http://Clip.vn
- Thư viện tư liệu giáo dục http://tulieu.edu.vn là trang web chia sẻ các tư liệu
phim, ảnh, flash phục vụ cho giáo dục và đào tạo của người Việt Nam, hiện là trang
web chia sẻ tư liệu dạy học duy nhất ở Việt Nam với gần 60.000 mục tư liệu.
- Thư viện bài giảng điện tử: địa chỉ trang web là http://baigiang.edu.vn. Đây là
trang web cho phép giáo viên chia sẻ các bài giảng và giáo án của mình, đồng thời
tham khảo các bài giảng và giáo án của rất nhiều giáo viên khác trên cả nước. Hiện
tại trang web đã có trên 200.000 thành viên tham gia, với hàng triệu lượt truy cập
mỗi tháng, số lượng tài nguyên lên đến 50.000 bài giảng và giáo án.
- Thư viện giáo trình điện tử: địa chỉ http://ebook.edu.net.vn. Đây là trang web
tập hợp các giáo trình bậc đại học và chuyên ngành từ các dự án của Bộ GD&ĐT với
các trường Đại học lớn trên cả nước như Đại học Bách Khoa HN, ĐH Sư phạm HN,
Đại học Cần Thơ, Tuy nhiên đây không phải là trang web cộng đồng nên lượng
thông tin không lớn và không được cập nhật thường xuyên.
Thư viện tư liệu giáo dục và Thư viện bài giảng điện tử là các hệ thống mở,
không những giúp giáo viên có thể download các tư liệu dạy học và các bài giảng
mẫu mà còn cho phép giáo viên có thể đưa các tư liệu và bài giảng của mình lên để
chia sẻ với mọi người. Việc sử dụng các hệ thống mở như trên hiện nay đang là xu
hướng tất yếu của ngành CNTT, với những ưu điểm vượt trội là:
• Hoàn toàn miễn phí.
• Có hệ thống dữ liệu khổng lồ vì là do cộng đồng cùng xây dựng.
• Luôn được cập nhật thường xuyên, từng ngày, từng giờ.
• Các tư liệu cũng như bài giảng có chất lượng cao vì được chọn lọc và tổng
hợp từ nhiều nguồn khác nhau. Ngoài ra công ty Bạch Kim cũng luôn có một đội ngũ
kỹ thuật thường xuyên xây dựng các tư liệu mới và bài giảng mới theo yêu cầu của
• giáo viên các nơi để đưa lên Thư viện.
23


• Thư viện cũng là kênh kết nối các giáo viên trên cả nước, giúp mọi người
học hỏi và chia sẻ với nhau nhiều vấn đề trong công việc của mình.
Đây cũng là tư tưởng chủ đạo trong công văn số 9584/BGDĐT-CNTT của Bộ
GD&ĐT về việc Hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học 2007-2008 về CNTT và
phát động năm học 2008-2009 là năm CNTT. Vì vậy, mặc dù mới triển khai 2 hệ
thống này từ tháng 9/2007, nhưng đã nhận được sự hưởng ứng của rất đông giáo viên
trên cả nước (gần 40.000 người). Hiện hai hệ thống thư viện đã có hơn 40.000 mục
tư liệu và gần 8.000 bài giảng mẫu.
Trên thế giới cũng đã có những thư viện trực tuyến do cộng đồng phát triển đã rất
nổi tiếng như thư viện Bách khoa toàn thư Wikipedia.org, thư viện chia sẻ video trực
tuyến YouTube.com, thư viện mã nguồn CodeProject.com v.v Chính vì vậy, mô hình
“mở” chính là xu thế phát triển của tất cả các hệ thống công nghệ thông tin trong hiện
tại và tương lai gần.
5.2. Sử dụng các dịch vụ tìm kiếm như Google, Yahoo, Baamboo.
Có thể truy cập vào các trang web này qua các địa chỉ trang web tương ứng
http://google.com.vn
http://yahoo.com.vn
http://baamboo.com
Công cụ tìm kiếm trực tuyến là một trong những sản phẩm tuyệt vời nhất của
nền khoa học kỹ thuật hiện đại, nó quy tụ được tri thức nhân loại về một nơi. Có thể
nói chúng ta cần bất cứ thông tin gì thì các máy tìm kiếm này có cung cấp cho chúng
ta gần như ngay lập tức, từ hàng chục tỷ trang Web và nguồn tài nguyên khác nhau
trên mạng Internet.
Ví dụ: một người nước ngoài muốn tìm hiểu về phở Hà Nội, họ chỉ cần lên mạng,
vào công cụ tìm kiếm, gõ chữ “phở Hà Nội” là có thể hiện ra hàng trăm trang webside
về chủ đề này. Một người Hà Nội muốn có hình ảnh về chợ Bến Thành thì chẳng cần
phải vào tận thành phố Hồ Chí Minh để chụp ảnh mà chỉ cần vào mạng, sau vài thao tác
đơn giản là có thể tìm được hàng chục bức ảnh.
24
Công cụ tìm kiếm thu nhỏ kho kiến thức khổng lồ của nhân loại thành cuốn cẩm


nang đầu giường đối với mỗi con người hiện đại. Ngay cả đối với giáo viên thì cũng
nên coi như việc ngồi máy tính để soạn bài giảng, giáo án là phải kết nối Internet và
sử dụng công cụ tìm kiếm Internet thì mới có thể tạo ra những sản phẩm có chất
lượng được.
Các công cụ tìm kiếm thực chất đã làm thay đổi một phần của thế giới, con
người không cần phải nhồi nhét những kiến thức khoa học và đời sống để trở thành
những học giả uyên thâm, mà chỉ cần là người có tư duy tốt, nhạy bén, sáng tạo thì
mới phát huy được hiệu quả trong công việc và nâng cao chất lượng cuộc sống. Hiểu
được điều này, chúng ta sẽ thấy rõ hơn những vấn đề cần làm trong giáo dục hiện
nay, nhất là giáo dục phổ thông.
6. Biện pháp 6: Trao đổi chuyên môn, chia sẻ tài nguyên trên các mạng xã
hội
Kết nối mạng Internet, giáo viên không chỉ có thể tìm thấy ngay những kiến
thức, nhưng tài nguyên mình cần mà còn có thể chia sẻ, trao đổi thông tin với nhau.
Hình thức trao đổi, chia sẻ thông tin với nhau đơn giản nhất là phổ biến nhất hiện
nay là thông qua các diễn đàn (forum) trên mạng.
Diễn đàn lớn nhất Việt Nam về giáo dục là trang diễn đàn Mạng giáo dục của
Bộ GD&ĐT, địa chỉ http://edu.net.vn/forums, trong đó trao đổi về mọi vấn đề liên
quan đến giáo dục như giảng dạy, quản lý giáo dục, chống tiêu cực trong giáo dục,
các chính sách mới của Bộ GD&ĐT.
Diễn đàn giáo viên: địa chỉ http://diendan.bachkim.vn, là diễn đàn chuyên cho giáo
viên trao đổi với nhau về những kinh nghiệm dạy học, các kiến thức về ứng dụng CNTT
trong dạy học.
Một hình thức trao đổi, chia sẻ thông tin khác nữa trên Internet là tham gia các
mạng xã hội. Ở các mạng này, mỗi người có thể xây dựng các blog (có thể coi là
trang web riêng) cho mình. Tại các blog, giáo viên có thể chia sẻ các kinh nghiệm
trong dạy học và trong cuộc sống. Bạn bè đồng nghiệp có thể vào xem các blog của
25

Sáng kiến kinh nghiệm: Ứng dụng CNTT trong quản lý chỉ đạo hoạt động của nhà trường

Làm thế nào để ứng dụng CNTT hiệu quả trong công tác quản lý tại cơ sở giáo dục quả là một điều cần trăn trở. Với phạm vị sáng kiến cải tiến kỹ thuật này, đưa ra những việc làm cụ thể trong việc ứng dụng CNTT trong công tác quản lý tại trường TH số 2 Liên Thủy trong các năm học. » Xem thêm

Chủ đề:

Download

Xem online

Tóm tắt nội dung tài liệu

  1. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ỨNG DỤNG CNTT TRONG QUẢN LÝ CHỈ ĐẠO HOẠT ĐỘNG CỦA NHÀ TRƯỜNG
  2. PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn sáng kiến cải tiến kỹ thuật: Ngày nay, khi công nghệ thông tin (CNTT) càng phát triển thì việc phải ứng dụng CNTT vào tất cả các lĩnh vực là một điều tất yếu. Trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, CNTT bước đầu đã được ứng dụng trong công tác quản lý, nhiều đơn vị đã đưa tin học vào giảng dạy, học tập. Tuy nhiên, so với nhu cầu thực tiễn hiện nay, việc ứng dụng CNTT trong giáo dục ở một số trường học nước ta còn rất hạn chế. Chúng ta cần phải nhanh chóng nâng cao chất lượng, nghiệp vụ giảng dạy, nghiệp vụ quản lý, chúng ta không nên từ chối những gì có sẵn mà lĩnh vực CNTT mang lại, chúng ta nên biết cách tận dụng nó, biến nó thành công cụ hiệu quả cho công việc của mình, mục đích của mình. Hơn nữa, đối với giáo dục và đào tạo, CNTT có tác dụng mạnh mẽ, làm thay đổi nội dung, phương pháp dạy và học. CNTT là phương tiện để tiến tới “xã hội học tập”. Mặt khác, giáo dục và đào tạo đóng vai trò quan trọng thúc đẩy sự phát triển của CNTT thông qua việc cung cấp nguồn nhân lực cho CNTT. Bộ giáo dục và đào tạo cũng yêu cầu “đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong giáo dục đào tạo ở tất cả các cấp học, bậc học, ngành học theo hướng dẫn học CNTT như là một công cụ hỗ trợ đắc lực nhất cho đổi mới phương pháp dạy học ở các môn”. Thế giới bước vào kỷ nguyên mới nhờ tiến bộ nhanh chóng của việc ứng dụng CNTT vào tất cả các lĩnh vực: Sản xuất, thương mại, quốc phòng... Trong Giáo dục đào tạo, CNTT đã góp phần hiện đại hoá phương tiện, thiết bị dạy học, góp phần đổi mới phương pháp dạy học.( Thiết bị dạy học, không chỉ còn là thước kẻ, compa, bảng phụ... mà là máy tính, máy chiếu…) Đứng trước sự phát triển mạnh mẽ của CNTT và hiệu quả to lớn của nó. Nhà nước, Chính phủ và ngành giáo dục đã có các văn bản chỉ thị đối với việc ứng dụng CNTT vào sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá nói chung và phát triển ngành giáo dục nói riêng. Từ năm học 2008-2009 Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chọn việc ứng dụng CNTT trong quản lý và giảng dạy là chủ đề năm học cho toàn ngành giáo dục.
  3. Như vậy, việc hiểu biết và ứng dụng được CNTT đối với mỗi người nói chung và đối với mỗi giáo viên nói riêng là rất cần thiết và cấp bách. Đối với công tác quản lý việc ứng dụng CNTT là cần thiết hơn bao giờ hết. Với mục đích của việc ứng dụng CNTT vào nhà trường là sử dụng CNTT như một công cụ lao động trí tuệ, giúp lãnh đạo các nhà trường nâng cao chất lượng quản lí nhà trường; giúp các thầy giáo, cô giáo nâng cao chất lượng dạy học; trang bị cho học sinh kiến thức về CNTT, học sinh sử dụng máy tính như một công cụ học tập nhằm nâng cao chất lượng học tập; góp phần rèn luyện học sinh một số phẩm chất cần thiết của người lao động trong thời kì hiện đại hoá. Với ứng dụng CNTT trong nhà trường sẽ góp phần hiện đại hoá giáo dục và đào tạo, gắn với phát triển nguồn nhân lực CNTT, xác định là nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa rất lớn trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy, học tập và ứng dụng CNTT một cách hiệu quả trong công tác giáo dục của nhà trường theo tiêu chí mới của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Lãnh đạo nhà trường sử dụng CNTT để quản lí kế hoạch của các tổ chức đoàn thể, các tổ chuyên môn, lịch dạy học của giáo viên, soạn thảo và quản lí các văn bản chỉ đạo và báo cáo của nhà trường. Trong cuộc vận động “Mỗi thầy cô giáo là tấm gương về đạo đức tự học và sáng tạo” hiện nay, nhà quản lý giáo dục “nói cần đi đôi với làm”, nhà quản lý phải là người tiên phong trong việc ứng dụng CNTT. Hiệu quả quản lý sẽ thấp nếu người quản lý giáo dục chỉ hô hào, vận động giáo viên ứng dụng CNTT vào đổi mới phương pháp dạy học, trong khi nhà quản lý giáo dục lại không biết ứng dụng CNTT trong lĩnh vực quản lý của mình. Nhưng làm thế nào để ứng dụng CNTT hiệu quả trong công tác quản lý tại cơ sở giáo dục quả là một điều cần trăn trở. Với phạm vị sáng kiến cải tiến kỹ thuật này, tôi sẽ đưa ra một số ý kiến, kinh nghiệm của cá nhân mình, cũng như những việc làm cụ thể trong việc ứng dụng CNTT trong công tác quản lý tại trường TH số 2 Liên Thủy trong các năm học qua để cùng các bạn đồng nghiệp thảo luận tìm ra những giải pháp tốt hơn nữa trong công tác quản lý.
  4. 2. Điểm mới và sự cần thiết chọn SK CTKT: Với sáng kiến CTKT này chưa có ai nghiên cứu. Phạm vi nghiên cứu của sáng kiến này là về lĩnh vực CNTT. Với sáng kiến CTKT này nhằm giải quyết vấn đề đưa CNTT vào nhà trường góp phần thực hiện kế hoạch đẩy mạnh CNTT giai đoạn 2011 – 2015. Hiện nay không chỉ ngành giáo dục mà ở tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật đều triển khai, áp dụng rộng rãi mô hình quản lý và triển khai hiệu quả công việc bằng Email điện tử và đăng tải công khai thông tin trên website. Đối với đơn vị nhà trường rất cần thiết áp dụng việc ứng dụng CNTT vào hoạt động dạy học, sử dụng hộp thư điện tử thông qua trang thông tin điện tử của nhà trường để triển khai nhiệm vụ công tác hàng tuần, hàng tháng đến các tổ chức đoàn thể, các bộ phận, các tổ trưởng chuyên môn của nhà trường, và tới toàn thể cán bộ giáo viên, nhân viên nhà trường. Đối với cán bộ giáo viên và nhân viên rất cần thiết sử dụng hộp thư điện tử, website để cập nhật thông tin từ các cấp quản lý; Cập nhật kế hoạch chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ công tác từ phía lãnh đạo nhà trường, các bộ phận, tổ có liên quan. 3. Mục đích nghiên cứu: Nhằm giúp đỡ cán bộ giáo viên nhà trường làm việc nhanh, hiệu quả trong công tác thực hiện nhiệm vụ giáo dục, cũng như công tác giảng dạy. Tạo điều kiện cho cán bộ giáo viên có cơ hội giao lưu trao đổi kinh nghiệm trong công tác, cũng như kinh nghiệm trong cuộc sống hàng ngày. Rèn luyện cho cán bộ giáo viên có kỹ năng trong công tác truy cập Internet để tìm kiếm thông tin, cũng như tìm kiếm các tư liệu phục vụ nhiệm vụ công tác giáo dục, công tác giảng dạy bộ môn. Rèn luyện cho bản thân không ngừng học tập nâng cao trình độ, kinh nghiệm trong công tác khai thác, ứng dụng và sử dụng công nghệ thông tin. Trong quá trình nghiên cứu, người nghiên cứu sẽ hiểu rõ hơn về CNTT, từ đó vận dụng vào giảng dạy hiệu quả hơn. Xác định ý nghĩa và tầm quan trọng của việc
  5. ứng dụng CNTT vào giảng dạy. Đề xuất một số giải pháp nhằm đáp ứng tốt việc ứng dụng CNTT trong quản lý và dạy học đạt kết quả cao. 4. Đối tượng nghiên cứu: Là cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên trong đơn vị nhà trường. Nghiên cứu hệ thống Email điện tử được cấp từ hệ thống Email có tên miền của Phòng, của Sở và của Bộ Giáo dục Đào tạo. Nghiên cứu hệ thống Website của trường và hộp thư điện tử của cán bộ, giáo viên và nhân viên từ hệ thống Email có tên miền: thso2lienthuy.edu.vn 5. Phạm vi áp dụng của sáng kiến CTKT: Tại trường Tiểu học số 2 Liên Thủy thuộc phòng Giáo dục và Đào tạo Lệ Thủy. 6. Kế hoạch nghiên cứu: Thời gian nghiên cứu áp dụng trong vòng 03 năm. Bắt đầu từ năm học 2010 - 2011 tại trường Tiểu học số 2 Liên Thủy. Năm học 2011 - 2012 triển khai rộng rãi đến toàn thể cán bộ giáo viên hệ thống trang thông tin điện tử của trường với tên miền: thso2lienthuy.edu.vn. PHẦN II: NỘI DUNG 1. Thực trạng: Do sự nhận thức của một bộ phận CB, GV và NV còn hạn chế về vai trò của CNTT nên ngại áp dụng, không vượt qua được những khó khăn bước đầu. Một số cán bộ, giáo viên, nhân viên nhà trường chỉ thấy mặt trái của CNTT, thấy một số hiện tượng tiêu cực của giới trẻ trong xã hội là đổ lỗi cho CNTT. Suy nghĩ rằng việc ứng dụng CNTT trong nhà trường là không thể, bởi với đồng lương nhà giáo thì không biết lúc nào mua được máy tính, không biết khi nào trường có máy chiếu và các cơ sở hạ tầng CNTT khác. Việc ứng dụng CNTT vào quản lý còn phụ thuộc nhiều vào “ý thích” của cán bộ quản lý, của một số giáo viên, chưa có sự chỉ đạo mang tính pháp lý cùng với sự hỗ trợ thích hợp về cơ sở vật chất,...của các cấp quản lý.
  6. Trong những năm học trước tại Trường TH số 2 Liên Thủy, nhất là từ năm học 2008 – 2009 trở về trước, khi việc ứng dụng CNTT vào quản lý nhà trường còn rất ít, chủ yếu là dùng máy tính soạn thảo một số văn bản, in ấn tài liệu. Nhiều công việc khác như tra cứu văn bản; soạn thảo văn bản, kế hoạch hàng tuần, hàng tháng; thống kê, tổng hợp báo cáo; phải làm thủ công nên mất nhiều thời gian và nhân lực nhưng đôi khi kết quả vẫn có sự nhầm lẫn ngoài mong muốn. Thực tế khi không ứng dụng CNTT vào quản lý tôi thấy ở trường TH số 2 Liên Thủy có những hạn chế như sau: Việc tra cứu văn bản, nhất là các văn bản, các kế hoạch ban hành cách đây đã lâu thì việc tìm các văn bản này trong tập hồ sơ lưu trữ là một vấn đề không đơn giản, phải mất khá nhiều thời gian nếu cần ngay các văn bản này để giải quyết công việc thì không thể đáp ứng được. Để phục vụ thống kê báo cáo phải huy động một lực lượng lớn CBGV, CNV ở nhiều bộ phận khác nhau. Đơn cử như báo cáo chất lượng giảng dạy của giáo viên thì phải huy động hết giáo viên trong trường, các tổ trưởng chuyên môn, bộ phận văn phòng để tổng hợp, lãnh đạo phải kiểm tra lại thông tin báo cáo. Nếu các báo cáo này cần phân loại theo giới tính, lớp, môn…thì còn đòi hỏi nhân lực và thời gian nhiều hơn. Tuy số lượng tham gia đông, thời gian nhiều, nhưng nhiều khi số liệu lại không khớp giữa các môn, các khối làm ảnh hưởng đến tổng hợp báo cáo của toàn trường thiếu độ chính xác. Công tác thống kê kế hoạch đầu năm học, thống kê chất lượng giữa kỳ, cuối năm việc so sánh chất lượng học tập và giảng dạy giữa các lớp, giữa các giáo viên , giữa các năm học không thể thực hiện được, việc đánh giá mang nặng cảm tính, đánh giá chung chung nên khó có thể có các quyết định quản lý để điều chỉnh mang tính kịp thời, thuyết phục. Là một trường mới đưa dạy học Tin học cho học sinh bắt đầu từ năm học 2009 -2010, với 6 lớp gồm 153 học sinh lớp 3, 4 và 5. Chính vì thế mà điều kiện được tiếp xúc với CNTT của các em học sinh không những mới mẽ mà còn rất hạn chế. Đội ngũ giáo viên: Đa số là giáo viên có tuổi đời cao nên trình độ Tin học, kỹ năng sử dụng máy tính và các phương tiện hỗ trợ còn hạn chế, kết quả thống kê tháng 9/2009: Tổng số CB, GV, NV: 17 đồng chí ( Không tính GVHĐ ); Trong đó số
  7. CB,GV, NV có chứng chỉ A và B: 9 đạt tỷ lệ 52,9% ( A = 1; B = 8 ); Mặc dù đã có chứng chỉ nhưng kỹ năng sử dụng máy vẫn rất hạn chế do không thường xuyên rèn luyện, không tranh thủ thời gian để học tập nâng cao tay nghề, hoặc do điều kiện không có máy để rèn luyện. Một số người sử dụng máy do thiếu kiến thức bảo quản máy nên chất lượng máy tính và các thiết bị nhanh xuống cấp, hư hỏng ảnh hưởng đến quá trình sử dụng. Tại thời điểm tháng 9 năm 2009 số lượng giáo viên soạn bài trên máy chưa có, việc sử dụng thiết bị dạy học có liên quan như máy chiếu đa năng, máy chiếu hắt chỉ đầu tư vào một số tiết phục vụ thao giảng hoặc kiểm tra toàn diện ở trường. Cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho dạy học, đặc biệt là phục vụ cho việc dạy tin học và ứng dụng CNTT của nhà trường còn nhiều hạn chế: Năm học 2009 – 2010 toàn trường chỉ có 9 máy vi tính, trong đó Hiệu trưởng 1 máy; Kế toán văn phòng 1 máy; Chuyên môn và các hoạt động khác 1 máy, phòng Tin học 6 máy. Với một thực trạng như thế việc đưa CNTT vào công tác quản lý nhà trường không chỉ là một nhu cầu tất yếu mà còn bảo đảm sự tồn tại và phát triển của nhà trường trước yêu cầu và nhiệm vụ mới của giáo dục và đào tạo. 2. Các biện pháp, giải pháp thực hiện: 2.1 Nâng cao nhận thức cho cán bộ giáo viên: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền cho mọi cán bộ, giáo viên và nhân viên thấy rõ hiệu quả và yêu cầu mang tính tất yếu của ứng dụng CNTT trong đổi mới phương pháp giảng dạy thông qua việc triển khai các văn bản chỉ đạo của Bộ, ngành về ứng dụng CNTT trong dạy học; thông qua các buổi sinh hoạt chuyên môn tổ khối, hội thảo chuyên đề; thông qua dự giờ thăm lớp và qua việc triển khai các cuộc thi kỹ năng sử dụng vi tính các tiết dạy có ứng dụng CNTT do trường tổ chức. Phát động sâu rộng phong trào sử dụng CNTT trong dạy học và đề ra chỉ tiêu cụ thể về số tiết dạy học có ứng dụng CNTT đối với mỗi giáo viên để chính họ có kế hoạch bồi dưỡng, tự bồi dưỡng nhằm nâng cao hiệu quả của việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy, đặc biệt là đối với đổi mới phương pháp dạy học trong giai đoạn hiện nay.
  8. 2.2- Nâng cao trình độ Tin học cho đội ngũ Nhà trường, Công đoàn làm tốt công tác động viên CB, GV và NV tham gia các lớp học tập để có chứng chỉ Tin học do các Trung tâm dạy nghề mở, đây vừa là yêu cầu nâng cao trình độ vừa đáp ứng việc đẩy mạnh CNTT trong nhà trường. Nhà trường bố trí giáo viên Tin học sắp xếp thời gian bồi dưỡng cho giáo viên kỹ năng sử dụng máy và một số thao tác soạn thảo văn bản tạo điều kiện cho giáo viên học tập nâng cao trình độ Tin học, đồng thời bố trí sắp xếp để mọi cán bộ giáo viên được tham gia đầy đủ các lớp tập huấn, bồi dưỡng CNTT do nhà trường tổ chức. Bố trí sắp xếp và đầu tư trang thiết bị tin học, phòng máy tính, kết nối mạng Internet để cán bộ giáo viên có điều kiện truy cập, khai thác sử dụng Internet tìm kiếm thông tin, tư liệu giảng dạy thông qua website Sở, phòng, Bộ GD&ĐT và các đơn vị bạn. 2.3- Bồi dưỡng kỹ năng ứng dụng CNTT Muốn ứng dụng CNTT vào giảng dạy hiệu quả thì ngoài những hiểu biết căn bản về nguyên lý hoạt động của máy tính và các phương tiện hỗ trợ, đòi hỏi giáo viên cần phải có kỹ năng thành thạo (thực tế cho thấy nhiều người có chứng chỉ hoặc bằng cấp cao về Tin học nhưng nếu ít sử dụng thì kỹ năng sẽ mai một, ngược lại chỉ với chứng chỉ A –Tin học văn phòng nhưng nếu bạn chịu khó học hỏi, thực hành thì việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy sẽ chẳng mấy khó khăn). Nhận thức được điều đó, nhà trường cần chú trọng bồi dưỡng kỹ năng ứng dụng CNTT cho giáo viên thông qua nhiều hoạt động, như: - Tổ chức các lớp bồi dưỡng kỹ năng sử dụng máy tính và sử dụng các phần mềm soạn giảng, hướng dẫn hàng ngày lấy thông tin từ các trang website, các bước soạn một bài trình chiếu, các phần mềm thông dụng, cách chuyển đổi các loại phông chữ, cách sử dụng một số phương tiện như máy chiếu, chụp ảnh, cách thiết kế đề kiểm tra,... - Tổ chức sinh hoạt chuyên môn, chuyên đề để trao đổi về kinh nghiệm ứng dụng CNTT trong giảng dạy.
  9. - Định hướng cho giáo viên luôn có ý thức sưu tầm tài liệu hướng dẫn ứng dụng CNTT hiệu quả, bộ phận chuyên môn nghiên cứu chọn lọc photo phát cho giáo viên (bằng cách làm này nhà trường sẽ có nhiều tài liệu hay, dễ dàng cho giáo viên sử dụng như: tài liệu hướng dẫn soạn giáo án powerpoint, hướng dẫn sử dụng máy chiếu, hướng dẫn thiết kế bài giảng điện tử,...) - Động viên giáo viên tích cực tự học tập, khiêm tốn học hỏi, sẵn sàng chia sẻ, luôn cầu thị tiến bộ, thường xuyên trao đổi với đồng nghiệp; lãnh đạo nhà trường phải là bộ phận kết nối, là trung tâm tạo ra một môi trường học hỏi chuyên môn tích cực. - Tích cực tham gia các cuộc thi ứng dụng CNTT do các cấp tổ chức. Bởi vì khi tham gia bất cứ cuộc thi nào yêu cầu sản phẩm cũng đòi hỏi người tham gia cuộc thi phải có sự đầu tư nhiều hơn về thời gian, công sức, chất xám và cả việc phải học hỏi ở những người giỏi hơn. Như vậy, vô hình chung cả việc rèn kỹ năng, tự học và học hỏi đồng nghiệp đều được đẩy mạnh. Để làm được điều đó, BGH đặc biệt là các phó hiệu trưởng, các tổ trưởng chuyên môn phải luôn quan tâm sâu sát, đi đầu gương mẫu, cùng học hỏi- cùng làm với giáo viên thì mới hiểu được họ yếu ở điểm nào, gặp khó khăn ở khâu nào, cần giúp đỡ gì? Nói đi đôi với làm luôn được coi là biện pháp hữu hiệu nhất để thúc đẩy phong trào phát triển. Phát huy khả năng chính đội ngũ và nhà trường là tự chủ động sử dụng và khai thác websile của nhà trường, Phòng GD&ĐT đặc biết hộp thư nội bộ của cán bộ, giáo viên và nhân viên tại địa chỉ http://thso2lienthuy.edu.vn - Tham gia sử dụng “nguồn học liệu mở” về đề thi, giáo án, tài liệu tham khảo, tài nguyên dùng chung trên websile Sở, phòng và các đơn vị bạn. - Đẩy mạnh việc khai thác tài nguyên trên mạng Internet phục vụ công tác quản lý và giảng dạy của CBGV thông qua bồi dưỡng, tập huấn, cung cấp địa chỉ hoặc mở liên kết với trang web của trường. - Tăng cường việc khai thác sử dụng hệ thống thư điện tử để tăng tiện ích, hiệu quả trong trao đổi cập nhật thông tin. Yêu cầu mỗi cán bộ giáo viên lập và đăng ký một địa chỉ mail cố định với nhà trường. Để việc tham gia có chất lượng, nhà trường
  10. cần lên kế hoạch cụ thể từ khâu chọn cử giáo viên, tổ chức tập huấn, trao đổi kinh nghiệm, động viên tạo điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị cho giáo viên. 2.4- Xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật CNTT Xây dựng 1 phòng học tin học từ 6 máy ( năm học 2009 – 2010 ) lên 21 máy ( năm học 2012 – 2013 ), 02 máy chiếu đa năng, 1 máy chiếu hắt. Xây dựng hệ thống mạng nội bộ do nhà trường hợp đồng lắp đặt (Mạng Lan) , thiết lập 01 máy chủ kết nối 32 máy tính trong toàn trường. Thiết lập 01 trang Web nội bộ, bố trí WiLess (Kết nối mạng không dây) đặt tại phòng Hiệu trưởng nhà trường , ở bất kỳ vị trí nào trong khu vực nhà trường CB, GV, NV cũng có thể truy cập Internet miễn phí. Tại lớp học khi thực hiện các tiết dạy có hỗ trợ CNTT giáo viên có thể liên kết đến các trang Website để phục vụ tốt cho bài giảng. Khuyến khích CBGV mua máy vi tính, kết nối Internet. Kết quả đến tháng 4/2013 toàn trường có 22/24 CB, GV, NV có máy vi tính, máy in; có 20 CB, GV, NV kết nối Internet. 2.5- Xây dựng kế hoạch đẩy mạnh ứng dụng CNTT giai đoạn 2011 – 2015 và quy chế hoạt động của trang thông tin điện tử của trường ( có kế hoạch và quy chế cụ thể, trong phạm vi sáng kiến này bản thân tôi chỉ trao đổi một số nội dung cần thiết ): Mục tiêu tổng quát của kế hoạch đẩy mạnh CNTT giai đoạn 2011 – 2015: Tiếp tục đẩy mạnh CNTT vào quản lý nhà trường và phục vụ công tác dạy học đáp ứng nhu cầu đổi mới giáo dục đào tạo. Trong 5 năm tới, CNTT của nhà trường phải được phát triển cả về số lượng và chất lượng, phát triển mạnh các ứng dụng nhằm đưa CNTT thực sự là công cụ chủ yếu giúp nhà trường cải cách hành chính, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; hiện đại hóa các khâu, các công việc quản lý, dạy học; góp phần đưa nhà trường hội nhập sâu rộng và vận dụng được mọi tiến bộ của nền giáo dục hiện đại vào sự nghiệp của Ngành nói chung, nhà trường nói riêng, giúp toàn ngành vượt lên, tiếp cận, đuổi kịp và vượt chất lượng của nền giáo dục và đạo tạo các đơn vi các tỉnh có nền giáo dục phát triển trong khu vực miền Trung và cả nước. Để phát huy hiệu quả Website trong chỉ đạo mọi hoạt động của trường góp phần đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong quản lý chỉ đạo, nhà trường đã quy định cụ thể cho các tổ chức đoàn thể, cá nhân trong khai thác sử dụng trang thông tin điện tử như
  11. việc gửi đăng kế hoạch tuần, tháng, kỳ; Việc tuy cập thông tin thực hiện tối thiểu 2 lần/ngày.v.v.v. 3. Kết quả đạt được: Về phía đội ngũ: Nâng cao nhận thức về tin học và ứng dụng CNTT trong nhà trường cho cán bộ, giáo viên và nhân viên. Đến nay 100% CB, GV, NV đã có trình độ Tin học từ chứng chỉ A trở lên, đặc biệt 100% giáo viên đều soạn bài bằng máy tính. 100% CB, GV và NV đều sử dụng thành thạo hộp thư nội bộ để chia sẽ và trao đổi kinh nghiệm cho nhau; Trên 50% giáo viên soạn bài bằng giáo án điện tử, trong dự giờ thao giảng 100% giáo viên đều sử dụng CNTT. 100% gia đình CB, GV & NV đều có máy tính có nối mạng ( 50% máy xách tay ). Về phía nhà trường: Điều kiện CSVC không ngừng được đầu tư và tăng trưởng, đến nay toàn trường có: 32 máy tính, trong đó có 5 máy xách tay, toàn bộ đều được nối mạng. Phòng máy có 21 máy, 2 máy chiếu đa năng và 1 máy chiếu hắt.v.v.v Đến nay việc thực hiện kế hoạch đẩy mạnh CNTT giai đoạn 2011 – 2015 cơ bản hoàn thành giai đoạn 1. Hoạt động trang thông tin điện tử của trường: Công tác thông tin chỉ đạo của nhà trường đều thông qua website của trường đã trở thành nền nếp, do vậy thời gian dành cho hội họp giảm nhiều tiết kiệm được quỹ thời gian cho việc làm chuyên môn và tổ chức các hoạt động khác. Đến nay số lượt người truy cập gần 100 000 lượt, bình quân hàng ngày có trên 150 người truy cập. Về tính thân thiện mà CNTT đã mang lại cho nhà trường: CNTT tạo môi trường làm việc khoa học, vui vẻ, phấn khởi trong nhà trường (xử lý công việc nhanh , chính xác) CNTT giúp cán bộ quản lý, cán bộ giáo viên (CBGV) trường TH số 2 Liên Thủy giảm được sức ép về công việc, chia sẽ thông tin (Hỗ trợ giờ dạy , Thống kê phổ cập , , xử lý các loại báo cáo , quản lý chất lượng , hỗ trợ tự học, học ngoại ngữ vv…) CNTT mang đến cho giáo viên và học sinh sân chơi trí tuệ, tăng tính tích cực khả năng tự học cho học sinh (Trong mỗi giờ học ; câu lạc bộ văn học , học Tiếng Anh qua mạng Internet , giải toán trên mạng Internet …)
  12. CNTT giúp CBGV , học sinh tự hào về trường về quê hương (Như có trang website của trường, các giờ dạy có hỗ trợ CNTT, hệ thống Email nội bộ , truyền thống quê hương , gương người tốt việc tốt được đưa lên, tự hào về cơ sở hạ tầng kỹ thuật CNTT của trường). Đối với cán bộ quản lý: (Ngoài các nội dung thân thiện trên còn có thêm) CNTT giúp CBQL có cái nhìn tổng quát, có tầm nhìn, học hỏi được nhiều, làm việc khoa học. CNTT giúp người quản lý thấy được nhiều sự việc thông qua việc phân tích, xử lý số liệu kết hợp cùng quan sát thực tiễn, nhờ vậy đánh giá chính xác, công bằng các việc làm của giáo viên và học sinh từ đó thúc đẩy nhà trường phát triển trong thế ổn định. PHẦN III: KẾT LUẬN 1. Những kết luận và bài học kinh nghiệm: Để ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý các hoạt động giáo dục, bản thân người quản lý phải có một số vốn kỹ năng về vi tính giúp cho việc soạn thảo, lấy tư liệu, hoặc thiết kế được dễ dàng. Việc ứng dụng CNTT vào công tác quản lý và giảng dạy ban đầu là một bài toán khó với các nhà quản lý, nhưng qua một thời gian không dài, kết quả đã cho thấy hiệu quả tích cực khi CNTT mang lại cho cả đội ngũ thầy và trò không gian mới nhiều hứng thú trong lớp học. Với sự hỗ trợ của máy tính và một số phần mềm dạy học cùng các thiết bị đi kèm, giáo viên có thể tổ chức tiết học một cách sinh động, các bài giảng không chỉ mang hơi thở cuộc sống hiện đại gần gũi hơn với học sinh mà còn giúp cả người dạy và người học được tiếp xúc với các phương tiện hiện đại, làm giàu thêm vốn kinh ngiệm hiểu biết của mình. Tuy nhiên, nhà trường cũng xác định rõ: Việc ứng dụng CNTT không đồng nhất với đổi mới phương pháp dạy học, CNTT chỉ là phương tiện tạo thuận lợi cho triển khai tích cực hiệu quả công việc chứ không phải là điều kiện đủ của đổi mới phương pháp làm việc. Không lạm dụng công nghệ nếu chúng không tác động tích cực đến quá trình công tác giáo dục. Để đội ngũ đạt chuẩn về trình độ, kỹ năng sử
  13. dụng tin học, mạng Internet thì điều kiện tiên quyết là việc khai thác CNTT phải đảm bảo các yêu cầu phục vụ thiết thực, sát đáng trong công việc, không lạm dụng quá vào công việc khác như vui chơi, giải trí, lang thang, du ngoạn trên mạng. 2. Đề xuất – Kiến nghị Việc ứng dụng CNTT vào công tác giáo dục đòi hỏi rất nhiều điều kiện về cơ sở vật chất, tài chính và năng lực của đội ngũ giáo viên. Do đó, để đẩy mạnh việc ứng dụng và phát triển CNTT trong thực hiện nhiệm vụ giáo dục có hiệu quả, cần có sự quan tâm đầu tư về cơ sở vật chất của các cấp, sự chỉ đạo đồng bộ của ngành, của mỗi nhà trường và đặc biệt là sự nỗ lực học hỏi, rút kinh nghiệm của bản thân mỗi cán bộ giáo viên trong công tác này. Trên đây là những kinh nghiện của bản thân tôi đúc rút được trong quá trình chỉ đạo ứng dụng CNTT vào công tác quản lý nhà trường. Những kinh nghiệm này còn mang tính cá nhân, chủ quan của bản thân. Tôi rất mong được sự góp ý của lãnh đạo cấp trên, sự trao đổi của đồng nghiệp để các kinh nghiệm này được hoàn chỉnh hơn, áp dụng được rộng rải hơn. /.
  14. MỤC LỤC Mục Nội dung Trang PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU 1 Lý do chọn sáng kiến cải tiến kỹ thuật 1-2 2 Điểm mới và sự cần thiết chọn SK CTKT 3 Mục đích nghiên cứu 4 Đối tượng nghiên cứu 3-4 5 Phạm vi áp dụng của sáng kiến CTKT 6 Kế hoạch nghiên cứu PHẦN II: PHẦN NỘI DUNG 1 Thực trạng 4-6 2 Các biện pháp, giải pháp thực hiện 6 2.1 Nâng cao nhận thức cho cán bộ giáo viên: 6 2.2 Nâng cao trình độ Tin học cho đội ngũ 6 2.3 Bồi dưỡng kỹ năng ứng dụng CNTT 7-8 2.4 Xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật CNTT 8 2.5 Xây dựng kế hoạch đẩy mạnh ứng dụng CNTT giai đoạn 2011 9 – 2015 và quy chế hoạt động của trang thông tin điện tử của trường 3 Kết quả đạt được 9 - 10 PHẦN III: KẾT LUẬN 1 Những kết luận và bài học kinh nghiệm 11 2 Đề xuất – Kiến nghị 11 - 12 MỤC LỤC 13

1. Tiền đề của sáng kiến ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học

Trong thời đại 4.0, công nghệ thông tin (CNTT) đã trở thành một phần thiết yếu của cuộc sống. Nó có thể được ứng dụng vào hầu hết các lĩnh vực, mang đến nhiều lợi ích quan trọng. Công nghệ thông tin giúp con người làm việc dễ dàng hơn, và nhanh chóng đạt được mục đích như mong muốn.

Với công nghệ thông tin phát triển như vũ bão trên khắp thế giới, ứng dụng công nghệ được xem là tất yếu và trở thành cuộc chạy đua của nhân loại.

sáng kiến kinh nghiệm ứng dụng cntt trong dạy học

Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học mang tính tất yếu

Cuộc cách mạng khoa học công nghệ được xem là tiền đề của các sáng kiến ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực dạy học. Việc ứng dụng CNTT trong dạy học giúp nền giáo dục có nhiều bước phát triển đột phá. Tại Việt Nam, công tác này rất được chú trọng đầu tư, phát triển.

Sáng kiến kinh nghiệm skkn ứng dụng cntt vào giảng dạy môn tự nhiên xã hội ở lớp 3

  • doc
  • 15 trang

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỀ TÀI:
“ỨNG DỤNG CNTT TRONG VIỆC GIẢNG DẠY MÔN TNXH
LỚP 3”

Sang thế kỉ 21, sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin (CNTT) có tác động to
lớn tới hệ thống Giáo dục - Đào tạo của mỗi quốc gia. Chiến lược phát triển giáo dục Việt
Nam giai đoạn 2001 - 2010 đã nhấn mạnh: "Các ứng dụng CNTT sẽ trở thành thiết bị
dạy học chủ đạo trong giảng dạy”. Một trong những ứng dụng CNTT quan trọng đó là
phần mềm dạy học.
Trong thời đại xã hội phát triển với tốc độ chóng mặt như hiện nay, việc dạy học
không chỉ hạn chế trong các giờ học tại nhà trường mà có thể học tập dưới sự hướng dẫn
trực tiếp của giáo viên (GV) hoặc tự học tập tại nhà qua hệ thống Internet.
Như vậy, việc sử dụng PMDH làm phương tiện dạy học các môn học, giúp cho việc
học tập của HS như là một công cụ hỗ trợ cho việc dạy và học nhằm góp phần rèn luyện
kỹ năng tư duy sáng tạo, kỹ năng giao tiếp, độc lập giải quyết các vấn đề, kỹ năng tìm
kiếm và xử lý thông tin nhằm góp phần củng cố tư tưởng học suốt đời cho tất cả mọi
người. Phát triển rộng rãi việc ứng dụng CNTT trong nhiều môn học, mọi trường học,
mọi cấp học và mọi ngành học thông qua các loại PM khác nhau ( PMDH, tự học, PM
kiểm tra đánh giá...) dẫn đến việc xây dựng nội dung và phương pháp đào tạo thích hợp,
phát triển việc kiểm tra đánh giá trong một môi trường giàu thông tin.
Là một giáo viên tốt nghiệp chuyên ngành Tiểu học, với nhiều năm gắn bó với môi
trường sư phạm. Tác giả đã không ngừng học tập, nghiên cứu để theo kịp thời đại CNTT
và nâng cao chất lượng dạy học. Việc sử dụng các phần mềm để thiết kế bài giảng đã
giúp tác giả có những kết quả khả quan trong giảng dạy của giáo viên và học tập của học
sinh, đặc biệt là việc soạn giáo án điện tử cho những tiết dạy TNXH ở lớp 3. Đó chính là
lý do tác giả chọn và nghiên cứu đề tài “Ứng dụng CNTT trong việc giảng dạy môn
TNXH lớp 3”.

CHƯƠNG 1:CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ
1. Một số khái niệm cơ bản .
b) Môn Tự nhiên xã hội:
- TNXH là môn học nhằm giúp các en có được những kiến thức cơ bản ban đầu
về.:
+Con người và sức
+Một số sự vật, hiện tượng đơn giản trong tự nhiên và xã hội.
- Bước đầu hình thành và phát triển những kĩ năng:
+ Tự chăm sóc sức khỏe bản thân; ứng xử hợp lí trong đời sống để phòng chống
một số bệnh tật và tai nạn.
+ Quan sát, nhận xét, nêu thắc mắc, đặt câu hỏi, biết cách diễn đạt những hiểu biết
của mình về các sự vật và hiện tượng đơn giản trong tự nhiên và xã hội.
- Hình thành và phát triển những thái độ và hành vi:
+ Có ý thức thực hiện các quy tắc giữ vệ sinh, an toàn cho bản thân, gia đình và
cộng đồng.
+ Yêu thiên nhiên, gia đình, trường học, quê hương.
b) MicroSoft PowerPoint:
- Là công cụ tạo bài trình chiếu giúp học sinh quan sát và dễ dàng nhận biết, tiếp thu
bài học nhanh hơn, hiểu được những điều mà giáo viên truyền đạt.
c)Phần mềm Violet:
- VIOLET là phần mềm công cụ giúp cho giáo viên có thể tự xây dựng được các
bài giảng điện tử theo ý tưởng của mình một cách nhanh chóng. So với các phần mềm
khác, Violet chú trọng hơn trong việc tạo ra các bài giảng có âm thanh, hình ảnh, chuyển
động và tương tác... rất phù hợp với học sinh cấp phổ thông các cấp.
- Bài tập trắc nghiệm, ghép đôi, bài tập ô chữ, bài tập kéo thả chữ, điền khuyết, vẽ
đồ thị hàm số bất kỳ v.v... •Nhiều giao diện khác nhau
2. Mục tiêu của đề tài.

- Mục tiêu chính nhất của đề tài là hỗ trợ trực tiếp cho các nhà trường Tiểu học
trong việc giảng dạy môn TNXH theo sách giáo khoa có được những kinh nghiệm trong
việc thiết kế và ứng dụng CNTT vào giảng dạy.

- Tất cả các bài soạn trên giáo án điện tử thiết kế để được sử dụng thay thế cho sách
TNXH và được sử dụng trên lớp như những bài giảng điện tử hoàn chỉnh dành cho giáo
viên giảng dạy trên lớp cũng như cha mẹ học sinh dùng tại gia đình.
a)Yêu cầu của một bài giảng điện tử
- Giáo án điện tử: phải đảm bảo chuẩn kiến thức của môn TNXH lớp 3. Giáo án
điện tử dễ sử dụng và có giao diện đẹp mắt, hình ảnh minh hoạ chính xác và sinh động.
PM có thể hiển thị thông tin dưới dạng văn bản, ký hiệu, đồ thị, bản đồ, hình vẽ, ảnh
chụp, đoạn phim,.... Với các hình thức hoạt động đơn giản như bấm phím, di chuyển và
kích chuột... để lựa chọn và ra các lệnh theo chủ định, HS sẽ rất hứng thú khi thấy yêu
cầu của mình đề ra được thực hiện liền ngay tức thời, điều này có tác dụng kích thích
hứng thú rất mạnh mẽ trong hoạt động tự học. Những hình ảnh đẹp, rõ ràng, nhiều màu
sắc sinh động, kèm theo các đoạn văn bản, giọng nói nhạc đệm... tác động đồng thời hoặc
kế tiếp nhau lên các giác quan giúp cho HS tự thao tác tay làm, mắt thấy, tai nghe, trí óc
suy nghĩ... trong khi học và luyện tập, nhờ đó dễ dàng hiểu rõ, nắm vững kiến thức . PM
cho phép giáo viên lựa chọn các tài liệu trực quan cần cho từng phần của bài học và sử
dụng chúng rất thuận tiện trong giảng dạy.
b) đối tượng vận dụng.
Giáo viên: Giáo viên phải chuẩn bị kỹ bài giảng, thiết kế giờ dạy, lường trước các
tình huống để chủ động tổ chức giờ dạy có sự phối hợp nhịp nhàng giữa hoạt động của
thầy và hoạt động của trò. Đội ngũ giáo viên cần được chuẩn hoá, bản thân người giáo
viên phải năng động, học hỏi, tích cực đổi mới
- Học sinh: học sinh cần chăm đều, chuẩn bị bài kỹ ở nhà trước khi đến lớp và phải
mạnh dạn, tự tin bộc lộ ý kiến, quan điểm trong giờ học.

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ
1. Đặc điểm chung của trường, lớp.
Giáo viên: biết sử dụng máy vi tính và có thể thiết kế, chỉnh sửa giáo án trên
Powerpoint và Violet. GV tích cực đổi mới, không ngừng học tập phương pháp hiệu quả,
tự rèn luyện nâng cao trình độ tin học, sử dụng các trang thiết bị hiện đại. Đặc biệt GV
luôn chuẩn bị kĩ bài giảng trước khi đến lớp. Tuy nhiên cơ sở vật chất của nhà trường còn
chưa được hoàn thiện: Trường có máy projecter, máy tính nhưng chưa có phòng chức
năng riêng nên việc sử dụng các phương tiện dạy học còn hạn chế. Khi giáo viên muốn
sử dụng thì phải tháo và lắp đặt tại lớp học của mình.. Việc thiết kế 1 bài giáo án trên
Powerpoint hay Violet cũng mất rất nhiều thời gian (ít nhất là 2 giờ) nên việc đưa giáo án
điện tử vào giảng dạy các tiết học nói chung cũng như tiết học TNXH nói riêng còn nhiều
hạn chế và bất cập.
Học sinh: HS còn học tập ở nhiều mức độ khác nhau. Tuy nhiên các em đều ham
thích một giờ học với nhiều âm thanh, hình ảnh minh hoạ, được làm chủ những kiến thức
của bài học.
2. Những ưu điểm và bất cập khi ứng dụng CNTT vào giảng dạy.
a) Những ưu điểm khi ứng dụng CNTT:
- Tôi đã từng tham gia lớp học CNTT tại trung tâm Tin học nên có sẵn trong mình
những hiểu biết về Powerpoint và Violet. Đồng thời tôi cũng là một giáo viên Tiểu học có
nhiều năm công tác và kinh nghiệm trong giảng dạy nên nắm chắc các bước lên lớp và kĩ
năng, phương pháp sư phạm cần thiết.
- Trong thời gian qua nhà trường đã tạo điều kiện cho tôi đi tập huấn lớp học về CNTT
do phòng Giáo dục và Đào tạo quận Hoàng Mai tổ chức. Đồng thời tôi cũng không
ngừng học tập, tìm hiểu về những phần mềm đồ họa khác để lấy kiến thức cũng như sưu
tầm hình ảnh đẹp phục vụ cho việc thiết kế.
- Bên cạnh đó, tôi cũng rất may mắn được sự đồng tình và giúp đỡ, động viên nhiệt
tình của Ban giám hiệu nhà trường và của bạn bè đồng nghiệp.

- Thời gian sống và làm việc trong môi trường giáo dục, gắn bó với đồng nghiệp,
thương yêu học sinh, thực sự đã mang lại cho tôi cảm hứng và nhiệt huyết để nâng cao
chất lượng giảng dạy trong từng tiết học nói chung và giời học môn TNXH nói riêng.
b) Những bất cập khi thiết kế:
- Không phải là người học chuyên Tin nên trong khi áp dụng những bài giảng điện
tử vào giảng dạy tôi không thể tránh được những điều bất cập, có ý tưởng nhưng không
thiết kế được theo ý mình.
- Nắm được tình cảm, thái độ của học sinh trong việc học tập môn TNXH cũng hết
sức khó khăn. Tôi phải tiếp xúc, trao đổi với học sinh sau nhiều thời gian mới thấy được.
- Việc tìm kiếm những tư liệu phục vụ cho việc soạn giáo án điện tử cũng mất nhiều
thời gian, tôi phải tìm tòi trên sách báo, mạng Internet…

CHƯƠNG 3: BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẦN ĐỀ
- Ứng dụng CNTT vào giảng dạy nhằm đổi mới phương pháp dạy học môn TNXH,
tạo điều kiện thuận lợi cho GV trong các giờ giảng dạy ở trên lớp cũng như chuẩn bị bài
ở nhà. Với những hình ảnh, âm thanh sinh động, HS là chủ thể của giờ học.Các hình thức
hoạt động đơn giản như bấm phím, di chuyển và kích chuột... để lựa chọn và ra các lệnh
theo chủ định, HS sẽ rất hứng thú khi thấy yêu cầu của mình đề ra được thực hiện liền
ngay tức thời, điều này có tác dụng kích thích hứng thú rất mạnh mẽ trong hoạt động tự
học
Tôi ứng dụng CNTT vào giảng dạy TNXH ở một số mảng như sau:
1. Ứng dụng minh họa.
- Theo kinh nghiệm học tập của các nước ở Châu Âu trẻ chỉ phải học hai môn học:
Tiếng Mẹ đẻ và Toán. Nhưng thời lượng ngoại khoá là 60%. Tại các buổi ngoại khoá, trẻ
học cách tìm hiểu về cuộc sống các loài hoa, các con vật. Vẽ hình và mô tả sự hiểu biết
đó.
- Hiểu biết về cuộc sống, mối quan hệ giữa các thành viên gia đình, các vấn đề xã hội.
Các nghề nghiệp có trong xã hội. Cách thức sản xuất.v..v..
- Bé học làm các vật dụng thủ công khó như đóng bàn ghế, mối hàn, làm bánh…
- Bé tập làm quen với vịêc lao động nhóm, lao động cá nhân, theo tập thể.
- Các bé được tham gia ngoại khoá vài ngày hoặc vài tuần tại nước ngoài. Đi cá nhân
hoặc theo tập thể lớp.
Ở Thái Lan: chương trình phân theo 3 chủ đề:
Kinh nghiệm sống: Sinh học, Vật lý, Hoá học, Địa lý, Lịch sử.
Phát triển tính cách: Đạo đức, Âm nhạc, Thể dục.
Định hướng lao động: Nữ công, Kỹ thuật nông nghiệp, Mỹ thuật.
Tại Malayxia, các môn học cuộc sống được phân theo 2 giai đoạn như sau:
Giai đoạn 1: hiểu biết môi trường TN – XH gần gũi, bao quanh thông qua môn tiếng
Malai.
Giai đoạn 2: Tích hợp các kiến thức môn Sinh học, Vật lý, Hoá học, Địa lý, Lịch sử,
Đạo đức, Sức khoẻ thành môn Con người và Môi trường.
Khác hẳn với điều kiện học tập ở nước ta, thời gian chủ yếu của trẻ là học tại nhà
trường và thông qua sách vở. Môn Toán, Tiếng Việt được chú trọng hơn nên những hiểu

biết về thực tế của học sinh còn nhiều hạn chế. Chính vì vậy tôi thiết nghĩ để học tập bộ
môn TNXH được tốt và cho phù hợp với điều kiện học tập ở nước ta, ứng dụng CNTT
vào giảng dạy là vô cùng quan trọng. Hình ảnh và âm thanh minh họa giúp trẻ gần với
thực tế và thêm những kinh nghiệm trong vốn sống.
Để làm được việc này, trong quá trình soạn giáo án điện tử giáo viên ngoài việc nghiên
cứu sách giáo khoa, sách tham khảo để đảm bảo nội dung và kiến thức trong bài dạy, GV
cần tìm hiểu những phần mềm liên quan đến việc thiết kế.
Sách giáo khoa TNXH 3 có 3 chủ đề gồm 70 bài ứng với 70 tiết của 35 tuần thực học.
Trong đó có 63 bài học mới và 7 bài ôn tập, được phân phối như sau:
+ Con người và sức khỏe: HS được nhận biết một số cơ quan trên sơ đồ, cách giữ
vệ sinh và phòng bệnh cho những cơ quan này.
+ Xã hội: Thể hiện mối quan hệ gia đình, nhà trường, vốn hiểu biết và ý thức về
tỉnh, thành phố nơi đang sống.
+ Tự nhiên: Nói về Thực vật và động vật – Mặt trời và trái đất.
Trong năm học này, tôi đã không ngừng học tập và phấn đấu để nâng cao chất lượng
dạy và học. Tôi đã mạnh dạn tham gia một tiết dạy môn TNXH cấp thành phố. Nội dung
bài dạy được thiết kế trên nền Powerpoint sinh động và đẹp mắt, hình ảnh minh họa phù
hợp, phong phú kết hợp với những âm thanh, bài hát. Giờ học của tôi đã thực sự trở lên
hiệu quả và được xếp loại xuất sắc cấp Thành phố năm học 2010-2011. Tôi cũng xin đưa
vào SKKN này để minh trứng cho việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy bộ môn TNXH
lớp 3 của tôi.
2. Ứng dụng vào phần bài tập.
Theo M.A.Đanilov “Kiến thức sẽ được nắm vững thật sự, nếu học sinh có thể vận
dụng thành thạo chúng hoàn thành vào những bài tập lí thuyết hay thực hành”. Bài tập
nhằm ôn tập những kiến thức đã học, củng cố kiến thức cơ bản của bài giảng. Một đơn vị
kiến thức mới, học sinh chỉ có thể ghi nhớ khi được luyện tập nhiều lần.
Một điểm mạnh đáng kể của Violet so với các phần mềm thiết kế bài giảng khác là
khả năng tạo ra các bài tập rất phong phú, sinh động và đặc biệt là rất đơn giản. Ví dụ
trong Powerpoint ta phải mất cả buổi mới có thể tạo ra 1 bài tập trắc nghiệm hoặc bài tập
ô chữ thì đối với Violet chỉ cần vài phút là đã làm xong.
Những bài tập này cũng đặc
biệt rất thích hợp trong việc củng cố kiến thức trong môn học TNXH. Chính vì vậy tôi
thường sử dụng phần mềm Violet để thiết kế phần bài tập cho bài giảng TNXH của mình.
Một số ví dụ Bài tập trắc nghiệm được tạo bằng Violet

a) dạng nhiều lựa chọn trong đó có một đáp án đúng:

HS sẽ có cơ hội giao tiếp trực tiếp với máy tính để chọn ra đáp án đúng và kiểm tra kết
quả. Thay vì việc GV và HS nhận xét thì các em sẽ nhìn thấy kết quả bài làm của mình
ngay trên máy. Máy tính sẽ có những lời động viên khuyến khích hoặc nhắc nhở.

Dạng 2 Bài tập kéo thả chữ:

Với giao diện này sẽ có trường hợp HS trả lời đúng ngay. Nhưng nếu trường hợp HS trả
lời sai thì HS khác có thể lên bảng thao tác lai để chọn ra đáp án đúng. Như vậy sẽ thu hút
HS hướng lên màn hình theo dõi kết quả bài làm của bạn và cung không quên suy nghĩ
đáp án cho riêng mình vì các bạn vẫn còn lượt trả lời.
C). Ứng dụng vào phần trò chơi.
Bài tập dạng ô chữ cũng được thiết kế trên nền của Violet rất nhanh chóng và tiện
lợi. Tuy nhiên về giao diện thì Powerpoint lại chiếm ưu thế hơn ở tính thẩm mỹ và độ
tương tác. Do đó tôi thường thiết kế bài tập ô chữ trên nền Powerpoint. Đây là một dạng
bài tập thú vị. Nó không những tổng hợp được những kiến thức trong giờ học mà còn gây
hứng thú cho HS rất nhiều. Tôi không ngần ngại trong việc biến đổi dạng bài tập này sang
hình thức của một trò chơi ô chữ để giờ học thêm sôi nổi, hào hứng.
Trò chơi “Đoán tên môn học” được thể hiện dưới dạng các ô chữ

HS có thể chọn ngẫu nhiên 1 trong 9 câu hỏi

- Thời gian suy nghĩ cho mỗi câu hỏi là 30 giây. HS đưa ra đáp án.
- Kích chọn vào phần ô chữ đáp án sẽ xuất hiện và đồng thời ngôi sao lựa chọn câu
hỏi cũng biến mất

- Các chữ cái của từ khóa được xắp xếp không theo trật tự. Khi đã trả lời hết từ hàng
ngang hoặc bạn nào tìm ra từ khóa trước thì đưa ra đáp án và phần đáp án sẽ hiển
thị ở phía dưới

Đây là một trong những là một trò chơi lý thú mà còn đưa ra được cho các em
những kiến thức tổng hợp mà tôi thường xuyên áp dụng trong giờ học TNXH

CHƯƠNG 4: THỰC NGHIỆM KHOA HỌC VÀ KẾT QUẢ THỰC NGHIỆM
1. Thực nghiệm khoa học:
- Một đề tài sẽ chỉ là lí thuyết nếu như nó không được thực nghiệm. Là GV chủ
nhiệm lớp 3 tôi đã thực nghiệm PM của mình trên chính đối tượng là HS của mình
- Quá trình thực nghiệm được diễn ra vào thời điểm bắt đầu năm học 2010-2011
đến cuối học kì I. Tôi đã tiến hành giảng dạy nhiều bài TNXH trên nền giáo án điện tử
mà phần mềm hỗ trợ là violet và powerpoint.
- Chuẩn bị về cơ sở vật chất: Một máy tính có cài đặt phần mềm Violet và
Powerpoint, máy projecter, màn chiếu, bài soạn điện tử của tiết dạy.
- Do điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường và trình độ Tin học có hạn nên tôi
không thiết kế được hết các bài giảng môn TNXH để đưa vào giảng dạy. Tuy nhiên tôi đã
cố gắng sử dụng thật hiệu quả những bài soạn do mình đã thiết kế để đưa vào giảng dạy
2. Kết quả thực nghiệm:
- Sau quá trình thực nghiệm đối với HS lớp 3, tôi thu được kết quả thực nghiệm
như sau:
a) Đối với giáo viên:
Trình độ và phương pháp sư phạm giảng dạy nói chung và bộ môn TNXH nói
chung ngày càng nâng cao. Tôi đã lên nhiều chuyên đề cấp trường và cấp Quận phân môn
TNXH để chia sẻ những kinh nghiệm trong giảng dạy.
Tiết dạy thành công nhất là bài “Thực vật”. Qua tiết dạy này tôi đã đạt giải xuất sắc và
dành danh hiệu “ Giáo viên dạy giỏi Tiểu học cấp Thành phố năm học 2010-2011”.
b) Đối với học sinh:
- So với vốn hiểu biết về TNXH của các em khi mới vào lớp 3 thì các em giờ đây
đã có một vốn hiểu biết mới phong phú hơn và đặc biệt là vốn hiểu biết đó sát thực. HS
biết áp dụng vào trong thực tế cuộc sống hàng ngày của minh (giữ vệ sinh cá nhân để
tranh mắc bệnh, có ý thức tham gia giao thông đúng luật…)
- Kết quả học tập môn TNXH cuối kì I như sau:
Xếp loại

A

A+

Cuối kì I

61%

39%

KẾT LUẬN
Việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy TNXH lớp 3 đã mang lại thành công bước đầu
trong công tác đổi mới phương pháp giảng dạy. Với phương pháp mới này, người thầy
không còn giữ vai trò trung tâm mà chuyển sang vai trò là người hướng dẫn học sinh
khám phá và tiếp nhận kiến thức…
Dùng phần mềm, giáo viên có sẵn những bài giảng điện tử nên tiết kiệm được thời
gian chuẩn bị bài ở nhà cũng như chuẩn bị những đồ dùng dạy học cho một tiết TNXH
nên khắc phục được tình trạng thiếu đồ dung. Hiệu quả bài giảng vẫn đạt tiêu chuẩn cao
vì giáo viên có thể chỉnh sửa giáo án cho phù hợp với đối tượng học sinh của mình. Giáo
viên có nhiều thời gian để giảng bài, đồng thời có thể linh hoạt tổ chức cho học sinh học
nhóm, kết hợp học tập hay tổ chức trò chơi.
Về phía học sinh, qua việc được xem nhiều hình ảnh minh họa sống động, kể cả
xem các đoạn phim hoặc nghe nhạc, sẽ hiểu bài kỹ và nhớ lâu hơn. Các hình thức trắc
nghiệm kiến thức, đố vui để học hay trò chơi giúp học sinh phát huy tính tích cực, chủ
động trong học tập.
Đổi mới phương pháp dạy học hiện đang là vấn đề để nâng cao chất lượng dạy học.
Đó là một trong những mục tiêu quan trọng nhất trong cải cách giáo dục ở nước ta hiện
nay. Tuy nhiên, việc kết hợp ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông nhằm đổi mới
nội dung, phương pháp dạy học là một công việc lâu dài, khó khăn đòi hỏi rất nhiều điều
kiện về cơ sở vật chất, tài chính và năng lực của đội ngũ giáo viên. Do đó, để đẩy mạnh
việc ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin trong dạy học trong thời gian tới có hiệu
quả, không có gì khác hơn là được đầu tư để không ngừng nâng cao, hoàn thiện và hiện
đại hoá thiết bị, công nghệ dạy học; đồng thời hoàn thiện hạ tầng công nghệ thông tin và
truyền thông để mọi trường học đều có thể kết nối vào mạng Internet. Bên cạnh đó, có sự
chỉ đạo đầy đủ, đồng bộ, thống nhất bằng các văn bản mang tính pháp quy để các trường
có cơ sở lập đề án, huy động nguồn vốn đầu tư cho hoạt động này, góp phần làm thay đổi
nội dung, phương pháp, hình thức dạy học và quản lý giáo dục, tạo nên được sự kết hợp
giữa nhà trường, gia đình, xã hội thông qua mạng, làm cơ sở tiến tới một xã hội học tập.
Trên đây là những điều mà tôi đã nghĩ và đã làm về một vấn đề mà tôi tâm đắc:
“Ứng dụng CNTT vào giảng dạy môn Tin học lớp 3”.
Vì thời gian và năng lực còn có hạn, nên không thể tránh khỏi những sai sót trong
khi thực hiện sáng kiến kinh nghiệm. Rất mong được sự góp ý bổ sung của các đồng chí
và các bạn đồng nghiệp để đề tài của tôi ngày càng hoàn thiện hơn.

Trên đây chúng tôi giới thiệu một số kinh nghiệm của tác giả đã áp dụng thành
công trong quá trình giảng dạy năm học 2010 - 2011. Chúng tôi huy vọng sáng kiến này
sẽ giúp một phần nào trong dạy học đối với cấp tiểu học nói chung và bộ môn tự nhiên
xã hội nói chung. Trong quá trình áp dụng các bạn có thể trao đổi thêm kinh nghiệm với
tác giả Bùi Nguyệt Thu giáo viên trường Tiểu học Đề Lừ để có phương pháp áp dụng tốt
hơn góp phần thành công trong nền giáo dục của thủ đô.

Tải về bản full

sáng kiến: “Một spháp nâng cao hiệu quả ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học ở Trường THCS Làng Mô”

Đọc bài Lưu

THUYẾT MINH SÁNG KIẾN

I. THÔNG TIN CHUNG

1. Tên sáng kiến: “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học ở Trường THCS Làng Mô”

2. Tác giả

Họ và tên: Nguyễn Anh Tuấn

Năm sinh: 1979

Nơi thường trú: Làng Mô - Sìn Hồ - Lai Châu

Trình độ chuyên môn: ĐH sư phạm Lịch sử

Chức vụ công tác: Hiệu trưởng

Nơi làm việc: Trường THCS Làng Mô

Điện thoại: 01668777666

Tỷ lệ đóng góp tạo ra sáng kiến: 50%

Họ và tên: Dương Thị Thanh Nga

Năm sinh: 1983

Nơi thường trú: Làng Mô - Sìn Hồ - Lai Châu

Trình độ chuyên môn: ĐH sư phạm Toán

Chức vụ công tác: Giáo viên

Nơi làm việc: Trường THCS Làng Mô

Điện thoại: 0989021999

Tỷ lệ đóng góp tạo ra sáng kiến: 50%

3. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Công tác chuyên môn

4. Thời gian áp dụng sáng kiến: Từ ngày 15 tháng 08 năm 2016 đến ngày 15 tháng 03 năm 2017

5. Đơn vị áp dụng sáng kiến:

Tên đơn vị: Trường THCS Làng Mô

Địa chỉ: Nhiều Sáng 2 - Làng Mô - Sìn Hồ - Lai Châu

Điện thoại: 02313602782

II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN

1. Sự cần thiết, mục đích của việc thực hiện sáng kiến: “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học ở Trường THCS Làng Mô”

Trong Nghị quyết Trung ương II, khoá VIII Đảng và Nhà nước ta khẳng định, phải “đổi mới phương pháp giáo dục - đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương pháp hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho HS...

Mục tiêu của ngành giáo dục là không ngừng đổi mới phương pháp giảng dạy và nâng cao chất lượng giáo dục ở tất cả các cấp học. Trong đó, việc ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong dạy học đang được đẩy mạnh và nhân rộng trong toàn ngành hiện nay.

Đầu tiên, việc ứng dụng CNTT trong dạy học giúp giáo viên nâng cao tính sáng tạo và trở nên linh hoạt hơn trong quá trình giảng dạy của mình. Cụ thể, các thầy cô không chỉ bó buộc trong khối lượng kiến thức hiện có mà còn được tìm hiểu thêm về những chuyên ngành khác như tin học và học hỏi các kỹ năng sử dụng hình ảnh, âm thanh trong việc thiết kế bài giảng. Ngoài ra, ứng dụng CNTT trong dạy học còn giúp giáo viên có thể chia sẻ bài giảng với đồng nghiệp, cùng nhau thảo luận và nâng cao chất lượng giáo án của mình.

Đối tượng thứ hai được hưởng lợi trực tiếp từ việc ứng dụng CNTT trong dạy học đó chính là học sinh. Các em được tiếp cận phương pháp dạy học mới hấp dẫn hơn hẳn phương pháp đọc - chép truyền thống. Ngoài ra, sự tương tác giữa thầy cô và học trò cũng được cải thiện đáng kể, học sinh có nhiều cơ hội được thể hiện quan điểm cũng như chính kiến riêng của mình. Điều này không chỉ giúp các em ngày thêm tự tin mà còn để cho giáo viên hiểu thêm về năng lực, tính cách và mức độ tiếp thu kiến thức của học trò, từ đó có những điều chỉnh phù hợp và khoa học. Hơn thế nữa, việc được tiếp xúc nhiều với CNTT trong lớp học còn mang đến cho các em những kỹ năng tin học cần thiết ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Đây sẽ là nền tảng và sự trợ giúp đắc lực giúp học sinh đa dạng và sáng tạo các buổi thuyết trình trước lớp, đồng thời tăng cường khả năng tìm kiếm thông tin cho bài học của các em.

Từ lâu, việc ứng dụng CNTT trong dạy học đã được thực hiện ở rất nhiều nước phát triển trên thế giới. Hiện nay ở Việt Nam, tuy khoảng thời gian ứng dụng CNTT trong giảng dạy tại các trường học còn khá ngắn, nhưng những lợi ích của điều đó đã được thể hiện rõ nét. Chất lượng giáo viên được nâng cao, các phương pháp giảng dạy được thay đổi theo chiều hướng tích cực. Chúng ta có thể hy vọng vào một ngày không xa, nền giáo dục Việt Nam sẽ theo kịp được sự phát triển của các nước có nền giáo dục hàng đầu trên thế giới.

Rõ ràng, những cải tiến như trên sẽ không chỉ mang lại lợi ích cho người học và người dạy mà còn có ý nghĩa rất trọng với sự phát triển của cả xã hội và đất nước. Là các nhà giáo dục trẻ tuổi trong tương lai, các bạn học sinh sinh viên sư phạm ngay từ bây giờ nên bắt đầu tìm hiểu về cách thức áp dụng CNTT trong dạy học để biến những lớp học sau này của mình trở thành những sân chơi thú vị, tươi vui và đầy bổ ích.

Trong công tác dạy học, CNTT có tác dụng mạnh mẽ, làm thay đổi hình thức, phương pháp dạy và học. CNTT là phương tiện hiệu quả để nâng cao chất lượng giảng dạy. Tuy nhiên, giáo dục cũng chính là cơ sở để thúc đẩy sự phát triển của CNTT, thông qua việc cung cấp nguồn nhân lực và việc sử dụng CNTT. Chính vì vậy Bộ giáo dục và đào tạo cũng yêu cầu “đẩy mạnh ứng dụng CNTT” trong giáo dục đào tạo ở tất cả các cấp học, bậc học, ngành học theo hướng dẫn. CNTT như là một công cụ hỗ trợ đắc lực nhất cho đổi mới phương pháp dạy học ở các môn giảng dạy.

Nhưng làm thế nào để ứng dụng CNTT đạt hiệu quả cao trong các tiết dạy, đặc biệt là đối với các bộ môn đòi hỏi cần có các hình ảnh minh họa hay các thí nghiệm khó thành công như ở các môn vật lí, hóa học, lịch sử, địa lí… đó là vấn đề mà bất cứ một giáo viên nào cũng gặp phải khi có ý định đưa CNTT vào giảng dạy. Trong chuyên đề “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả ứng dụng CNTT vào dạy học ở Trường THCS Làng Mô” tôi sẽ đưa ra những ý kiến, kinh nghiệm của cá nhân mình, cũng như một số tiết dạy tôi và đồng nghiệp đã thử nghiệm trong thời gian vừa qua để cùng các bạn đồng nghiệp thảo luận tìm ra những giải pháp tốt nhất cho những tiết dạy của mình và các hoạt động ngoại khóa nhằm mục đích nâng cao chất lượng trong dạy học.

2. Phạm vi triển khai thực hiện:

Đề tài tập trung nghiên cứu việc ứng dụng CNTT trong dạy học chính khóa ở một số môn học và tổ chức các hoạt động ngoại khóa tại Trường THCS Làng Mô.

3. Mô tả sáng kiến:

a. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến

Phương pháp dạy truyền thống trước đây đa số là thuyết trình nhiều đối với một số môn học có nhiều hiện tượng khó quan sát và thí nghiệm khó thành công giáo viên chỉ mô tả giới thiệu học sinh thụ động tiếp thu kiến thức hiệu quả đem lại chưa cao. Với phương pháp này giáo viên chủ động kiến thức và thời gian cho tiết dạy của mình học sinh được truyền thụ những kiến thức cơ bản nhất của tiết học nhưng học sinh thụ động học tập, cố ghi nhớ thật nhiều kiến thức không kích thích khả năng tự tìm tòi phát hiện kiến thức mà trông chờ giáo viên truyền thụ kiến thức dẫn đến hay chán nản, khả năng kích thích hứng thú học tập không cao.

b. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến

Để khắc phục các thực trạng trên tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp rèn kỹ năng sống cho học sinh trường THCS Làng Mô:

* Giải pháp thứ nhất: Tăng cường công tác bồi dưỡng giáo viên

Đẩy mạnh tuyên truyền cho giáo viên thấy rõ hiệu quả và yêu cầu mang tính tất yếu của ứng dụng CNTT trong đổi mới phương pháp giảng dạy thông qua việc triển khai các văn bản chỉ đạo của Bộ, ngành về ứng dụng CNTT trong dạy học; thông qua các buổi sinh hoạt chuyên môn tổ khối, hội thảo chuyên đề; thông qua dự giờ thăm lớp và qua việc triển khai các cuộc thi có ứng dụng CNTT do ngành tổ chức. Phát động sâu rộng thành phong trào và đề ra yêu cầu cụ thể về số tiết ứng dụng CNTT đối với mỗi giáo viên để chính họ qua áp dụng thấy được hiệu quả và sự cần thiết của việc ứng dụng CNTT trong giảng dạy, đặc biệt là đối với đổi mới phương pháp dạy học.

Xây dựng kế hoạch cử đi đào tạo, bồi dưỡng tin học cho giáo viên. Tạo điều kiện cho giáo viên học tập nâng cao trình độ Tin học (giáo viên Tin học của trường được tạo điều kiện về thời gian để tham gia học nâng cao trình độ từ Trung cấp lên Đại học CNTT); Bố trí sắp xếp để cán bộ giáo viên được tham gia đầy đủ các lớp tập huấn, bồi dưỡng CNTT do ngành tổ chức. Yêu cầu 100% giáo viên phải đạt trình độ tin học chứng chỉ A trở lên. Đặc biệt đội ngũ cán bộ quản lý phải đạt 100% sử dụng thành thạo tin học để có thể hỗ trợ cho giáo viên trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.

Muốn ứng dụng CNTT vào giảng dạy hiệu quả thì ngoài những hiểu biết căn bản về nguyên lý hoạt động của máy tính và các phương tiện hỗ trợ, đòi hỏi giáo viên cần phải có kỹ năng thành thạo (thực tế cho thấy nhiều người có chứng chỉ hoặc bằng cấp cao về Tin học nhưng nếu ít sử dụng thì kỹ năng sẽ mai một, ngược lại chỉ với chứng chỉ A tin học văn phòng nhưng nếu bạn chịu khó học hỏi, thực hành thì việc ứng dụng CNTT vào giảng dạy sẽ chẳng mấy khó khăn. Nhận thức được điều đó, nhà trường rất chú trọng bồi dưỡng kỹ năng ứng dụng CNTT cho giáo viên thông qua nhiều hoạt động, như:

Tổ chức các lớp bồi dưỡng kỹ năng sử dụng máy tính và các phần mềm Tin học với giảng viên là giáo viên CNTT và những giáo viên có kỹ năng tốt về Tin học của trường, theo hình thức trao đổi giúp đỡ lẫn nhau, tập trung chủ yếu vào những kỹ năng mà giáo viên cần sử dụng trong quá trình soạn giảng hàng ngày như lấy thông tin, các bước soạn một bài trình chiếu, các phần mềm thông dụng, cách chuyển đổi các loại phông chữ, cách sử dụng một số phương tiện như máy chiếu, máy quay phim, chụp ảnh, cách thiết kế bài kiểm tra,...

Tổ chức sinh hoạt chuyên môn, chuyên đề để trao đổi về kinh nghiệm ứng dụng CNTT trong giảng dạy. Phấn đấu một năm ít nhất có 2 chuyên đề trao đổi kinh nghiệm ứng dụng công nghệ thông tin. Sau mỗi buổi trao đổi tập huấn có bài kiểm tra để đánh giá khả năng tiếp thu và trình độ CNTT của từng giáo viên từ đó nắm bắt được giáo viên nào yếu ở điểm nào. Từ đó có kế hoạch hướng dẫn cụ thể cho từng đồng chí cụ thể.

Định hướng cho giáo viên luôn có ý thức sưu tầm tài liệu hướng dẫn ứng dụng CNTT hiệu quả, bộ phận chuyên môn nghiên cứu chọn lọc photo phát cho giáo viên (bằng cách làm này nhà trường đã có nhiều tài liệu hay, dễ thực hành cho giáo viên sử dụng như: tài liệu hướng dẫn soạn giáo án powerpoint, hướng dẫn sử dụng máy chiếu, hướng dẫn thiết kế bài giảng điện tử e- Learning,...)

Động viên giáo viên tích cực tự học và học hỏi đồng nghiệp sẵn sàng chia sẻ, thường xuyên trao đổi với đồng nghiệp; chuyên môn nhà trường phải là bộ phận kết nối, là trung tâm tạo ra một môi trường học hỏi chuyên môn tích cực.

* Giải pháp thứ 2: Đẩy mạnh các các hoạt động ứng dụng CNTT trong công tác quản lý và dạy học.

Đẩy mạnh việc ứng dụng CNTT nhằm đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng phát huy tính tích cực học tập của học sinh, giáo viên tích hợp CNTT vào từng môn học thay vì chỉ được học trong môn Tin học. Mỗi giáo viên dạy trung bình ít nhất 4 tiết có ứng dụng CNTT/năm. Chuyên môn nhà trường chú trọng dự giờ thăm lớp, rút kinh nghiệm và tổ chức sinh hoạt chuyên môn trao đổi về cách ứng dụng CNTT một cách chọn lọc, phù hợp với đối tượng, nhằm phát huy có hiệu quả tác dụng của phương tiện, tránh lạm dụng quá mức.

Các hình thức sử dụng hiệu quả được nhiều giáo viên sử dụng là: dạy trình chiếu với cách thiết kế các sile về hình thức gần giống với bảng truyền thống, sử dụng máy chiếu như là phương tiện hỗ trợ cung cấp kênh hình với nhiều hình ảnh sinh động, âm thanh, video mà không phải mang nhiều tranh ảnh, bảng phụ, máy móc thiết bị khác.

Hàng năm nhà trường phải cập nhật nhiều phần mềm trong công tác thống kê, quản lý như phần mềm phổ cập giáo dục, phần mềm thống kê staschool, phần mềm trường học kết nối...Do đó Ban giám hiệu kết hợp tốt việc vừa học vừa làm đối với giáo viên. Đó là phân công lịch cụ thể từng giáo viên lên cập nhật các phần mềm ở từng phần mà giáo viên phụ trách như cập nhật thông tin học sinh, cập nhật điểm ở phần mềm stschool, cập nhật danh sách hộ và theo dõi hàng năm ở phần mềm phổ cập, đưa sáng kiến kinh nghiệm lên phần mềm trường học kết nối. Từ những việc làm trên giáo viên dần tích lũy kiến thức thực tế và kinh nghiệm trong thực hành công nghệ thông tin. Điều này bổ trợ rất nhiều cho công tác dạy học ứng dụng CNTT của giáo sau này.

Nhà trường lập một địa chỉ mail riêng để trao đổi thông tin giữa giáo viên và ban giám hiệu. Các văn bản hướng dẫn của các cấp đều được chuyển vào địa chỉ mail này do đó giáo viên buộc phải truy cập mail mới có thể tìm thấy văn bản và lấy để nghiên cứu.

* Giải pháp thứ 3: Chú trọng đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ nhu cầu phát triển CNTT trong dạy học.

Tăng cường số máy tính phục vụ cho văn phòng BGH, giáo viên, kế toán, thư viện; máy tính phòng tin học, máy chiếu projector, máy in, máy photo, máy quay phim, máy chiếu vật thể….bằng nguồn ngân sách, hoặc xã hội hóa giáo dục (Hiện tại nhà trường đã được trang bị 1 phòng tin học gồm 22 máy tính, 2 máy chiếu Projector, 1 máy photocopy, 5 máy tính văn phòng, 1 máy chiếu vật thể, 4 máy in để phục vụ công tác quản lý và dạy học).

Bố trí các phòng làm việc của BGH, phòng chờ của giáo viên, phòng thư viện đều có kết nối Internet để cán bộ, giáo viên được truy cập Internet thường xuyên. Khuyến khích cán bộ giáo viên kết nối Internet tại gia đình để có thêm thời gian tra cứu.

Giao trách nhiệm cụ thể cho các bộ phận, thường xuyên bảo dưỡng nhằm khai thác tối đa, có hiệu quả trang thiết bị được cung cấp.

4. Hiệu quả do sáng kiến đem lại:

a. Hiệu quả kinh tế: Việc ứng dụng CNTT giúp giáo viên có nhiều thời gian hơn để nghiên cứu và tìm hiểu những kiến thức, cách thức thực hiện sao cho hiệu quả. Đồng thời giúp giáo viên có thêm phương tiện để hỗ trợ trong quá trình giảng dạy mang lại tính thực tiễn và sinh động hơn. Khi áp dụng CNTT vào giảng dạy giáo viên không cần phải viết bảng phụ trên giấy A4 mất nhiều công sức và tiền bạc mua giấy, bút, lam châm…

b. Hiệu quả về kỹ thật:

Việc ứng dụng CNTT vào dạy học giúp giáo viên thay đổi phương pháp dạy học kích thích được tính tò mò, học sinh hứng thú học tập hơn. nhằm thu hút học sinh đến trường, yêu thích môn học. Đôi khi CNTT đóng vai trò như một dụng cụ hữu hiệu để giúp giáo viên có thể thực hiện các vấn đề khó, trừu tượng như mô hình hóa, trực quan hóa…Mặt khác CNTT giúp các giáo viên tìm hiểu thêm kiến thức không ngừng, tiếp cận với kiến thức mới bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn bản thân hỗ trợ đắc lực trong công tác giảng dạy.

Ứng dụng CNTT vào dạy học cũng không quá phức tạp. Hầu như tất cả các giáo viên ở các bộ môn điều thực hiện được giáo viên có thể tìm hiểu thêm kiến thức trên internet sau đó lựa chọn bài dạy, nội dung cụ thể trong bài cần ứng dụng ví dụ: ở môn lịch sử 6 tiết Tiết 31: Ngô Quyền và chiến thắng Bạch Đằng năm 938 giáo viên có thể chiếu đoạn video về trận đánh hoặc mô tả trận đánh thiết kế trên phần mềm trình chiếu sẽ tạo được tính tò mò kích thích hứng thú học tập của học sinh. Sau khi lựa chọn nội dung kiến thức giáo viên sẽ thiết kế bài dạy ứng dụng CNTT cho phù hợp với ý tưởng khi thiết kế chú ý sử dụng các phần mềm ứng dụng để hỗ trợ. Phần mềm hay dùng là PowerPoint được tích hợp sẵn trên Microsoft Office hầu hết máy tính nào cũng có. Ngoài ra có thể kết hợp thêm nhiều phần mềm khác như Flash, Violet (tiếng Việt)…Cuối cùng là việc giáo viên vận dụng trong tiết học một cách linh hoạt sẽ giúp giáo viên có một tiết dạy đạt hiệu quả cao nhất.

Lưu ý bước lựa chọn nội dung kiến thức ứng dụng CNTT có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả của ứng dụng. Không phải nội dung bài nào cũng ứng dụng mà chỉ nên chọn các kiến thức khó mô tả, hay các thí nghiệm khó thành công có thể làm thí nghiệm ảo...tránh lạm dụng sử dụng các phần mềm quá nhiều đặc biệt là các hiệu ứng sẽ ảnh hưởng đến kết quả của tiết dạy không cao.

Với những ứng dụng của đề tài, kết quả rõ nét nhất đó là sự hứng thú của học sinh Trong các môn học có sự thay đổi rõ rệt. Mỗi khi đến tiết học có ứng dụng CNTT, đặc biệt các ngày có tiết sử dụng CNTT của các thầy cô giáo sĩ số chuyên cần của học sinh tăng lên đáng kể so với các tiết giảng dạy truyền thống. Từ đó dẫn đến bản thân giáo viên áp dụng thiết dạy có sử dụng CNTT cũng luôn tự tin và hào hứng với tiết dạy.

Đến nay phần lớn giáo viên đã soạn giáo án trên máy vi tính, đa số thầy cô giáo có thể dùng Power Point và một số phần mềm khác để trình chiếu hỗ trợ giảng dạy, biết vào Internet tìm kiếm thông tin, hình ảnh, hình mẫu đưa vào minh họa trong bài giảng...

c. Hiệu quả về mặt xã hội

Nhà trường đã tổ chức được phong trào thi đua giảng dạy bằng phương pháp mới. Do vậy, tuy chuẩn bị cho một tiết dạy bằng giáo án điện tử tốn nhiều thời gian và công sức hơn nhưng giáo viên ở tất cả các bộ môn đều hăng hái đăng ký. Kết quả từ đầu năm học đến nay đã 100% tiết dạy thao giảng sử dụng bằng phương pháp dạy học mới với việc vận dụng CNTT và các thiết bị dạy học hiện đại ở hầu hết các môn học.

Qua thực tiễn dạy học và khảo sát hiệu quả từ phía học sinh cho thấy, nếu sử dụng phương pháp dạy học truyền thống với phấn trắng bảng đen thì hiệu qủa mang lại không cao:

Kết quả khảo sát học sinh dạy học theo phương pháp truyền thống ở các môn tham gia áp dụng sáng kiến (không sử dụng CNTT trong tiết dạy):

STT

Môn

Học sinh hứng thú học tập

Số học sinh tham gia phát biểu ý kiến xây dựng bài

Sĩ số chuyên cần

1

Ngữ văn 6

57%

20%

87%

2

Địa lí 8

63%

17%

88%

3

Toán 9

56%

15%

91%

4

Ngữ văn 9

60 %

25%

90%

Kết quả khảo sát học sinh dạy học theo phương pháp mới ở các số môn tham gia áp dụng sáng kiến (có sử dụng CNTT trong tiết dạy):

STT

Môn

Học sinh hứng thú học tập

Số học sinh tham gia phát biểu ý kiến xây dựng bài

Sĩ số chuyên cần

1

Ngữ văn 6

97%

32%

94%

2

Địa lí 8

99%

23%

94%

3

Toán 9

97%

26%

96%

4

Ngữ văn 9

98 %

35%

96%

Phần lớn học sinh đều thích những giờ dạy học Có ứng dụng CNTT với rất nhiều hình ảnh, âm thanh minh họa đẹp mắt, sinh động đã làm cho các em hứng thú, say mê học tập. Cùng một thời lượng như nhau nhưng số lượng kiến thức và kỹ năng các em thu nhận được lại nhiều hơn, cụ thể, sinh động, sâu sắc và chắc chắn hơn. Đồng thời giúp các em thư giãn, tránh áp lực và sự khô khan của những tiết học như trước đây. Hầu như tất cả các giờ học được dạy theo phương pháp này không có một học sinh nào tỏ ra chán nản, lười biếng học tập hoặc học với tâm trạng đối phó, thụ động, mà ngược lại các em đều rất thích thú. Rõ ràng đã đem lại hiệu quả tích cực tới các em học sinh.

5. Đánh giá về phạm vi ảnh hưởng của sáng kiến

Khả năng áp dụng sáng kiến là rất khả thi, các giáo viên đã và đang tích cực đổi mới phương pháp dạy học sao cho phù hợp với đối tượng học sinh đặc biệt là nhằm nâng cao chất lượng giáo dục thu hút học sinh, tạo hứng thú cho học sinh học tập và việc ứng dụng CNTT vào dạy học là cần thiết phương tiện tối ưu cho các giáo viên và học sinh tìm hiểu kiến thức mới thú vị hơn. Giải pháp của sáng kiến có thể áp dụng cho tất cả các trường trong giáo dục phù hợp với nhiều đối tượng, cơ quan ngoài ứng dụng CNTT vào dạy học CNTT cũng có thể được ứng dụng vào các hoạt động ngoại khóa, tập huấn…của nhiều cơ quan tổ chức nếu biết cách ứng dụng thì hiệu quả đem lại là rất lớn

6. Các thông tin cần được bảo mật: Không

7. Kiến nghị, đề xuất:

a) Về danh sách cá nhân được công nhận đồng tác giả sáng kiến

Đề nghị Hội đồng thẩm định chấm sáng kiến công nhận đồng tác giả sáng kiến là tác giả Nguyễn Anh Tuấn và tác giả Dương Thị Thanh Nga.

b) Kiến nghị

Để việc soạn giảng ứng dụng CNTT vào dạy học đạt hiệu quả cao đồi hỏi khâu chuẩn bị khá công phu và mất nhiều thời gian và do cơ sở vật chất còn thiếu thốn, chưa có phòng học lắp máy chiếu riêng... Vì thế mà một số giáo viên đã thực hiện nhưng chỉ mang tính hình thức và chỉ quan tâm chuẩn bị chu đáo ở các tiết dạy thao giảng mà chưa thường xuyên sử dụng ở các tiết dạy hàng ngày. Vì vậy tôi xin có một vài kiến nghị nhỏ như sau:

Thứ nhất: Trong các đợt bồi dưỡng chuyên môn nên lồng ghép tập huấn nhiều hơn nữa cho giáo viên làm quen với việc ứng dụng CNTT của từng bộ môn.

Thứ hai: Trong nhà trường nên tổ chức các buổi thảo luận, hoạt động ngoại khóa để giáo viên có thể trao đổi, học hỏi lẫn nhau. Ngoài ra, các thầy cô giáo trong cùng tổ chuyên môn nên có các buổi thao giảng để thu nhận những góp ý chân thành từ những người khác, từ đó nâng cao chất lượng giảng dạy theo phương pháp mới.

Thứ ba: Mỗi đồng chí giáo viên cần có tinh thần tự học tập để đó làm cơ sở cho sự tiếp thu và sự trao đổi phương pháp dạy học hướng tới chất lượng giáo dục ngày càng nâng cao.

Thứ tư: Cần tiếp tục có sự đầu tư xây dựng thêm cơ sở vật chất, bổ sung thêm máy chiếu cho nhà trường đầy đủ hơn thúc đẩy ứng dụng CNTT vào dạy học.

8. Tài liệu kèm: Không

Trên đây là nội dung, hiệu quả của nhóm tác giả do chính chúng tôi thực hiện không sao chép hoặc vi phạm bàn quyền./.

XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN ĐƠN VỊ

ÁP DỤNG SÁNG KIẾN

(Ký tên, đóng dấu)

TÁC GIẢ SÁNG KIẾN

(Ký tên)

XÁC NHẬN CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CẤP CƠ SỞ


Tổng số điểm của bài viết là: 2 trong 1 đánh giá

Click để đánh giá bài viết