So sánh nghệ thuật của từ ấy và chiều tối năm 2024
Dòng nào khái quát được những nét nghệ thuật tiêu biểu của bài thơ “Từ ấy” của Tố Hữu? A. Hình ảnh sinh động, giọng thơ trang trọng, từ ngữ chọn lọc. B. Giọng thơ trầm lắng, hình ảnh tươi sáng, nhịp thơ khoan thai. C. Hình ảnh tươi sáng, giọng thơ sảng khoái, nhịp thơ dồn dập. D. Nhịp thơ dồn dập, hình ảnh nhiều ước lệ, giọng thơ náo... Đọc tiếp Dòng nào khái quát được những nét nghệ thuật tiêu biểu của bài thơ “Từ ấy” của Tố Hữu?
Sự vận động của cảnh vật và con người từ hai câu đầu đến hai câu cuối của bài thơ “Chiều tối” cho thấy đặc điểm gì trong tâm hồn Hồ Chí Minh ? A. Luôn hướng tới niềm vui lạc quan, yêu đời B. Luôn hướng tới con người, cảnh vật, lao động C. Luôn hướng tới sự sống, ánh sáng, tương lai D. Luôn hướng tới lao động, hoạt động, vận... + Khẳng định tính đúng đắn của nhận định “Ngay từ đầu, cái tôi trữ tình trong thơ Tố Hữu đã là cái tôi chiến sĩ, càng về sau càng xác định rõ là cái tôi nhân danh Đảng, nhân danh cộng đồng dân tộc”. tưởng tới tâm hổn của nhà thơ đang trải rộng với cuộc đời: tạo ra khả năng đồng cảm sâu xa với hoàn cảnh của từng con người cụ thể.
mai đó, đã cho thấy tấm lòng đồng cảm, xót thương chân thành của nhà thơ, đồng thời cũng thấy được lòng căm giận của nhà thơ trước bao bất công, ngang trái của xã hội cũ.
Bài thơ được Tố Hữu viết vào năm 1938, đó là thời điểm Tố Hữu được kết nạp vào Đảng Cộng Sản Đông Dương. Nó là một mốc son đánh dấu sự chuyển biến trong cuộc đời, trong thơ Tố Hữu. Như chính nhà thơ đã từng viết “Từ ấy là một tâm hồn trong trẻo của tuổi mười tám đôi mươi, đi theo lí tưởng cao đẹp dám sống, dám đấu tranh”. Toàn bộ bài thơ là niềm vui sướng, say mê mãnh liệt của nhà thơ Tố Hữu trong buổi đầu gặp gỡ lí tưởng cuộc sống và tác dụng kì diệu của lý tưởng cách mạng đối với quá trình nhận thức cũng như đối với đời thơ Tố Hữu. Bài thơ còn thể hiện quá trình vận động của tâm trạng cũng như nhận thức của người thanh niên trí thức tiểu tư sản sang người trí thức cách mạng giàu lòng yêu nước. *Khổ 1: Khổ 1 của bài thơ tập trung diễn tả niềm vui sướng, say mê của tác giả khi bắt gặp lí tưởng của Đảng Cộng Sản. Ở khổ thơ đầu có sự kết hợp hài hòa giữa hai bút pháp Tự sự và trữ tình. Hai câu thơ đầu được tác giả viết theo bút pháp tự sự. Lời thơ như một lời kể về một kỉ niệm không thể nào quên trong cuộc đời của người chiến sĩ cách mạng trẻ:“Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ/Mặt trời chân lí chói qua tim”. “Từ ấy” là chỉ cái mốc thời gian đặc biệt trong cuộc đời cách mạng và trong cuộc đời thơ Tố Hữu. Đó là khi Tố hữu 18 tuổi đang hoạt động rất tích cực trong ĐTNCS Huế. Được giác ngộ lý tưởng cộng sản, Tố Hữu vô cùng vui sướng, ông đã hoạt động cách mạng một cách say mê và sau một năm ông được kết nạp vào Đảng. Tức là được đứng vào hàng ngũ danh dự của những con người tiên phong. Cụm từ “bừng nắng hạ” là biểu tượng cho cảm xúc của bài thơ. “Bừng nắng hạ” là bừng lên vui sướng hân hoan, bừng lên niềm hạnh phúc, bừng lên một chân lý tỏa sáng cho cuộc đời của mình. Hình ảnh “mặt trời chân lí chói qua tim” là hình ảnh ẩn dụ biểu tượng cho lí tưởng cách mạng. Những từ ngữ được sử dụng chính xác, giàu sức gợi ở đây là từ “bừng” và từ “chói”. Từ “bừng” chỉ ánh sáng phát ra đột ngột, từ “chói” chỉ ánh sáng xuyên mạnh. Vậy hình ảnh “bừng nắng hạ”, “chói qua tim” đã diễn tả được niềm vui đột ngột của nhà thơ. Tố Hữu đã khẳng định lí tưởng cộng sản như một nguồn ánh sáng mới, làm bừng sáng lên tâm hồn. Tác giả gọi chân lí cách mạng là mặt trời chân lí bởi Đảng là một nguồn ánh sáng kì diệu, tỏa ra từ những tư tưởng đúng đắn, hợp với lẽ phải. Nó báo hiệu những điều tốt lành cho cuộc sống. Cách gọi ấy thể hiện thái độ thành kính của nhà thơ đối với cách mạng. Từ “chói qua tim” là tác giả nhấn mạnh ánh sáng của lí tưởng là một nguồn ánh sáng mạnh, nó xua tan đi màn sương mù của ý thức tiểu tư sản và mở ra trong tâm hồn nhà thơ một chân trời mới của nhận thức, của tư tưởng. Hai câu thơ sau tác giả viết bằng bút pháp trữ tình lãng mạn cùng với những hình ảnh so sánh rất sinh động, giàu hình tượng để diễn tả niềm vui sướng vô hạn của buổi đầu tiếp xúc với lí tưởng cộng sản: “Hồn tôi là một vườn hoa lá/ Rất đậm hương và rộn tiếng chim” Hình ảnh “vườn hoa lá” và “rộn tiếng chim” là hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho một thế giới tươi sáng, rộn rã, tràn đầy sức sống. Nhà thơ so sánh hồn tôi như vườn hoa lá, một cách so sánh lấy hình ảnh cụ thể để chỉ một khái niệm trừu tượng. Để từ đó bạn đọc chúng ta có thể cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ khi đến với cách mạng. Đối với Tố Hữu, lí tưởng cách mạng không chỉ khơi dậy một sức sống mới mà còn mang lại một cảm hứng sáng tạo mới cho hồn thơ. Đó là nhà thơ say mê ca ngợi nhân dân, ca ngợi đất nước, say mê hoạt động cống hiến cho cách mạng. Như vậy, khổ thơ mở đầu bài thơ diễn tả niềm vui, niềm say mê và hạnh phúc tràn ngập trong tâm hồn nhà thơ từ khi được giác ngộ lí tưởng cách mạng, được kết nạp vào Đảng Cộng Sản. Những câu thơ trên được viết bằng cảm xúc dạt dào diễn tả tâm trạng, tâm hồn bằng những hình ảnh cụ thể và sinh động đã tạo được một ấ tượng độc đáo, mới lạ so với thơ ca cách mạng đương thời và trước đó. Xong cái hấp dẫn lớn nhất trong thơ Tố Hữu là con người chân thành, tâm hồn trong trẻo, nồng nhiệt đã tìm được một cách diễn đạt rất phù hợp. *Khổ 2: Những nhận thức mới về lẽ sống: Khi giác ngộ lí tưởng Tố hữu đã khẳng định quan niệm mới về lẽ sống. Đó là sự gắn bó hài hòa giữa cái tôi cá nhân và cái ta chung của mọi người: “Tôi buộc lòng tôi với mọi nhỏ” là những em bé lang thang vất vưởng nay đây mai đó). Tình cảm của tác gải thể hiện qua cách xưng hô: con, anh và em, cho ta thấy tình hữu ái giai cấp, tình yêu thương ruột thịt. Điệp từ “đã là” là một điểm nhấn, nó giúp tác giả thể hiện sâu sắc tình cảm gắn bó của mình với quần chúng nhân dân lao khổ. Tác giả đã xác định mình là một thành viên trong đại gia đình quần chúng lao khổ. Tình cảm ấy trở nên cao quý hơn khi ta hiểu được Tố Hữu vốn là một trí thức tiểu tư sản, có lối sống đề cao cái tôi cá nhân, ích kỉ, hẹp hòi. Nhà thơ đã vượt qua giai cấp của mình đế đến với giai cấp vô sản với tình cảm chân thành và điều này chứng tỏ sức mạnh cảm hóa mạnh mẽ lí tưởng cách mạng đối với những người trí thức tiểu tư sản. Lí tưởng cộng sản không chỉ cảm hóa Tố Hữu mà còn thay đổi cả một thế hệ trí thức tiểu tư sản như Xuân Diệu, Huy Cận. Họ vốn là những thi sĩ lãng mạn rồi trở thành những nhà thơ cách mạng, sáng tác phục vụ cho sự nghiệp cách mạng. Điều đó thể hiện sự thay đổi quan niệm trong sáng tác của họ. Các nàh thơ lãng mạn quan niệm:“Là thi sĩ nghĩa là ru với gió/ Mê theo trăng và vơ vẩn cùng mây” (Xuân Diệu) Nhưng quan niệm của các nhà thơ cách mạng, nhà thơ, nhà văn phải là người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa tư tưởng. Như Sóng Hồng đã từng viết:“Lấy cán bút làm đòn xoay chế độ/ Mỗi vần thơ bom đạn phá cường quyền”. Hay Hồ Chí Minh đã viết:“Nay ở trong thơ nên có thép/Nhà thơ cũng phải biết xung phong” 3, Kết bài: Với cách sử dụng linh hoạt các bút pháp tự sự, trữ tình và lãng mạn, sử dụng linh hoạt và hiệu quả các biện pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ, ngôn ngữ rồi sử dụng từ ngữ giàu tình cảm, giàu hình ảnh. Bài thơ đã thể hiện được một cách sâu sắc, tinh tế sự thay đổi nhận thức, tư tưởng, tình cảm của một thanh niên ưu tú khi được giác ngộ lí tưởng cách mạng và được vinh dự đứng trong hàng ngũ lãnh đạo của Đảng. Bài thơ cũng thể hiện những nhận thức mới về lẽ sống, đó là lẽ sống gắn bó hài hòa giữa cái tôi riêng với cái ta chung của mọi người. Cũng như sự chuyển biến sâu sắc của nhà thơ, bài thơ cũng có ý nghĩa mở đầu cho con đường cách mạng, con đường thơ ca của Tố Hữu. Nó là tuyên ngôn về lẽ sống của người chiến sĩ cách mạng và cũng là tuyên ngôn của nàh thơ chiến sĩ. Bài thơ cũng tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu, có sự kết hợp hài hòa giữa trữ tình và chính trị, sử dụng nhuần nhuyễn các thủ pháp nghệ thuật quen thuộc của thơ ca truyền thống nhưng giàu hình ảnh và giàu nhịp điệu lời thơ giản dị khiến nó dễ đi vào lòng người đọc. Chiều tối (Mộ, Hồ Chí Minh)
Cánh chim bay về tổ còn gợi niềm mong ước sum họp, khát vọng được tự do, đoàn tụ, trở về quê hương tiếp tục sự nghiệp cứu nước cứu dân của Bác trong hoàn cảnh xa xứ, tù đày.
họ hướng về những con người yếu đuối: người phụ nữ có số phận bất hạnh (Thúy Kiều trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du; nàng Vũ Nương trong truyện “Người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ; nàng chinh phụ lẻ loi chờ chồng trong “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn...); Bác cũng hướng tới người phụ nữ, nhưng trong thơ Bác, đó lại là một người phụ nữ lao động bình thường, giản dị trong lao động. Đó chính là tình yêu thương của một chiến sĩ cộng sản đối với con người thuộc giai cấp vô sản, nhân dân lao động – đối tượng mà người dành cả cuộc đời mình đấu tranh vì họ. → Hình ảnh "cô gái xay ngô" là hình ảnh trung tâm của bức tranh, được gợi tả một cách cụ thể, sinh động như một bức tranh hiện thực. (bút pháp tả thực)
Mặc dù tình cảnh vô cùng đau khổ nhưng Người vẫn sáng tác được trên 130 bài thơ, ghi chép trong một cuốn sổ tay và được đặt tên là “Ngục trung nhật kí”. Tập thơ được sáng tác vào khoảng thời gian từ mùa thu năm 1942 đến mùa thu năm 1943. Bài thơ “Chiều tối” (Mộ) là bài thơ thất ngôn tứ tuyệt thứ 31 trong tập thơ. Cảm hứng của bài thơ được gợi lên trên đường chuyển lao từ Tĩnh Tây đến Thiên Bảo vào cuối mùa thu năm 1942.
cảnh đầm ấm của gia đình trong bữa cơm chiều đã sưởi ấm lòng người tù tha hương. Đó là niềm vui rất nhân bản mà không dễ gì có được ở mỗi con người. Sự chuyển vận quen thuộc này trong thơ Hồ Chí Minh thể hiện rõ tinh thần lạc quan, sự tin sự tin tưởng của nhà thơ vào một tương lai tốt đẹp. Nhiều bài thơ khác trong "Nhật ký trong tù" cũng thể hiện rõ điều đó. Người tù Hồ Chí Minh hầu như ít khi cảm thấy cô đơn mà tâm hồn luôn luôn gắn bó với nhịp sống, làm chủ hoàn cảnh và lạc quan yêu đời. Trong cảnh hoàng hôn gió rét căm, vượt lên gian khổ. Người xúc động hướng tới một tiếng chuông chùa, một tiếng sáo mục đồng mà mạnh bước: "Gió sắc tựa gươm mài đá núi, Rét như dùi nhọn chích cành cây Chùa xa chuông giục người nhanh bước, Trẻ dẫn trâu về tiếng sáo bay". (Nam Trân dịch) Có lúc trong cảnh bị cùm trói "Thừa cơ rét rệp xông vào đánh" mà Người vẫn "thoát ngục" tìm được một chút niềm vui nâng đỡ tâm hồn mình: "Oanh sớm, mừng nghe hót xóm gần" (Đêm ngủ ở Long Tuyền). Điều đó cho thấy, sự sống và tự do là khát vọng của Người. Thiên nhiên và con người hiện diện trong thơ Bác bằng những nét vẽ đẹp, bình dị, đáng yêu, đó là sự sống mà Bác gắn bó, mến yêu suốt đời. + Hai câu thơ sau cũng thể hiện rõ tinh thần nhân đạo cao cả. Người tù Hồ Chí Minh dường như quên hết hoàn cảnh đau khổ của mình để quan tâm và gắn bó với cuộc sống của nhân dân lao động. Có lẽ vì thế mà người không tìm đến một hình ảnh thiếu nữ khuê các mà tìm đến miêu tả hình ảnh một cô gái lao động và hơn nữa người không chỉ quan tâm tâm đến người lao động nước mình mà quan tâm đến cuộc sống của nhân dân lao động nước người. Thế mới biết tấm lòng nhân ái bao la của Người đạt đến tầm quốc tế và nhân loại. III. KẾT LUẬN “Chiều tối” là bài thơ hay vừa có tính chất cổ điển vừa hiện đại. Tính chất cổ điển không chỉ thể hiện ở thể thơ tứ tuyệt đường luật, viết bằng chữ Hán mà còn cổ điển ở tinh thần và tính hàm súc đúng theo lý luận thơ ca phương Đông là ý tại ngôn ngoại, thể hiện qua các biện pháp nghệ thuật truyền thống như lấy động tả tĩnh, lấy điểm vẽ diện, tả cảnh ngụ tình. Hình ảnh thơ đậm nét tượng trưng ước lệ, cảm hứng tự nhiên phong phú thể hiện sự hòa hợp giữa con người với tự nhiên. Bài thơ mang màu sắc hiện đại ở bút pháp tả thực chân thực, hình ảnh mộc mạc, mạch thơ vận động theo hướng tích cực từ bóng tối đến ánh sáng, từ tàn lụi đến sự sống, từ buồn đến vui, từ lạnh lẽo, cô đơn đến ấm áp tình đời, tthể hiện rõ tinh thần lạc quan cách mạng. Hình ảnh con người hiện lên trong bài thơ không phải là là ẩn sĩ ẩn dật lánh đời mà chan chứa tình đời, tình người. Bài thơ là bức tranh cảnh vật con người nơi miền sơn cước vào lúc chiều tối và thông qua bức tranh thiên nhiên ta cảm nhận được một tình yêu thiên nhiên, tạo vật, tình yêu cuộc sống cũng như ý chí và nghị lực phi thường, vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của người tù chiến sĩ Hồ Chí Minh. Chất trữ tình của thơ ca cổ điển kết hợp với chất thép của một nhà thơ chiến sĩ đã tạo nên sức hấp dẫn riêng bài thơ. LUYỆN ĐỀ Đề số 1: Tính chất cổ điển và hiện đại trong bài thơ “Chiều tối” của Hồ Chí Minh. I. MỞ BÀI - Giới thiệu tác giả, tác phẩm - Dẫn vào vấn đề: Tính chất cổ điển và hiện đại II. THÂN BÀI |