Sức hấp dẫn của thị trường Nhật Bản

Đầu tư và Tiếp thị

Đầu tháng 1/2022, Bộ trưởng Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Nhật Bản Hagiuda Koichi đã công bố sáng kiến đầu tư vào Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á [ASEAN], trong đó tập trung vào 4 lĩnh vực gồm chuỗi cung ứng, kết nối, đổi mới kỹ thuật số và nguồn nhân lực.

[HNMO] - Ngày 9-9, Cơ quan Xúc tiến du lịch Nhật Bản tại Việt Nam [JNTO] đã tổ chức hội thảo trực tuyến về du lịch Nhật Bản, nhằm giới thiệu những cơ hội cho các đơn vị kinh doanh du lịch Việt Nam và Nhật Bản hợp tác, trao đổi khách.

Nhiều nét đặc trưng văn hóa và thiên nhiên của Nhật Bản luôn hấp dẫn du khách Việt Nam.

Tại hội thảo, Cơ quan Xúc tiến du lịch Nhật Bản tại Việt Nam cung cấp thông tin về diễn biến dịch Covid-19 tại Nhật Bản cũng như những chính sách của Chính phủ Nhật Bản đối với hoạt động du lịch.

Hiện nay, Chính phủ Nhật Bản chưa thực hiện "hộ chiếu vắc xin" cho du khách nước ngoài, nhưng đang đẩy mạnh chiến dịch tiêm chủng vắc xin phòng Covid-19, tạo điều kiện để công dân Nhật Bản có đủ tiêu chuẩn về y tế đi tới các nước khác. 

Nhật Bản luôn coi Việt Nam là thị trường du lịch quan trọng, bởi thực tế du khách Việt Nam tới Nhật Bản ngày một đông, đứng đầu so với các nước khác. Trong tương lai, Nhật Bản sẽ đẩy mạnh phát triển du lịch MICE [du lịch kết hợp hội nghị, hội thảo, tổ chức sự kiện, triển lãm], du lịch sinh thái, khám phá thiên nhiên...

Ở chiều ngược lại, Tổng cục Du lịch Việt Nam [Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch] từng đánh giá, Nhật Bản là một trong những thị trường quan trọng của du lịch Việt Nam. Lượng khách du lịch Nhật Bản đến Việt Nam đứng thứ 3 trong các thị trường khách quốc tế đến nước ta, sau Trung Quốc và Hàn Quốc.

Tham gia hội thảo, cơ quan xúc tiến du lịch tại hai tỉnh, thành phố của Nhật Bản là Sapporo [tỉnh Hokkaido] và Osaka đã giới thiệu những tiềm năng, sức hấp dẫn du lịch của hai thành phố này đối với du khách Việt Nam sau dịch Covid-19. Bà Aya Sugimoto, đại diện Cơ quan Xúc tiến sự kiện hội nghị thành phố Sapporo giới thiệu, với lợi thế về địa điểm có thể tổ chức các sự kiện thể thao ngoài trời quanh năm, Sapporo là nơi rất thuận lợi để các đoàn khách Việt Nam tổ chức hoạt động du lịch MICE cũng như khám phá, trải nghiệm cuộc sống, văn hóa của người dân bản địa.

Trong khi đó, bà Asako Shiomi, đại diện Cục Xúc tiến du lịch tỉnh Osaka giới thiệu, địa phương đang xây dựng nhiều khách sạn, cơ sở lưu trú 5 sao với sức chứa lớn để phục vụ khách du lịch sau dịch Covid-19. Với du khách Việt Nam, Osaka là thành phố quen thuộc với nhiều công trình kiến trúc cổ kính đan xen hiện đại, đặc biệt là lễ hội hoa anh đào nổi tiếng.

Tại hội thảo trực tuyến, các cơ quan du lịch tại Nhật Bản cũng đưa ra nhiều thông tin về chính sách hỗ trợ, quà tặng cho các công ty du lịch Việt Nam khi tổ chức những đoàn khách trên 30 người. Thời gian tới, khi dịch được kiểm soát, Chính phủ Nhật Bản và Việt Nam cho phép đón khách quốc tế, Cơ quan Xúc tiến du lịch Nhật Bản tại Việt Nam kỳ vọng, các công ty du lịch của hai nước có thể nhanh chóng tổ chức xúc tiến du lịch, thực hiện đưa - đón khách hai chiều, tạo được thị trường khách quốc tế ổn định để nhanh chóng phục hồi du lịch sau dịch Covid-19.

Đây là lần đầu tiên tôi viết bài chia sẻ ở đây, vì vậy trước tiên xin cho phép tôi được tự giới thiệu. Tên tôi là Kengo Kurokawa và tôi đến từ Nhật Bản. Tôi đã thành lập công ty có tên là Asia Plus Inc. tại Hồ Chí Minh, do bị thu hút bởi tiềm năng kinh doanh tại Việt Nam. Chúng tôi đang vận hành dịch vụ nghiên cứu thị trường trực tuyến hàng đầu tên là Q&Me. Xin hãy ghé thăm trang web của chúng tôi khi các bạn có thời gian.

Bây giờ khi biết được tôi đến từ Nhật Bản, hãy để tôi chia sẻ nhà đầu tư Nhật nhìn nhận thị trường Việt Nam như thế nào.

Chúng ta đã thấy thị trường Việt Nam là quốc gia sản xuất và gia công do lực lượng lao động dồi dào với chi phí phải chăng. Các bạn đã thấy nhiều nhà máy và các công ty phần mềm CNTT làm việc để sản xuất cho cả thế giới. Tuy nhiên, gần đây Nhật Bản bắt đầu càng ngày càng chú ý đến thị trường Việt nam như là thị trường tiêu dùng. Theo khảo sát gần đây được Teikoku Databank Ltd tiến hành, Việt Nam được xếp hạng tư khi các lãnh đạo cao cấp người Nhật được hỏi về "quốc gia có cơ hội kinh doanh tốt", theo sau Trung Quốc, Mỹ và Thái Lan. [Việt Nam cũng được xếp hạng nhất cho quốc gia để sản xuất ở nước ngoài].

Gần đây Nhật Bản bắt đầu càng ngày càng chú ý đến thị trường Việt nam như là thị trường tiêu dùng.

Tôi có thể thấy rằng các kết quả tốt đẹp này xuất phát từ nhiều yếu tố. Một là dân số trẻ của Việt Nam. Việt Nam có gần 90 triệu người với độ tuổi trung bình là 28 tuổi, trong khi độ tuổi trung bình của đất nước tôi là 45 tuổi. Nhật Bản có 120 triệu dân nhưng 25% trong tổng dân số của chúng tôi là trên 65 tuổi và dân số sẽ ngày càng suy giảm ở nước chúng tôi trong tương lai. Thị trường nội địa Nhật Bản đang suy giảm và chúng ta nhìn thấy thị trường Việt Nam non trẻ và lớn mạnh như là một tiềm năng tốt

Yếu tố thứ hai là thành công của một số doanh nghiệp tiêu dùng Nhật Bản tại Việt Nam. Tin tức nổi bật nhất là sự ra mắt thành công của trung tâm mua sắm AEON vào tháng giêng năm nay. Bản tin này được phổ biến rộng rãi đến chúng tôi, thông qua một số phương tiện truyền thông truyền hình đã làm cho rất nhiều nhà kinh doanh phải chú ý đến Việt Nam. Kể từ khi thành lập công ty ở đây, tôi đã có một số lượng yêu cầu kinh doanh kha khá các từ những con người sẵn sàng muốn nhìn thấy tính khả thi của thị trường Việt Nam, đặc biệt là từ lĩnh vực ẩm thực và CNTT.

Yếu tố thứ ba là trên thực tế người Việt Nam có nhiều hứng thú với nền văn hóa Nhật Bản. Cuộc khảo sát gần đây của chúng tôi cho thấy rằng Việt Nam có nhiều hứng thú với nền văn hóa Nhật Bản, so với Hàn Quốc, Trung Quốc và Mỹ. Nền văn hóa của chúng tôi về ẩm thực, công nghệ và hoạt hình được biết đến rộng rãi và rất được quan tâm, trong khi chưa có nhiều cơ hội cho người Việt Nam được tận hưởng chúng một cách đầy đủ. Ví dụ, chỉ có Sushi được biết đến rộng rãi như là món ăn của Nhật, mặc dù chúng tôi có nhiều món ăn khác mà Nhật Bản đã thành công ở các nước khác. Gần đây, chuỗi udon Marugame Seimen udon đã khai trương cửa hàng đầu tiên ở thành phố Hồ Chí Minh và có rất đông thực khách. Việc "đến từ Nhật Bản" có tiềm năng tốt để thu hút nhiều chú ý trong thời gian tới, đó là điều rất đáng khích lệ cho những người đang xem xét đến việc kinh doanh ở đây từ Nhật Bản.

Phải nói rằng, việc nhiều công ty nhằm vào thị trường tiêu dùng Việt Nam và phải thất bại quay về lại Nhật Bản là một thực tế. GDP bình quân đầu người của Việt Nam vẫn còn chưa đạt đến 2,000 USD [Ngay cả Hồ Chí Minh cũng chỉ khoảng 3000 USD, tôi tin là vậy], cón số đó nhỏ hơn so với Thái Lan, Indonesia và Philippines. Phần lớn đều có hầu bao hạn chế trong phân khúc giải trí. Doanh nghiệp Nhật luôn gặp vấn đề để giữ được sự cân bằng hợp lý giữa chất lượng tốt và giá cả, để người dân Việt Nam đổ xô vào.

Doanh nghiệp Nhật luôn gặp vấn đề để giữ được sự cân bằng hợp lý giữa chất lượng tốt và giá cả, để người dân Việt Nam đổ xô vào.

Các công ty Nhật cũng đang phải đấu tranh trong lĩnh vực tiếp thị. Người Việt Nam thực sự linh hoạt và rất khó để xác định hình ảnh của "người Việt Nam ở mức vừa phải". Hoạt động kinh doanh ở đây, tôi nhận thấy chính các phương tiện truyền thông xã hội và truyền miệng chính là chìa khóa. Người dân Việt Nam dành nhiều thời gian cho phương tiện truyền thông xã hội hàng ngày và họ thích thể hiện những trải nghiệm thú vị của mình thông qua các phương tiện đó. Những thứ từ Nhật Bản có tiềm năng tốt để trở thành nguồn tin tức, và chúng ta cần phải lan truyền thông qua phương tiện truyền thông xã hội. Đây cũng là một cơ hội tốt cho các nhà tiếp thị Việt Nam đang làm việc với các doanh nghiệp Nhật Bản.

Công ty của tôi chuyên về nghiên cứu thị trường. Chúng ta càng tìm hiểu về Việt Nam, chúng ta càng thấy nhiều cơ hội hơn ở thị trường này. Việc am hiểu người tiêu dùng ở đây sẽ mở ra cánh cửa cho các doanh nghiệp mới. Tôi đã bị đất nước này thu hút cũng như nhiều người Nhật khác.

Kengo Kurokawa, Asia Plus Inc.

Với dân số gần 126 triệu người và thu nhập bình quân đầu người khoảng 43.000 USD/người, Nhật Bản là thị trường có sức tiêu thụ lớn.

Tuy vậy, theo số liệu của Cơ quan Hải quan Nhật Bản, nhập khẩu từ Việt Nam mới chỉ chiếm khoảng 3% trong tổng kim ngạch nhập khẩu của Nhật Bản từ thế giới. Điều này cho thấy hàng Việt Nam vẫn còn nhiều dư địa và tiềm năng để thâm nhập vào thị trường Nhật Bản.

[Hình ảnh minh họa]

Nhật Bản có nhu cầu lớn đối với hàng nông lâm thủy sản, dệt may, da giày… của Việt Nam. Năm 2020 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản đạt 19,3 tỷ USD, trong đó xuất khẩu các mặt hàng chủ lực là: hàng dệt may 3,5 tỷ USD, phương tiện vận tải và phụ tùng 2,4 tỷ USD, hàng máy móc thiết bị 2 tỷ USD, thủy sản 1,4 tỷ USD, gỗ và sản phẩm gỗ 1,3 tỷ USD…, ngoài ra xuất khẩu hàng rau quả 128 triệu USD, cà phê 181 triệu USD, sắn và sản phẩm từ sắn 1,4 triệu USD…

Trong những năm gần đây đang diễn ra làn sóng các doanh nghiệp Nhật Bản chuyển hướng đầu tư sang Việt Nam. Các doanh nghiệp Nhật tăng cường xây dựng nhà máy, sản xuất sản phẩm ở Việt Nam rồi xuất khẩu ngược lại về Nhật Bản. Bên cạnh đó số lượng người Việt Nam sinh sống tại Nhật Bản cũng tăng nhanh trong một thập kỷ qua, khiến cho nhu cầu tiêu thụ hàng nông thủy sản – thực phẩm Việt Nam ngày càng gia tăng.

Để xuất khẩu thành công sang Nhật Bản doanh nghiệp cần hiểu rõ về thị trường. Thị trường Nhật Bản có một số đặc điểm nổi bật như sau:

Tiêu chuẩn kỹ thuật mang tính đặc thù

Mặc dù theo đuổi chính sách thương mại tự do [cắt giảm thuế quan theo tinh thần của WTO], Nhật Bản vẫn áp dụng các cơ chế phi thuế quan nhằm bảo hộ ngành sản xuất trong nước. Trong các rào cản như vậy, Chính phủ Nhật Bản thường lồng những lý do chính đáng như bảo vệ các ngành sản xuất trong nước trước những hành động thương mại không lành mạnh [chống bán phá giá, chống trợ cấp], bảo vệ an toàn sức khỏe con người, an toàn môi trường… Nhìn chung các hàng hóa thông thường được tự do nhập khẩu vào Nhật Bản, tuy nhiên Chính phủ Nhật áp dụng các biện pháp cấm nhập khẩu, hạn chế nhập khẩu, cấp giấy phép nhập khẩu… đối với các hàng hóa ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, an ninh lương thực, hàng hóa trái thuần phong mỹ tục hay vi phạm quy định bằng sáng chế, v.v…

Hàng hóa nước ngoài muốn được nhập khẩu vào Nhật bắt buộc phải có giấy chứng nhận việc đáp ứng các tiêu chuẩn cao về chất lượng đã đặt ra. Đối với hàng nông lâm thủy sản cần phải đảm bảo các tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, kiểm dịch động thực vật, và đòi hỏi phải được sản xuất, nuôi trồng theo các tiêu chuẩn GAP, HACCP hay JAS – Tiêu chuẩn nông nghiệp Nhật; trong khi hàng công nghiệp cần phải đáp ứng điều kiện về quy cách sản phẩm, quy chuẩn kỹ thuật, quy định ghi nhãn hay các quy định ghi trong JIS – Tiêu chuẩn công nghiệp Nhật Bản… Các lô hàng vi phạm quy định về chất lượng sẽ bị tiêu hủy hoặc trả lại, đồng thời hải quan Nhật Bản sẽ tăng cường tần suất và mức độ kiểm tra hàng hóa trong những lần sau, có thể gây ra nhiều phiền phức và làm tăng chi phí cho doanh nghiệp xuất khẩu.

Thực tế cho thấy nếu chất lượng của một sản phẩm đã được thị trường Nhật Bản chấp thuận thì sản phẩm đó hoàn toàn có thể cạnh tranh tốt được ở các thị trường khác.

Hệ thống kênh phân phối phức tạp

Hệ thống phân phối hàng hóa tại Nhật Bản phức tạp với truyền thống lâu đời gồm nhiều cấp khác nhau, với các chức năng riêng biệt. Ví dụ có những chuỗi siêu thị của Nhật Bản không nhập khẩu hàng trực tiếp từ nhà cung ứng nước ngoài, mà chỉ mua hàng từ các nhà bán buôn trung gian hoặc từ các đầu mối nhập khẩu lớn của Nhật Bản. Mặc dù việc này có thể gia tăng chi phí của các siêu thị [so với việc mua hàng trực tiếp từ nhà cung ứng nước ngoài] nhưng đây là một đặc tính lâu đời khó có thể thay đổi trong văn hóa kinh doanh tại Nhật Bản. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp nước ngoài muốn xuất khẩu hàng vào thị trường Nhật phải thiết lập được mối quan hệ tốt với các đầu mối nhập khẩu lớn của Nhật Bản. Nhìn chung hiện nay việc tiếp cận hệ thống kênh phân phối hàng hóa trên thị trường Nhật Bản của doanh nghiệp Việt Nam còn yếu do nhiều khó khăn đặc thù. Doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu xuất khẩu cho các công ty thương mại và các nhà bán buôn Nhật Bản, trong khi việc tiếp cận các kênh khác như hệ thống cửa hàng bán lẻ, các nhà chế biến công nghiệp còn rất hạn chế, nhất là hiện nay hầu hết các công ty Việt Nam chưa có hệ thống đại diện hoặc chi nhánh tại thị trường Nhật Bản.

Chi phí xúc tiến thương mại, giao thương, điều tra thị trường… đắt đỏ

- Chi phí ăn, ở: Tokyo nằm trong top các thành phố có chi phí sống đắt đỏ nhất thế giới năm 2020. Giá 1 đêm ở khách sạn business tối thiểu là hơn 1 triệu VND.

- Chi phí đi lại: Phí tàu điện cao [Ví dụ: vé trọn gói đi trong ngày của tàu điện ngầm trong khu vực trung tâm Tokyo là 600 Yên ~ 120.000 VND, của tàu điện thường là 900 yên ~ 180.000 VND, con số cao gấp khoảng 2 - 3 lần so với chi phí đi tàu điện ở Bắc Kinh, phí taxi khoảng 120.000 – 150.000 VND/2km, gấp 2 lần phí taxi ở Hàn Quốc].

- Chi phí vận tải hàng hóa, gửi hàng mẫu tốn kém, đặc biệt chi phí vận tải đường biển tăng cao trong giai đoạn dịch bệnh hiện nay, chi phí đường hàng không tốn kém. Chi phí thuê điều tra hoặc mua dữ liệu thị trường của các công ty Nhật Bản chuyên điều tra thị trường cũng là rất cao.

Văn hóa kinh doanh, thị hiếu tiêu dùng đặc thù

- Thị hiếu tiêu dùng: từ trước đến nay đối với người dân Nhật Bản khi mua hàng thì chất lượng là yếu tố được quan tâm nhất. Các hàng hóa được sản xuất nội địa tại Nhật có chất lượng cao, điều này tạo ra tâm lý tiêu dùng của người Nhật luôn đòi hỏi các sản phẩm phải có chất lượng tốt, trong đó có các sản phẩm nhập khẩu từ nước ngoài. Tiếp đến người Nhật cũng chú trọng đến giá cả, mẫu mã, kích thước, màu sắc, công dụng… của sản phẩm. Ví dụ: nhịp sống nhanh, công việc bận bịu khiến nhiều người ưa chuộng các sản phẩm thực phẩm ăn liền tiết kiệm thời gian; màu sắc quần áo thường chủ đạo là những gam màu trắng, đen, xám…; đồ nội thất trong nhà có kích thước nhỏ để phù hợp với kích thước các căn nhà ở Nhật, bàn ghế gỗ có thể gập và cất gọn lại... Nhìn chung thị hiếu tiêu dùng của người Nhật rất đa dạng, coi trọng chất lượng và tính tiện dụng của sản phẩm nhằm đáp ứng mọi nhu cầu trong cuộc sống hàng ngày. Các doanh nghiệp nước ngoài muốn có chỗ đứng tại thị trường Nhật cần nghiên cứu tìm hiểu rõ về thị hiếu của người tiêu dùng, từ đó đa dạng hóa mẫu mã, hình thức sản phẩm cung với việc tìm cách nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành.

- Về văn hóa kinh doanh của Nhật Bản, khi gặp gỡ đối tác Nhật lần đầu tiên thì doanh nghiệp Việt Nam cần nhớ mang theo danh thiếp, kèm theo catalogue, hồ sơ giới thiệu công ty, hàng mẫu [nếu bằng tiếng Nhật là tốt nhất, hoặc ít nhất phải có tiếng Anh]… để giới thiệu lịch sự về bản thân, về doanh nghiệp và tạo niềm tin cho đối tác. Cần đảm bảo đúng giờ và giữ lời khi đã hứa hẹn một việc gì đó với đối tác. Ngoài ra nhiều nhân viên các công ty Nhật thường không làm việc vào những ngày cuối tuần/ngày nghỉ, và thường liên lạc công việc qua email hoặc điện thoại công ty chứ không phải bằng điện thoại di động.

- Bắt đầu thiết lập một quan hệ hợp tác kinh doanh hoàn toàn mới với doanh nghiệp Nhật Bản không hề đơn giản, nhiều trường hợp phải có sự giới thiệu của bên thứ ba uy tín thì doanh nghiệp Nhật mới tin tưởng để trao đổi. Và khi đã có mối quan hệ hợp tác với đối tác Nhật thì cần chú trọng duy trì mối quan hệ đó một cách lâu dài, bền vững. Ngoài ra trong quá trình đàm phán/trao đổi, đối tác Nhật có thể đưa ra các yêu cầu như thay đổi mẫu mã hoặc kích thước sản phẩm cho phù hợp với thị hiếu của người Nhật. Bởi vì hiểu rõ về thị trường nên các đối tác Nhật mới đưa ra yêu cầu thay đổi như vậy và doanh nghiệp Việt Nam nên cố gắng tích cực đáp ứng những yêu cầu đó. Nếu những đòi hỏi phía đối tác đưa ra quá khắt khe, doanh nghiệp Việt Nam có thể trao đổi lại một cách cụ thể với phía đối tác Nhật để tìm ra phương hướng giải quyết phù hợp nhất.

- Tận dụng các cam kết cắt giảm thuế trong các Hiệp định thương mại tự do mà Việt Nam và Nhật Bản cùng là thành viên: Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam – Nhật Bản [VJEPA], Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện ASEAN – Nhật Bản [AJCEP], Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương [CPTPP]...

Nguồn: vietnamexport.com [05/11/2021]

Video liên quan

Chủ Đề