Tại sao có sự sống trên Trái đất

TTO - Các nhà khoa học đã tìm ra câu trả lời cho vấn đề vì sao Trái đất có sự sống. Họ cho rằng tác nhân giúp hình thành protein và đặt nền móng sự sống của Trái đất là do sóng xung kích từ sao chổi bắn vào Trái đất.

Phóng to

Hình ảnh mô tả sao chổi tác động lên Trái đất bằng những sóng xung kích - Ảnh: Daily Mail

Một số thử nghiệm được các nhà khoa học thực hiện trong phòng thì nghiệm cho thấy các axit amino-những tế bào hữu cơ cấu tạo nên protein - có thể tồn tại và sống sót sau những trận xung chấn cực mạnh của sao chổi.

Các chuyên gia cho biết trong giai đoạn này, Trái đất nằm trong tầm ngấm của sao chổi và các thiên thạch. Bằng chứng sống tồn tại cho đến thời điểm này là những hố sâu lồi lõm [miệng núi lửa] trên bề mặt của Mặt trăng.

Nhưng điều đặc biệt, khi sao chổi tác động lên Trái đất, các axit amin được cung cấp nguồn năng lượng cần thiết để liên kết với nhau và tạo ra tế bào protein. Mà protein là nguồn duy nhất cho phép tất cả sinh vật từ vi khuẩn đến con người tồn tại.

Chính vai trò xúc tác của sao chổi đã giải thích được vì sao sự sống lại xuất hiện nhanh chóng trong giai đoạn cuối của thời kỳ Trái đất bị sao chổi bắn phá một cách dữ dội cách đây 3,8 tỉ năm.

Tiến sĩ Jennifer Blank thuộc Trung tâm nghiên cứu Nasa và Trung tâm nghiên cứu Ames ở Moffett Field, California, Mỹ cho biết: “Sao chổi chính là phương tiên chuyên chở lý tưởng để cung cấp nguyên liệu cho sự tiến hóa và kết quả chính là cuộc sống với những chất khởi nguồn sự sống như axit amino, nước và năng lượng”.

1. Vị trí hoàn hảo

Đây chính là lý do con người sinh sống trên Trái đất thay vì một hành tinh nào khác trong vũ trụ bao la. Thế giới của chúng ta xoay quanh Mặt trời ở khoảng cách “lý tưởng” nên nhiệt độ không bao giờ quá nóng hoặc quá lạnh.

Hệ Mặt trời

Vùng sinh sống chứa nước tồn tại ở dạng chất lỏng - yếu tố cơ bản hình thành sự sống. Ngay cả trên sao Hỏa hay sao Kim, chưa ai có thể phát hiện sự tồn tại của các đại dương ngoại trừ Trái đất.

Mục lục

Mục lục

Những tư tưởng về sự sống đầu tiên: Aristotle, Pasteur, Darwin, OparinSửa đổi

Vào thế kỉ thứ 4 trước Công nguyên, Aristotle đã trình bày dựa trên những điều mà con người thời đó biết được, ít nhất là ở châu Âu, rằng những vật thể sống phát sinh từ những vật thể không sống. Ví dụ như bọ chét và chuột phát sinh từ những đống rác cũ hay bột mì, những con giòi và ruồi trong thịt thối, rệp trong sương. Cuộc sống, nói ngắn gọn hơn, là bắt nguồn từ sự phát triển tự nhiên.

Những nhà khoa học đầu thế kỉ 18 đã lật đổ những học thuyết của Aristotle, nhưng phải đến những thí nghiệm của Louis Pasteur vào năm 1862 người ta mới chắc chắn rằng một nơi đã được vô trùng thì sẽ vĩnh viễn không có bất cứ sinh vật nào phát sinh trong nó được nữa. Ngoài ra ông cũng cho rằng sự sống chỉ có thể phát sinh từ những cơ thể sống phức tạp khác. Những công trình của Pasteur có thể được tóm tắt trong một định luật mà ngày nay chính là nền tảng của thuyết tiến hóa hiện đại: Định luật phát sinh sinh vật: "Mọi cuộc sống đều bắt đầu từ trứng" [nguyên bản tiếng Latinh omne vivum ex ovo]. Và thực tế thuyết tiến hóa sinh học không hề có nhiệm vụ chứng minh sự sống từ đâu ra [cũng giống như thuyết vạn vật hấp dẫn không có nhiệm vụ chứng minh trọng lực từ đâu xuất hiện], nó chỉ có nhiệm vụ giải thích sự đa dạng mà thống nhất và thống nhất trong sự đa dạng của sự sống. Tuy nhiên sự sống hoàn toàn có thể bắt nguồn từ các chất hữu cơ đơn giản [abiogenesis].Trong tiếng Việt gọi là tiến hóa hóa học[1][2][3]

Ngành khoa học sinh vật hiện đại đang phải đương đầu với một câu hỏi cao hơn: sự sống bắt nguồn "đầu tiên" ở đâu? Pasteur đã chứng minh rằng những sinh vật bậc cao không thể phát sinh một cách tự nhiên. Lý thuyết về tiến hóa của Charles Darwin đã đưa ra một cơ chế để giải thích điều này: sinh vật phải mất hàng triệu năm để tiến hóa từ những dạng cơ bản, nhưng nó sẽ không mang những đặc điểm như lúc trước nữa, nhưng những sinh vật cơ bản ấy sẽ từ đâu ra? Darwin rất quan tâm đến vấn đề này. Trong một lá thư gửi cho Joseph Dalton Hooker ngày 1 tháng 2 năm 1871, Darwin đã cho rằng sự sống bắt nguồn từ "một cái hồ nước ấm áp có chứa đầy các loại muối ammonia và phosphat, ánh sáng, nhiệt độ, điện,... để các hợp chất protein có thể hình thành và trải qua những biến đổi phức tạp". Tiếp theo đó, Darwin tìm cách lý giải luận điểm của mình "vào bây giờ, những điều kiện như thế nếu tồn tại sẽ bị biến mất ngay lập tức, ngoại trừ trước khi tất cả các sinh vật sống được sinh ra". Nói một cách khác, sự khai sinh các dạng sống phức tạp có thể một phần nào ngăn cản sự tạo thành những hợp chất hữu cơ cơ bản trên Trái Đất, một điều kiện khiến cho việc đi tìm câu trả lời cho câu hỏi trên nằm trong phòng thí nghiệm.

Câu trả lời cho câu hỏi của Darwin vẫn nằm ngoài tầm hiểu biết của khoa học hiện đại, và hầu như không có một tiến bộ nào trong lĩnh vực này vào thế kỉ 19. Năm 1936, Aleksandr Ivanovich Oparin, trong cuốn sách nổi tiếng của mình "The Origin of Life on Earth" [Nguồn gốc của sự sống trên Trái Đất], đã cho thấy rằng sự hiện diện của không khí chứa oxy và những hình thái sống phức tạp đã ngăn cản những chuỗi phản ứng có thể tạo nên sự sống. Oparin còn cho rằng, một "món súp nguyên thủy" với những hợp chất hữu cơ chỉ có thể tạo thành ở những nơi thiếu oxy, qua ánh sáng Mặt Trời. Sau đó, ông cho rằng chính những hợp chất hữu cơ cao phân từ hòa tan trong nước thành các dung dịch keo, các dung dịch keo này có thể hòa tan vào nhau tạo thanh những giọt rất nhỏ gọi là coacervate. Những giọt này có thể lớn lên nhờ hấp thụ các giọt khác, có thể sinh sản khi có những tác động cơ giới chia nó ra làm các hạt nhỏ hơn, do đó nó có các tính chất cơ bản của một tế bào nguyên thủy. Tất cả những học thuyết hiện đại đều khởi đầu từ những luận điểm của Oparin[4][5].

Video liên quan

Chủ Đề