Tại sao gọi là sông Hoàng Hà

Và vai trò của nó trong lịch sử Trung Quốc

Nhiều nền văn minh vĩ đại của thế giới đã lớn lên xung quanh các con sông hùng vĩ - Ai Cập trên sông Nile, nền văn minh xây dựng Mound trên sông Mississippi, nền văn minh sông Indus trong những gì bây giờ là Pakistan - và Trung Quốc đã có may mắn có hai con sông lớn: sông Dương Tử, và Hoàng Hà hoặc Hoàng Hà.

Sông Hoàng Hà còn được gọi là "cái nôi của nền văn minh Trung Hoa" hay "Sông Mẹ". Thông thường là một nguồn đất màu mỡ phong phú và nước tưới, sông Hoàng Hà đã tự biến đổi hơn 1.500 lần trong lịch sử được ghi lại thành một cơn sóng dữ dội cuốn trôi toàn bộ làng mạc.

Kết quả là, dòng sông có một vài biệt danh kém tích cực hơn, chẳng hạn như "nỗi buồn của Trung Quốc" và "Tai họa của người Hán". Trong nhiều thế kỷ, người dân Trung Quốc đã sử dụng nó không chỉ cho nông nghiệp mà còn là một tuyến giao thông và thậm chí là vũ khí.

Sông Hoàng Hà bắt nguồn từ dãy núi Bayan Har thuộc tỉnh Thanh Hải ở phía tây Trung Quốc và đi qua chín tỉnh trước khi đổ bùn vào biển Hoàng Hải ngoài khơi tỉnh Sơn Đông. Đó là sông thứ sáu-dài nhất thế giới, với chiều dài khoảng 3.395 dặm. Con sông chảy qua những vùng đồng bằng của Trung Quốc, lấy một lượng lớn bùn, màu nước và đặt tên cho sông.

Sông Hoàng Hà ở Trung Quốc cổ đại

Lịch sử ghi chép của nền văn minh Trung Quốc bắt đầu trên bờ sông Hoàng Hà với triều đại Hạ từ năm 2100 đến năm 1600 trước Công nguyên Theo "Hồ sơ của nhà sử học vĩ đại" của Sima Qian và "Cổ điển của các nghi thức", một số bộ lạc khác nhau được hợp nhất thành Vương quốc Xia để tìm một giải pháp để tàn phá lũ lụt trên sông.

Khi một loạt các đê chắn sóng thất bại trong việc ngăn chặn lũ lụt, người Xia thay vào đó đào một loạt các kênh đào để xả nước dư thừa vào vùng nông thôn và sau đó xuống biển.

Thống nhất phía sau các nhà lãnh đạo mạnh mẽ, và có thể sản xuất thu hoạch dồi dào kể từ khi lũ sông Hoàng Hà không còn phá hủy cây trồng của họ thường xuyên như vậy, Vương quốc Xia cai trị Trung Quốc trong nhiều thế kỷ.

Triều đại Shang đã thành công trong khoảng 1600 cho đến năm 1046 trước Công nguyên và cũng tập trung chính nó vào thung lũng sông Hoàng Hà. Do sự giàu có của vùng đất dưới lòng đất màu mỡ, các Shang phát triển một nền văn hóa phức tạp gồm các hoàng đế mạnh mẽ, bói toán bằng cách sử dụng xương oracle và tác phẩm nghệ thuật như chạm khắc ngọc đẹp.

Trong suốt Mùa Xuân và Mùa Thu của Trung Quốc từ năm 771 đến năm 478 trước Công nguyên, nhà triết học vĩ đại Khổng Tử được sinh ra tại làng Tsou trên sông Hoàng Hà ở Sơn Đông. Ông sẽ có ảnh hưởng mạnh mẽ đến văn hóa Trung Quốc như chính dòng sông.

Vào năm 221 TCN, Hoàng đế Tần Hoàng Huangdi đã chinh phục các quốc gia chiến tranh khác và thành lập triều đại Tần thống nhất. Các vua Tần dựa vào kênh Cheng-Kuo, hoàn thành vào năm 246 trước công nguyên để cung cấp nước tưới và tăng năng suất cây trồng, dẫn đến dân số ngày càng tăng và nhân lực để đánh bại các vương quốc đối thủ. Tuy nhiên, nước đầy bùn của sông Hoàng Hà nhanh chóng bị tắc nghẽn kênh. Sau cái chết của Qin Shi Huangdi vào năm 210 TCN, Cheng-Kuo đã hoàn toàn im lặng và trở nên vô dụng.

Sông Hoàng Hà trong thời Trung cổ

Vào năm 923 sau Công Nguyên, Trung Quốc bị lôi kéo vào năm triều đại hỗn loạn và thời kỳ mười vương quốc. Trong số những vương quốc đó là Hậu Lương và Hậu Đường .

Như Tang quân đội tiếp cận vốn Liang, một vị tướng tên là Tuấn Ning quyết định vi phạm đê sông Hoàng Hà và lũ 1.000 dặm vuông của Vương quốc Liang trong một nỗ lực tuyệt vọng để ngăn chặn Tang. Gambit của Tuấn đã không thành công; bất chấp lũ lụt hoành hành, nhà Đường đã chinh phục được Lương.

Trải qua nhiều thế kỷ sau, sông Hoàng Hà đã ùn tắc và thay đổi nhiều lần, đột nhiên phá vỡ các ngân hàng và làm chết đuối các trang trại và làng mạc xung quanh. Việc tái định tuyến chính diễn ra vào năm 1034 khi con sông chia thành ba phần. Con sông nhảy về phía nam một lần nữa vào năm 1344 trong những ngày suy tàn của triều đại nhà Nguyên.

Năm 1642, một nỗ lực khác để sử dụng con sông chống lại kẻ thù đã phản tác dụng nặng nề. Thành phố Khai Phong đã bị bao vây bởi quân đội nổi loạn nông dân của Li Zicheng trong sáu tháng. Thống đốc thành phố đã quyết định phá vỡ các tuyến đê với hy vọng rửa sạch quân đội bao vây.

Thay vào đó, con sông nhấn chìm thành phố, giết chết gần 300.000 công dân của Kaifeng 378.000 người ngay và để những người sống sót dễ bị nạn đói và bệnh tật. Thành phố đã bị bỏ hoang trong nhiều năm sau sai lầm nghiêm trọng này. Bản thân nhà Minh đã rơi xuống những kẻ xâm lược Manchu , người đã thành lập triều đại nhà Thanh , chỉ hai năm sau đó.

Sông Hoàng Hà ở Trung Quốc hiện đại

Một sự thay đổi ở phía bắc của dòng sông vào đầu những năm 1850 đã giúp cho cuộc nổi dậy Taiping , một trong những cuộc khủng hoảng nông dân nguy hiểm nhất của Trung Quốc. Khi dân số lớn hơn bao giờ hết dọc theo bờ sông nguy hiểm, do đó, quá số người chết do lũ lụt. Vào năm 1887, một trận lũ lớn ở sông Hoàng Hà đã giết chết khoảng 900.000 đến 2 triệu người, khiến nó trở thành thảm họa thiên nhiên tồi tệ thứ ba trong lịch sử. Thảm họa này đã giúp thuyết phục người dân Trung Quốc rằng triều đại nhà Thanh đã mất đi sự ủy thác của Thiên đàng .

Sau khi nhà Thanh sụp đổ vào năm 1911, Trung Quốc rơi vào hỗn loạn với Nội chiến Trung Quốc và Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ hai, sau đó Hoàng Hà tấn công một lần nữa, thậm chí còn khó khăn hơn. Lũ lụt sông Hoàng Hà năm 1931 đã giết chết từ 3,7 triệu đến 4 triệu người, làm cho nó trở thành trận lũ lụt chết người nhất trong lịch sử nhân loại. Sau đó, với chiến tranh hoành hành và các loại cây trồng bị phá hủy, những người sống sót báo cáo đã bán con cái của họ thành mại dâm và thậm chí còn phải ăn thịt người để sống sót. Những kỷ niệm về thảm họa này sau đó sẽ truyền cảm hứng cho chính phủ Mao Trạch Đông đầu tư vào các dự án kiểm soát lũ lớn, chẳng hạn như đập Tam Hiệp trên sông Dương Tử.

Một trận lụt khác vào năm 1943 đã quét sạch các loại cây trồng ở tỉnh Hà Nam, khiến 3 triệu người phải chết đói.

Khi Đảng Cộng sản Trung Quốc lên nắm quyền vào năm 1949, nó bắt đầu xây dựng các đê và đê mới để giữ Sông Vàng và Sông Dương Tử trở lại. Kể từ thời điểm đó, lũ lụt dọc theo sông Hoàng Hà vẫn là một mối đe dọa, nhưng không còn giết chết hàng triệu dân làng hay hạ chính phủ.

Sông Hoàng Hà là trung tâm của nền văn minh Trung Quốc. Vùng nước của nó và đất phong phú nó mang lại sự phong phú nông nghiệp để hỗ trợ dân số khổng lồ của Trung Quốc. Tuy nhiên, "Sông mẹ" này luôn có mặt tối. Khi mưa lớn hoặc bùn đóng lên kênh sông, cô có sức mạnh để nhảy ngân hàng của mình và lây lan cái chết và sự hủy diệt trên khắp Trung Quốc.

Luyện tập – Giải bài 1 trang 52 Lịch Sử và Địa Lí lớp 6 sách Chân trời sáng tạo – Bài 9: Trung Quốc từ thời cổ đại đến thế kỉ VII

Câu hỏi:  Theo em tại sao Hoàng Hà được gọi là “ sông Mẹ của Trung Quốc” Từ đó em hãy kể tên “ sông Mẹ “ của Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ

Trả lời: Sông Hoàng Hà được coi là sông Mẹ của Trung Quốc vì tầm quan trọng của Hoàng Hà đối với người Trung Quốc, điều này được thể hiện như sau: Phù sa của sông Hoàng Hà màu mỡ, tạo nên một vùng đồng bằng châu thổ màu mỡ phì nhiêu, thuận lợi cho việc trồng trọt khi công cụ sản xuất còn tương đối thô sơ. Chính vì vậy nơi đây đã trở thành cái nôi của văn minh Trung Quốc.

– Sông Mẹ của các quốc gia Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ.

Sông Mẹ

Quốc gia

Sông Nin

Quảng cáo

Ai Cập

Sông Ơ-phơ-rát và sông Ti-gơ-rơ

Lưỡng Hà

Sông Ấn, sông Hằng

Ấn Độ



    Chuyên mục:
  • ,,Lịch Sử và Địa Lí 6 sách Chân trời sáng tạo

Quảng cáo

05/04/2019 | Views: 31896

Rất hữu ích: 43 | Hữu ích: 78 | Không hữu ích: 0

Trung Quốc có hàng ngàn con sông lớn nhỏ, nhưng có hai con sông quan trọng nhất là sông Hoàng Hàsông Trường Giang [hay sông Dương Tử]. Hai con sông này đều chảy theo hướng Tây - Đông và hàng năm đem phù sa về bồi đắp cho những cánh đồng ở phía đông Trung Quốc. Và đặc biệt là con sông Hoàng Hà, nơi "sản sinh" ra nền văn minh Trung Hoa được cả nhân loại biết đến.

>>> Đọc thêm: Những Địa Danh Đẹp Nhất Trung Quốc 


 

Con sông Hoàng Hà giàu phù sa - nơi "sản sinh" ra nền văn minh Trung Hoa rực rỡ


Dòng Sông Bắt Nguồn Từ Đâu?

Hoàng Hà có nghĩa là "dòng sông màu vàng", chảy qua chín tỉnh của CHND Trung Hoa, bắt nguồn từ núi Ba Nhan Khách Lạp [Bayan Har]

 thuộc dãy núi Côn Lôn trên cao nguyên Thanh Tạng, phía tây tỉnh Thanh Hải. Sông Hoàng Hà đổ ra Bột Hải ở vị trí gần thành phố Đông Dinh thuộc tỉnh Sơn Đông, là con sông dài thứ hai châu Á xếp sau sông Trường Giang [Dương Tử].

Với chiều dài 5.464 km, sông Hoàng Hà xếp thứ sáu thế giới về chiều dài. Con sông này cung cấp nguồn nước tưới tiêu cho một khu vực rộng 944.970km2, nhưng do tính chất khô cằn chủ đạo của vùng này [không giống như phần phía đông thuộc Hà Nam và Sơn Đông] nên lưu lượng nước tương đối nhỏ. Lưu lượng nước trung bình của Hoàng Hà, chỉ bằng 1/15 của sông Trường Giang và 1/5 của sông Châu Giang, mặc dù khu vực tưới tiêu của con sông Châu Giang chưa bằng một nửa của Hoàng Hà [theo nguồn Wikipedia].


 

Hoàng Hà có nghĩa là "dòng sông màu vàng", chảy qua chín tỉnh của CHND Trung Hoa


Nhìn toàn cảnh, Hoàng Hà tựa như một con sư tử đang thu mình lao về phía trước. Theo dòng chảy của sông Hoàng Hà, từ cao nguyên Thanh Tạng kéo đến hai tỉnh Thanh Hải và Cam Túc núi non trùng điệp; khu vực Sơn Tây và Thiểm Tây lại nhiều núi cao và hang động; khu vực Ninh Hạ và Nội Mông sông nước mênh mang, bình nguyên bao la; vượt qua động Long Môn đi về phía đông của núi Tây Nhạc Hoa Sơn, chúng ta có thể đến được bình nguyên Hoa Bắc, nếu đi tiếp có thể đặt chân tới vùng duyên Hoa Bắc, nếu đi tiếp có thể đặt chân tới vùng duyên hải biển Bột Hải.

>>> Đọc thêm: Hồ Thanh Hải - Hồ Nước Mặn Lớn Nhất Trung Quốc 

"Cái Nôi" Của Nền Văn Minh Trung Hoa 

Văn minh Hoàng Hà, theo các nhà sử học và khảo cổ học, bắt đầu từ khoảng 2.500 TCN đến 1.066 TCN và được chia thành các giai đoạn sau: Thời kỳ Tam hoàng Ngũ đế; nhà Hạ và nhà Thương. Lãnh thổ Trung Quốc thời cổ đại nhỏ hơn bây giờ rất nhiều. Địa hình Trung Quốc rất đa dạng và phong phú, phía Tây có nhiều núi và cao nguyên, khí hậu khô hanh, phía đông có các bình nguyên châu thổ phì nhiêu, thuận lợi cho việc làm nông nghiệp.

Trung Quốc là một nơi rất sớm đã có loài người cư trú. Năm 1929, ở Chu Khẩu Điếm [Tây Nam thành Bắc Kinh], giới khảo cổ học đã phát hiện được xương hóa thạch của một loài người vượn sống cách đây 400.000 năm. Về mặt dân tộc học, cư dân lưu vực sông Hoàng Hà thuộc chủng Mongoloid, thời Xuân Thu được gọi là Hoa Hạ hay nói ngắn gọn là Hoa hoặc Hạ.


 

Di tích khảo cổ ở Chu Khẩu Điếm


Trải qua khoảng 1500 năm đến khi Tần Doanh Chính [Tần Thủy Hoàng] xưng đế, lãnh thổ của Hoa tộc mới được mở rộng đáng kể về phía nam, lấn chiếm lưu vực sông Dương Tử, đồng hóa các dân tộc nhỏ hơn để mở mang bờ cõi, hình thành nên đế quốc của riêng họ.
 

Tần Thủy Hoàng - người thống nhất lãnh thổ Trung Hoa


Tiền thân của dân tộc Hán là dân tộc Hoa, do đó dân Hán đều tôn Hoàng đế [còn gọi là Viêm Hoàng] là thủy tổ và coi mình là hậu duệ của Hoàng đế. Khi đó, dân tộc Hoa hầu hết cư trú tại vùng Trung Nguyên. Trung Nguyên theo quan niệm của người dân đương thời là trung tâm của vũ trụ, nên từ cái tên Trung Hoa cũng khai sinh từ đó.


>>> Đọc thêm: 5 Điều Bí Mật Về Lăng Mộ Tần Thủy Hoàng Ở Tây An

Dưới thời kì quân chủ ở Trung Quốc, tên nước được gọi theo tên triều đại. Danh từ "Trung Quốc" được hiểu như một quốc gia rộng lớn bắt đầu từ đây, đến mãi đời nhà Thanh về cơ bản lãnh thổ của Hán tộc mới giống hiện nay, trải dài gần 10 triệu km2 với gần 1,4 tỉ người.

Cuối thời kỳ Đá Mới, vùng đồng bằng châu thổ sông Hoàng Hà bắt đầu trở thành một trung tâm văn hóa, nơi những làng xã đầu tiên được thành lập, những di tích khảo cổ đáng chú ý nhất được tìm thấy tại di chỉ Bán Pha, Tây An. Các triều đại Tần, Hán, Đường, Tống, rồi tiếp đến thời Thành Cát Tư Hãn thống lĩnh thiên hạ đã đưa uy danh dân tộc Trung Hoa đến đỉnh cao huy hoàng. 


 

Sông Hoàng Hà xếp thứ sáu thế giới về chiều dài


Tình trạng lụt lội của Hoàng Hà tồi tệ hơn rất nhiều so với khu vực dọc Trường Giang về hướng Nam, con sông này đã ít nhất 5 lần đổi dòng và các con đê bao bọc đã vỡ không dưới 1.500 lần nhưng dòng nước của nó đã bồi đắp cho đất đai thêm màu mỡ, tạo điều kiện cho sự phát triển của nông nghiệp thô sơ, việc trồng trọt cũng đã phát triển.

>>> Đọc thêm: Thành Đô - Đến Rồi Không Muốn Đi

Những người dân sống gần sông Hoàng Hà phải chống chịu với thiên nhiên khắc nghiệt hơn để chế ngự lũ lụt và tưới tiêu mùa màng và có lẽ điều này là nguồn động lực để cho những nỗ lực tổ chức kết cấu làng xã chặt chẽ hơn.

Cùng với phát triển nông nghiệp lúa nước, cư dân ngày càng đông đúc, tăng khả năng tích trữ và tái phân phối lương thực, đủ cung cấp cho những người thợ thủ công cũng như quan lại, biến vùng đồng bằng phía bắc Trung Quốc cũng trở thành vùng đồng bằng lớn nhất với số dân cư tập trung đông đảo nhất.

Những Thành Tựu Lưu Danh Hậu Thế

Văn minh Trung Hoa là một trong những nền văn minh lâu đời nhất và phức tạp nhất trên thế giới. Bắt đầu từ "cái nôi" Hoàng Hà mà người Trung Hoa cổ đại đã gây dựng nên văn minh rực rỡ, với những nhà nước đầu tiên là Hạ, Thương, Chu. Thời kì quân chủ chuyên chế phát triển đến đỉnh cao, có thể kể đến nhà Đường, nhà Minh [1368 – 1644] và nhà Thanh [1644 – 1911].


 

Học thuyết Nho giáo - thành tựu rực rỡ về lí luận của văn hóa Trung Hoa cổ đại 


Kể từ khi dựng nước về sau, nhân dân Trung Quốc đã tạo ra một nền văn hóa rực rỡ, nổi tiếng toàn thế giới đương thời. Những thành tựu rực rỡ về lí luận, học thuyết như Nho giáo, Đạo giáo,...; về văn học nghệ thuật như: cổ phong, thơ Đường, thơ tứ tuyệt, tứ đại danh tác: Thủy Hử, Hồng Lâu Mộng, Tây Du Ký, Tam Quốc Diễn Nghĩa; các bức tranh chữ của Vương Hy Chi,.... Nói về các thành tựu trong kiến trúc và các phát minh, chúng ta có thể liệt kê một vài thành tựu như Vạn Lý Trường Thành, Tử Cấm Thành, Di Hòa Viên, thành Trường An, bộ chữ tượng hình, thuốc súng, giấy, la bàn….
 

Vạn Lý Trường Thành ở Trung Quốc


Đặc biệt là thành tựu chữ viết, theo truyền thuyết, từ thời Thượng cổ, sử quan Thương Hiệt đã sáng tạo ra chữ viết. Sự thực, đến đời Thương, chữ viết của Trung Quốc mới ra đời. Loại chữ đầu tiên này khắc trên mai rùa và xương thú gọi là chữ Giáp cốt. Đến đời Tây Chu, Thời Chiến Quốc giai đoạn quá độ để phát triển thành chữ tượng hình, tức là chữ Hán ngày nay.

>>> Đọc thêm: Lạc Sơn Đại Phật - Bì Ẩn Đằng Sau Giọt Nước Mắt 

Văn học Trung Quốc rất phong phú và đa dạng, phát triển linh hoạt qua mỗi thời, phản ánh chân thực thời kỳ lịch sử, mỗi vương triều. Thời cổ đại, trước khi thống nhất các vương triều, văn học thời này quen gọi là văn học tiền Tần, trong nền văn học Trung Quốc đã xuất hiện nhiều tác phẩm kiệt xuất, trong đó nổi tiếng nhất là Tứ Thư - Ngũ Kinh


 

Tứ đại danh tác của Trung Hoa

Bài viết này có hữu ích với bạn hay không?

Rất hữu ích

Hữu ích

Không hữu ích

Video liên quan

Chủ Đề